Săn Học Bổng - Đích Đến Của Tôi Phải Là Nước Mỹ

Chương 6. Sống trên đất Mỹ



(Từ tháng Một năm 2009 đến nay)

“Có một câu nói rất ý nghĩa rằng: Hôm nay rất tàn khốc, ngày mai tàn khốc hơn, ngày kia rất tươi đẹp, nhưng hầu hết mọi người đều “chết” vào đêm “ngày mai”, nên không nhìn thấy ánh mặt trời của “ngày kia”. Âu cũng là một đạo lý. Nếu quan sát kỹ, có thể bạn sẽ nhận ra, người thành công nhất thường là người kiên trì lâu nhất, và đi được xa nhất.”

Lại nói về “nghe nói đọc viết”

Sau khi đến Mỹ, tôi cũng giống như bao nhiêu lưu học sinh khác, hàng ngày đều phải trải qua các bài kiểm tra, đánh giá kỹ năng tiếng Anh của mình. Cho dù trước đây ở trong nước tôi học chuyên ngành tiếng Anh, cho dù trước đây tôi từng đọc rất nhiều sách nguyên văn tiếng Anh, từng học thuộc rất nhiều từ vựng và luyện nghe, luyện nói suốt một thời gian dài, cho dù hiện nay tôi đã ở Mỹ được hai năm, song mỗi lần đối diện với bài tiểu luận hay công trình nghiên cứu, tôi vẫn cảm thấy dường như mình đang đứng trước một kỳ thi lớn, vẫn cảm thấy mình đang hứng chịu bao nhiêu đả kích lớn đả kích nhỏ trên các phương diện nghe, nói, đọc, viết. Cũng may, tôi bây giờ không còn là tôi thuở nhỏ. Mười năm qua, khi thì leo lên đỉnh núi, khi thì tụt xuống thung lũng, thất bại liên tiếp xảy ra, nhưng rồi tôi lại lóp ngóp bò dậy, không ngừng bước tiếp. Từ sự va chạm, cọ xát với thực tế, tôi dần dần biết đương đầu với khó khăn, thử thách; từ sự kiên trì, nhẫn nại, tôi dần dần biết tìm ra con đường giải quyết vấn đề. Tôi không còn lo lắng sốt ruột, cũng không còn nghĩ tới chuyện buông xuôi nữa, mà dồn hết tinh thần và sức lực vào việc làm sao chiến thắng được khó khăn, đồng thời coi mỗi khó khăn đến với mình là một bước ngoặt tiến bộ, một kinh nghiệm trưởng thành.

Trận chiến giằng co với Nghe

Tôi bàn về phương diện nghe trước nhé. Lần đầu tiên tôi bị một chấn động nhỏ ở phương diện nghe là lúc máy bay vừa mới đáp xuống sân bay quốc tế Chicago, tôi bắt đầu đặt chân đến nước Mỹ, nhân viên phục vụ thông báo cho chúng tôi biết, những hành khách nào muốn đi tới một thành phố khác sẽ phải quá cảnh ở nhà ga cuối cùng. Giọng chị ta nhẹ nhàng, ấm áp, nhưng tốc độ nói nhanh như gió. Không biết vì nhân viên phục vụ nói quá nhanh hay là vì tâm trạng của tôi ngày hôm ấy quá phấn khởi, quá căng thẳng, mà tóm lại là chị ta nói một tràng, nhưng tôi chẳng hiểu từ nào cả. Nhân viên phục vụ làm việc rất chuyên nghiệp, chị ta tóm tắt lại thông báo vừa rồi, tôi ngồi đó chăm chú nghe giống như tinh thần nghe đài phát thanh trước đây, vậy mà vẫn chỉ nghe bập bõm được một vài từ. Cảm giác của tôi lúc đó vô cùng hoang mang, hoảng hốt, tự xét lại trong lòng: Sao người Mỹ nói nhanh vậy, mình gần như không hiểu gì!

Sau này bắt đầu đi học, kết bạn mới, tôi mới dần nhận ra tốc độ nói của người Mỹ quả thật rất nhanh, họ nói nhanh hơn nhiều so với tốc độ nói trong phần thi nghe của các kỳ thi tiếng Anh ở trong nước, thậm chí có khi còn nhanh hơn tốc độ nói của các nhân vật đối thoại trên phim. Vào học kỳ đầu tiên, lúc nào tôi cũng phải dồn hết sức lắng nghe từng câu thầy cô giáo nói, vì chỉ cần một phút lơ là, họ đã nói liên tằng tằng được rất nhiều câu. Đã vậy, các bạn học của tôi còn nói nhanh hơn cả thầy cô. Có thể dùng cụm từ “nói nhanh như cướp” miêu tả tốc độ nói của sinh viên, học viên Mỹ. Hồi đó, tôi sợ nhất là việc thảo luận nhóm từ ba đến năm bạn, mỗi người nói một câu, tốc độ nói nhanh hơn bình thường. Ban đầu tôi không nói chen được vào, vì trước hết tôi cần một thời gian nhất định để phản ứng trước lời nói của các bạn, phân biệt xem mỗi người nói ý gì, thể hiện quan điểm gì, tiếp đến hình thành ý nghĩ, quan điểm của mình ở trong đầu, sau đó sắp xếp những ý nghĩ đó thành câu văn tiếng Anh hoàn chỉnh. Với tốc độ “nói nhanh như cướp” ấy, đợi đến khi tôi kết thúc quá trình suy nghĩ, thì mọi người đã thảo luận xong n vòng từ họ tới tôi rồi. Sau mấy tuần đầu chịu đả kích, trong lòng tôi chỉ có một nghi hoặc: Chẳng lẽ trước đây mình học tiếng Anh đều là học vẹt?

Tôi tranh luận với mẹ, tôi học tiếng Anh ở trong nước nhiều năm như thế, tự cho rằng mình giỏi giang lắm, nhưng đến khi sang Mỹ rồi, tôi mới vỡ lẽ mình hoàn toàn không theo kịp tiến độ của người ta, đơn giản là vì tôi học vẹt. Mẹ nói: “Không phải là ‘học vẹt’, mà là ‘học chưa đến nơi đến chốn’. Bình thường con nói tiếng Hán cũng rất nhanh, nhưng tại sao mẹ vẫn nghe hiểu được? Đó là vì mẹ nói tiếng Hán cả đời, nó vô cùng quen thuộc với mẹ. Với một thứ vô cùng quen thuộc đối với con, cho dù nó có khó, có nhanh đến đâu đi nữa, thì cũng không thể đánh gục con.”

Trong tích tắc, tôi hiểu ra một đạo lý. Tôi đã thực hiện xong giai đoạn học tập ở trong nước, bây giờ đến Mỹ, tôi bắt đầu triển khai các bài học mới, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi hoàn toàn chấm dứt quá trình học tiếng Anh. Sau khi đến Mỹ, tôi vẫn phải tiếp tục sống, vẫn phải tiếp tục học, và càng phải tiếp tục quá trình học tiếng Anh của mình. Tôi học tiếng Anh là để nâng cao một loại kỹ năng, nên không có cái gọi là “điểm kết thúc”. Cũng có thể bạn học rất giỏi rồi, nhưng bạn vẫn luôn có không gian tiến bộ nhiều hơn nữa. Trước đây, tôi học tiếng Anh ở trong nước không phải là học vẹt, căn bản cũng không thể học vẹt được. Qua trải nghiệm thực tế, giờ tôi nhận ra mình học chưa đủ, tôi cần lợi dụng tốt hơn môi trường xung quanh mình để nâng cao kỹ năng tiếng Anh của mình. Khi còn ở trong nước, tôi luyện nghe bằng cách nghe đài, xem phim, hiện tại xung quanh tôi toàn là những người nói tiếng Anh, bất cứ lúc nào cũng có thể luyện nghe. Vậy tại sao tôi không lợi dụng thật tốt cơ hội tốt này?

Vì vậy, tôi thay đổi tâm trạng, nghiêm túc lợi dụng từng cơ hội nhỏ để luyện nghe. Khi lên lớp, tôi rất chú ý nghe giảng, có chỗ nào không hiểu tôi sẽ tùy cơ hỏi bạn Mỹ ở bên cạnh. Khi hết giờ, tôi cũng thường dỏng tai “nghe trộm” câu chuyện phiếm của các bạn Mỹ ngồi gần. Bình thường đi trong sân trường, khi có các bạn Mỹ đi lướt qua vai mình, tôi cũng cố ý nghe xem họ đang nói những gì. Lâu dần, tôi nhận ra càng ngày mình càng nghe hiểu nhiều thứ, càng ngày mình càng quen với tốc độ nói nhanh của bọn họ. Phân tích kỹ, tôi cho rằng, đối với tôi mà nói, có thể có một số nguyên nhân dưới đây làm tôi đôi khi nghe không hiểu:

Thứ nhất, thiếu hiểu biết về nội dung chủ đề câu chuyện. Đơn cử như một ví dụ điển hình là: Tôn giáo. Khi đi cùng bạn tới nhà thờ, tôi không hiểu phần lớn nội dung thầy tu nói. Tôi “không hiểu” không phải là vì tôi nghe không hiểu lời ông ta nói. Tôi đều hiểu hết lời ông ta nói, nếu đưa cho tôi một quyển sổ, tôi có thể chép lại y nguyên từng câu ông ta nói. Nguyên nhân dẫn đến việc tôi nghe không hiểu ở đây là tôi không hiểu bối cảnh tri thức nằm trong nội dung lời nói của ông ta, ví dụ như lịch sử diễn biến của một giáo phái nào đó, tín ngưỡng của một giáo phái nào đó, hay nội dung nghi thức của một giáo phái nào đó…

Thứ hai, có rất nhiều từ địa phương mà tôi không biết ý nghĩa của nó là gì. Tiếng Anh là một ngôn ngữ phát triển, diễn tiến rất nhanh. Trước đây, nó bao gồm rất nhiều từ địa phương và từ lóng, nhưng vì bây giờ mạng internet thịnh hành nên lượng từ mới tăng lên gấp bội. Mặc dù hồi ở trong nước, tôi từng đọc qua rất nhiều thứ như “tổng hợp từ địa phương thường sử dụng trong tiếng Anh”, hay tôi từng học được rất nhiều từ địa phương bằng cách xem phim truyện, nhưng đến khi thực sự bước vào môi trường rộng lớn này, tôi mới nhận ra những gì mình biết chỉ là một hạt cát trong sa mạc, vẫn còn có rất nhiều, rất nhiều thứ tôi cần phải học tập và cần phải tích lũy.

Thứ ba, vấn đề giọng nói “khủng bố”. Đây cũng là một nguyên nhân tạo nên những trở ngại về phương diện nghe. Có thể nghe hiểu giọng Mỹ hoặc giọng Anh chuẩn đã là khó rồi, nghe giọng không chuẩn càng khó hơn nữa. Ở Mỹ, người dân của các khu vực khác nhau, các sắc tộc khác nhau đều mang giọng nói đặc trưng của mình, cũng như các địa phương ở Trung Quốc đều có giọng nói và phương ngôn của địa phương mình, đôi khi những người đến từ hai miền Nam Bắc cũng nghe không hiểu tiếng địa phương của nhau. Ở Mỹ, nhiều khi người da trắng cũng không hiểu thứ tiếng Anh người da đen nói, người phương Bắc cũng cảm thấy giọng nói của người phương Nam rất khó nghe. Người Mỹ còn như thế nữa là đám sinh viên, học viên quốc tế sang đây học tập.

Muốn khắc phục ba nguyên nhân trên để từng bước nâng cao kỹ năng nghe của mình, tôi chỉ có thể thích ứng dần dần qua quá trình rèn luyện, tích lũy suốt một thời gian dài. Đối với nguyên nhân không hiểu nội dung câu chuyện, tôi lên mạng tra cứu tài liệu hoặc đọc sách để mở rộng kiến thức của mình. Đối với nguyên nhân nghe từ địa phương mới, tôi tiện tay viết lại, tra rõ ý nghĩa và cố gắng sử dụng nó trong quá trình giao tiếp hàng ngày. Hay cũng chính là đạo lý: Chỉ khi bản thân chủ động vận dụng tri thức thì mới có thể nhớ kỹ được nó. Còn về vấn đề giọng nói, tôi chỉ có thể nâng cao kỹ năng nghe bằng cách nói chuyện nhiều với người khác. Đây là một quá trình lâu dài, và cũng là một quá trình hình thành thói quen, giống như một người Phương Bắc lần đầu chuyển đến Thượng Hải sinh sống không thể hiểu tiếng Thượng Hải, nhưng mưa dầm thấm lâu, qua một thời gian dài, nhất định người đó sẽ dần dần hiểu được.

Từ khi đặt chân đến Mỹ cho tới nay, tôi đã có khoảng thời gian hơn hai năm sống trong môi trường này. Nói thực, tôi vẫn chưa hiểu được 100% lời người khác nói. Có lẽ cũng không thể dùng con số 100% đơn giản ấy để hình dung việc này. Nhưng tôi cảm nhận rõ rệt sự tiến bộ của mình, tôi nghe quen giọng nói của người địa phương, thậm chí tôi còn nhận ra người nào là người đến từ nơi khác trong một đám người Mỹ qua giọng nói của họ. Bản thân tôi nhận thấy rằng, những tiến bộ trên phương diện nghe đến rất chậm, nhưng chúng ta tuyệt đối không được vì thế mà từ bỏ việc luyện tập, tuyệt đối không được lầm tưởng rằng mình đã đạt thành quả cực lớn khi chỉ mới luyện tập trong vòng một, hai tháng ngắn ngủi. Chúng ta phải kiên trì, kiên trì, kiên trì nhiều hơn nữa; phải tích lũy, tích lũy, tích lũy nhiều hơn nữa. Ngoài ra, còn có một điểm vô cùng quan trọng là chúng ta đừng tính đếm sự tiến bộ của mình theo đơn vị ngày, vì làm vậy dễ dẫn đến hai hệ quả tiêu cực: một là ăn xổi ở thì, hai là dễ bị đả kích. Nếu thật sự muốn nâng cao kỹ năng nghe từ gốc rễ, chúng ta nhất định phải chuẩn bị giằng co trong thời gian lâu dài. Bạn phải tin rằng, tiến bộ lớn được tạo nên từ rất nhiều tiến bộ nhỏ cũng như tương lai được tạo nên từ rất nhiều “ngày hôm nay”. Chỉ cần mỗi ngày bạn làm một ít và không bỏ dở giữa chừng, thì tương lai mai này nhất định bạn sẽ cảm thấy tự hào vì sự tiến bộ của mình. Khi bạn quay đầu nhìn lại những dấu chân đã qua của mình, bạn sẽ cầm lòng không đặng mà thốt lên rằng: Trời ơi, thật không ngờ, trong lúc không để ý, tôi đã đi xa được đến vậy.

Nâng cao kỹ năng nói bắt đầu từ việc dũng cảm mở miệng nói

Ở Mỹ, có thể nói vấn đề làm tôi đau khổ tột cùng là sự đả kích trên phương diện nói. Tôi từng đạt 28 điểm trong phần thi nói TOEFL, nên hồn nhiên cho rằng mình không có vấn đề gì về kỹ năng nói. Cho tới khi sang Mỹ, tôi mới ngớ người nhận ra suy nghĩ của mình thật là ấu trĩ!

Vào tiết học đầu tiên của học kỳ thứ nhất, thầy giáo cho mọi người luân phiên, tự giới thiệu về mình. Các bạn khác đều là người Mỹ nên nói trôi chảy và tốc độ nói cũng nhanh, tôi cảm thấy sợ hãi, tim đập thình thịch. Tôi ngầm tổ chức ngôn ngữ, chọn lọc câu từ ở trong đầu, giận bản thân mình tại sao trước đó không chuẩn bị sẵn một bài giới thiệu nhỏ về bản thân. Khi thứ tự càng chuyển gần đến phiên tôi, tim tôi càng đập mạnh, đến khi bạn nữ sinh ngồi bên cạnh tôi bắt đầu nói, tôi có cảm giác tim mình sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Và khi đến lượt tôi, thì tôi nói liên tằng tằng, gần như tôi không biết mình đang nói gì, nhưng tôi có thể nghe thấy giọng mình run run, cảm giác mặt đỏ đến tận mang tai. Tôi vừa nói, vừa cảm thấy rất căng thẳng, có mỗi một câu mà nói đi nói lại mãi, đến bản thân mình nghe cũng cảm thấy chối tai nữa là.

Mọi khi tôi là đứa nói nhiều, hơn nữa tốc độ nói tiếng Trung của tôi cũng rất nhanh, dù gặp người quen hay người không quen, tôi cũng đều nói chuyện rôm rả với người ta. Nhưng từ sau giờ học đầu tiên trên đất Mỹ, tôi không còn tự tin vào khả năng nói tiếng Anh của mình, lần đầu tiên trong lịch sử, tôi biến thành một người trầm lặng ít nói: Vào lúc nghỉ giữa giờ, tôi không dám ngẩng đầu lên, giả bộ như một người đang cúi đầu viết, vì tôi sợ có người chạy tới bắt chuyện với mình, sợ không biết nói với người ta những gì, sợ nói sai sẽ bị người ta cười chê; đến khi tan học, tôi cũng chẳng dám trò chuyện với các bạn cùng lớp, mọi người đều nói nói cười cười bàn luận về các loại chủ đề, còn mình tôi lủi thủi về nhà nấu cơm, nhét đầy cái dạ dày của mình.

Trốn tránh mãi không phải là cách, nhất định phải tìm ra kế sách đối phó. Tôi suy nghĩ kỹ rồi nhận ra, một trong những mối lo lớn nhất của mình trên phương diện nói là vấn đề ngữ điệu. Trước đây tôi từng nghe đoạn ghi âm khẩu ngữ của mình, cảm thấy ngữ điệu đều đều, nhưng người Mỹ lại rất nhấn mạnh vào ngữ điệu khi nói, cảm giác ngữ điệu trầm bổng du dương. Vì thế, để luyện ngữ điệu trầm bổng cho mình, tôi bắt đầu bắt chước ngữ điệu người khác nói. Ví dụ, khi đi siêu thị mua đồ, tình cờ nghe được câu chuyện hai vợ chồng nhà nọ bàn xem nên mua cái gì, tôi sẽ lẩm nhẩm bắt chước ngữ điệu của họ ở trong lòng, tự nói lại nhiều lần. Hoặc là khi xem phim, nghe ngữ điệu của một câu nào đó có vẻ lạ lẫm, tôi sẽ cho tạm dừng đoạn phim, bắt chước ngữ điệu câu nói đó nhiều lần. Vào những lúc nói chuyện bình thường, tôi cũng chú ý vận dụng ngữ điệu mình học được vào nói. Do khả năng bắt chước của tôi rất cao, nên sau hai năm luyện tập, tôi nhận thấy thứ tiếng Anh mình nói cũng dần dần có hồn có điệu.

Mối lo lớn thứ hai của tôi trên phương diện nói là không biết phải diễn đạt ý mình muốn nói như thế nào, vì tôi luôn bị hạn chế về lượng từ vựng và cấu trúc câu. Sau này phải mất một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu rất lâu, tôi mới nghĩ ra một phương pháp tốt nhất – ít nhất là nó tốt nhất đối với tôi – đó là năng giao lưu với người khác, học cách nói hay nhất phát ra từ miệng người khác, sau đó ghi nhớ nó và vận dụng nó. Ví dụ, ngày thứ nhất nói chuyện với bạn A, tôi học được mấy cách diễn đạt của bạn, buổi tối tôi lên mạng tra rõ ý nghĩa và cách sử dụng những câu đó rồi ghi vào sổ tay của mình. Đến ngày hôm sau, tôi sẽ cố ý sử dụng những cách diễn đạt mới học được trong lúc trò chuyện cùng bạn B. Thật ra, phương pháp này nghe có vẻ ngốc nghếch, nhưng chẳng phải hàng ngày chúng ta cũng học hỏi theo kiểu này ư. Ví dụ như khi từ “ban cho sức mạnh” vừa mới xuất hiện trên mạng internet cũng là một truyền mười, mười truyền một trăm. Một người nào đó biết từ đó trước, hàng ngày cứ mở miệng ra là nói đến nó, ban đầu bạn cũng chẳng hiểu từ đó có nghĩa là gì, nhưng về sau biết được ý nghĩa của nó, bạn cũng bắt đầu sử dụng nó hàng ngày và người khác lại học cách sử dụng nó từ chỗ bạn. Có muôn vàn cách diễn đạt khác nhau trong tiếng Anh, chúng ta hãy mở rộng lượng từ vựng khẩu ngữ của mình thông qua quá trình tích lũy dần dần, đồng thời nắm vững từ vựng hơn dựa vào việc thường xuyên luyện tập, vận dụng từ vựng trong thực tiễn.

Mối lo lớn thứ ba của tôi trên phương diện nói là vấn đề thể diện. Thật lòng mà nói, đôi khi tôi không dám nói tiếng Anh là vì những tác động rất lớn về mặt tâm lý: sợ nói sai, sợ bị người khác cười nhạo, sợ mất thể diện. Nhưng, không té ngã, làm sao biết đi? Không sặc nước, làm sao biết bơi? Có câu danh ngôn, thất bại là mẹ thành công, không có thất bại, thử hỏi lấy đâu ra thành công? Sợ sai, thì làm sao có thể tiến bộ? Sự thật đúng là như vậy: Mỗi khi tôi từ chối giao tiếp với người khác vì sợ sai, sợ mất thể diện, tôi luôn cảm thấy rất áy náy, rất khó chịu, và cũng vì mấy ngày không mở miệng nói mà trình độ nói của tôi càng kém hơn. Ngược lại, mỗi khi tôi mang tâm trạng chẳng sợ mắc lỗi, dũng cảm mở miệng nói, tôi lại cảm thấy rất vui, trình độ nói của tôi cũng có tiến bộ nhờ việc không ngừng luyện tập.

Thực tiễn chứng minh, cho dù bạn học được nhiều cách diễn đạt, tích lũy được nhiều từ địa phương đến đâu đi nữa, nếu không chịu mở miệng nói, bạn sẽ chẳng có bất kỳ tiến bộ gì về kỹ năng nói. Kiến thức không được vận dụng đều là kiến thức chết, chỉ có kiến thức được vận dụng mới là kiến thức sống. Tương tự như việc tôi nói tiếng Hán lưu loát là bởi vì từ lúc sinh ra cho đến giờ, ngày nào tôi cũng nói tiếng Hán. Mặc dù tôi chưa ý thức được điều đó, nhưng kỳ thực tôi đã tích lũy vốn liếng tiếng Hán hơn hai mươi năm qua quá trình luyện tập hàng ngày. Nếu tôi chỉ nghe người khác nói tiếng Hán, nhìn người khác viết tiếng Hán, còn bản thân tôi không hề nói một câu nào, thì vào lần đầu tiên mở miệng nói tiếng Hán, chắc chắn tôi cũng căng thẳng, hồi hộp như nói tiếng Anh mà thôi. Cho nên, muốn nâng cao kỹ năng nói, bạn nhất định phải bắt đầu từ việc dũng cảm mở miệng nói.

“Quan hệ song sinh” giữa Đọc và Viết

Ở Mỹ, sau mỗi giờ học, thầy cô giáo của mỗi môn đều căn dặn học viên đọc vô số tài liệu, sách vở. Không đọc, thì lên lớp không hiểu nội dung bài giảng của thầy cô. Không đọc, thì lên lớp không thể tham gia thảo luận trong giờ. Không đọc, thì về nhà chắc chắn sẽ không viết được bài tiểu luận, cho dù viết xong, thầy cô cũng có thể yêu cầu bạn viết lại vì lý do nội dung bài viết rỗng tuếch. Cho nên, đọc sách chuyên ngành trở thành một trong những việc quan trọng nhất trong cuộc sống của tôi. Ban đầu, cầm mấy cuốn sách dày cộp, tôi không biết phải bắt đầu đọc từ đâu. Tôi tiện tay mở một cuốn trong số đó ra, sau khi đọc nghiêm túc một chương, tôi nhận thấy mình phải mất hơn một tiếng đồng hồ mới đọc xong một chương, tốc độ đọc chậm như rùa bò.

Nghiên cứu đi nghiên cứu lại, tôi phát hiện ra kẻ thù lớn nhất làm chậm tốc độ đọc của mình vẫn là vấn đề về lượng từ vựng. Ngày trước học từ vựng GRE, tôi bị suy sụp tinh thần nên đối với việc đốn cái cây đại thụ này, tôi thề là sau khi thi GRE xong, tôi tuyệt đối sẽ không động vào số từ vựng xấu xa đó nữa. Tôi thấy có người ở trên mạng nói: “Khi đến Mỹ học cao học rồi, tôi mới biết từ vựng GRE cũng hữu dụng.” Lúc đó, tôi cảm thấy khó hiểu, thầm nghĩ: “Làm sao có thể? Sao lại có người sử dụng những từ vựng không có ‘nhân tính’, tối nghĩa, ‘biến thái’ như thế vào bài viết của mình được nhỉ?” Nhưng từ khi thực sự đến Mỹ, thực sự phải làm tiểu luận nghiên cứu học thuật, phải đọc tài liệu chuyên ngành, tôi mới nhận ra, hóa ra từ vựng GRE có ích ở mọi chỗ. Đúng vậy, GRE là kỳ thi đầu vào cao học ở Bắc Mỹ, nếu như trong quá trình học cao học ở Bắc Mỹ không cần sử dụng những từ vựng đó, thì người ta bắt bạn thi làm gì? Họ bắt bạn phải thi thì nhất định phải có mục đích của nó. Không biết từ vựng, một mặt không thể hiểu cặn kẽ nội dung bài học, mặt khác còn làm chậm đáng kể tốc độ đọc, bởi vậy nên chúng ta bắt buộc phải nắm vững từ vựng GRE!

Kẻ thù lớn thứ hai làm chậm tốc độ đọc của tôi chính là phương pháp đọc sách của tôi. Mỗi học kỳ có bao nhiêu môn phải học, mỗi môn lại có bao nhiêu sách tham khảo phải đọc, nếu đọc từng trang một, thì đến khi đọc xong những cuốn sách đó, có lẽ hoa cũng héo tàn, còn đợi đến khi viết xong tiểu luận, e rằng thầy cô cũng sắp về hưu đến nơi rồi. Vì vậy, tôi bắt đầu nghĩ cách rút ngắn thời gian đọc sách, tôi quyết định chỉ đọc trọng tâm của mỗi cuốn sách. Sau khi có ý nghĩ này, tôi lại có dịp phát huy kỹ năng “tìm câu nòng cốt, tìm câu chủ đề” mà mình từng học được trước đây. Phương pháp này không những giúp tôi tìm ra trọng tâm, nhận biết luận cứ, mà còn giảm thiểu rất nhiều thời gian đọc sách. Vì vậy, tôi biết ơn từng nỗi vất vả mà mình bỏ ra và từng kỹ năng mà mình học được trong quá trình ôn tập phần đọc của kỳ thi TOEFL và GRE. Lần sau về nước, nhất định tôi sẽ tìm lại cuốn 39+3 ngày tổng tấn công phần đọc trong kỳ thi GRE,nghiên cứu nghiêm túc năm lượt!

Mục đích đọc sách tham khảo là để viết tiểu luận tốt hơn, nhưng trong bốn phần nghe, nói, đọc, viết, tôi lại chịu đả kích lớn nhất ở phần viết. Trước đây ôn thi TOEFL và GRE, tôi không kiên nhẫn luyện viết, mỗi ngày đều phải sử dụng phương pháp “không viết xong bài thì không ăn cơm”, gượng ép bản thân mau chóng hoàn thành nhiệm vụ viết luận theo thời gian đã định. Lúc đó, tôi chưa từng nghĩ tới chuyện kỹ năng viết mà mình rèn luyện được đó lại cứu vớt tôi vô số lần, giúp tôi giành bao nhiêu điểm A sau khi vượt trùng dương.

Vì ở Mỹ hàng ngày đều có các bài tập tiểu luận, cho nên tôi phải ép mình viết thường xuyên. Lần đầu tiên viết một bài tiểu luận chính thức, tôi cảm thấy rất không quen, vì thầy cô không những có yêu cầu cực kỳ khắt khe về nội dung bài viết, mà còn có quy định nghiêm ngặt cả về căn lề, dãn dòng trong trang word. Ban đầu, tôi hoàn toàn không biết phải bắt đầu viết từ đâu, về sau lần mò dần dần, tôi nhận ra mỗi bài tiểu luận đều giống như một bài văn bát cổ đồ sộ, kết cấu của bài tiểu luận cũng giống như kết cấu hành văn của một bài văn nghị luận mà tôi đã nói đến ở chương trên. Quan trọng hơn là, qua thực tiễn luyện tập, tôi nhận ra đọc và viết như một cặp chị em sinh đôi: Cái nào đọc càng nhiều thì viết ra càng hay, càng trôi chảy; cái nào viết càng nhiều, thì đến khi đọc sách càng dễ tìm ra trọng tâm, vì lúc đó bạn hiểu rõ kết cấu cơ bản của một bài viết rồi nên sẽ biết mình nên đọc kỹ những phần nào, nên đọc lướt qua những phần nào khi không có đủ thời gian.

Hai năm trở lại đây, kỹ năng viết tiếng Anh của tôi được nâng cao nhờ đọc một số lượng lớn sách chuyên ngành, điều này chứng tỏ đọc chắc chắn giúp ích rất nhiều cho viết, cái đó gọi là có “vào” mới có “ra”. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng, muốn nâng cao kỹ năng viết từ cơ bản, bạn vẫn phải dựa vào việc tự mình cầm bút viết mới được. Chỉ có cầm bút luyện viết nhiều, bạn mới có thể biết mình sai ở đâu: Là sai ở ngữ pháp? Sai ở kết cấu? Sai ở dùng từ nghèo nàn? Hay là sai ở luận chứng suông? Trong hai năm học cao học, tôi cũng giống như các bạn lưu học sinh khác, viết mấy chục bài tiểu luận lớn nhỏ, tổng cộng cũng đến mười mấy vạn từ vựng. Cảm nhận ban đầu khi viết là sợ hãi, mệt mỏi, chán nản, tê dại, nhưng đến khi kết thúc toàn bộ quá trình học tập, tôi nhận ra kỹ năng viết của mình tốt hơn trước rất nhiều. Quả đúng là có cho đi mới có nhận lại.

Thứ tiếng Anh này!

Thứ tiếng Anh này – nói một cách chính xác hơn là – thứ ngôn ngữ này, vốn có đầu chẳng có đuôi. Quá trình học ngôn ngữ khác gì đi trên một con đường có điểm khởi đầu mà không có điểm kết thúc. Ngôn ngữ là một loại kỹ năng, đã là kỹ năng thì chỉ cần chăm chỉ luyện tập, chắc chắn sẽ ngày một nhuần nhuyễn qua sự tích lũy liên tục qua năm tháng. Cũng giống như trình độ tiếng Anh của tôi bây giờ tốt hơn hồi đại học rất nhiều, còn tôi của năm năm sau, nhất định còn giỏi hơn tôi của ngày hôm nay gấp nhiều lần. Có thể nói tôi đạt kết quả “viên mãn” trong chiến dịch tiêu diệt hai kỳ thi TOEFL và GRE ở trong nước, nhưng đó chỉ là những kỳ thi đánh giá trình độ tiếng Anh của tôi mà thôi. Điểm số cao trong những kỳ thi đó không đồng nghĩa với việc tôi cực kỳ nắm vững loại kỹ năng này, hay nói cách khác, tôi vẫn phải từng bước nâng cao nó qua quá trình không ngừng luyện tập, không ngừng tích lũy. Giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy việc công phá các kỳ thi tiếng Anh cũng tương đối đơn giản, chỉ cần học thuộc từ vựng, mua tuyển tập đề thi của các năm về đánh dẹp từng trang, làm nhiều đề thi là được. Còn làm sao nâng cao kỹ năng tiếng Anh từ cơ bản, làm sao tiến bước trên con đường bủa giăng tầng tầng lớp lớp khó khăn, thì vẫn cần phải kiên trì.

Các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong tiếng Anh có mối quan hệ bổ trợ cho nhau, không thể tách rời. Học giỏi một kỹ năng có thể giúp ích được cho ba kỹ năng còn lại. Người xưa có câu “Sách đọc vỡ muôn quyển. Hạ bút như có thần”, mối quan hệ tương tác giữa đọc và viết không chỉ đúng với tiếng Trung, mà còn đúng với các loại ngôn ngữ khác. Thêm một ví dụ nữa, trẻ con học nói, có khi là do phụ huynh dạy trẻ nói từng từ một, cũng có khi là do trẻ nghe phụ huynh nói nhiều rồi tự biết. Từ đó có thể thấy, nghe bổ trợ cho nói. Chúng ta có thể lấy thêm một số ví dụ cụ thể xung quanh mình để chứng minh cho đạo lý này, và để hiểu rõ hơn về chúng. Cho nên, trong quá trình luyện tiếng Anh, nhiều người phân tách rạch ròi bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết là một cách làm rất không hợp lý.

Ngoài ra, xét từ góc độ cá nhân tôi, chung quy tất cả “bí quyết” liên quan đến việc làm sao thành công đều nằm ở hai chữ: Kiên trì. Nói thì dễ, làm mới khó. Mỗi người đều có thể cảm nhận hai chữ này từ nhiều con đường khác nhau, ví dụ bạn kiên trì đọc sách trong nhiều năm, mọi người sẽ gọi bạn là người có kiến thức sâu rộng; bạn kiên trì rèn luyện sức khỏe trong nhiều năm, ắt hẳn có một cơ thể săn chắc; thậm chí bạn kiên trì lên mạng lướt qua tin tức giải trí hàng ngày, thì sẽ trở thành người tinh thông “bát quái”; hay bạn kiên trì chơi Warcraft hàng ngày, thì sẽ luyện thành vua Warcraft mang sức mạnh vô địch trong vũ trụ. Bất luận là có ý thức hay không có ý thức, bạn cũng sẽ nhận ra mình làm việc nhiều rồi tự nhiên thành quen.

Học tiếng Anh cũng tương tự như đạo lý này. Từ nhỏ tới lớn, tôi chỉ sử dụng một phương pháp, một tài liệu học tiếng Anh đơn nhất, nên khi người khác hỏi tôi một tài liệu nào đó có tốt hay không, một phương pháp học tập nào đó có hiệu quả hay không, tôi đều không thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng, vì tôi chưa từng thử sử dụng qua tài liệu đó, phương pháp đó. Suốt hành trình học tiếng Anh, tôi chỉ làm một việc đơn giản là làm việc cần làm tại một giai đoạn nào đó: Khi đứng trước kỳ thi, tôi nghiêm túc nghiên cứu, tìm hiểu đề thi của các năm; khi nâng cao kỹ năng, tôi chọn lấy một phương pháp rồi kiên trì đi đến cùng.

Tôi chợt nhớ thuở nhỏ tôi rất sợ tiếng Anh, tôi cho rằng chỉ những người có tư duy khác thường, diện mạo khác thường mới có thể nắm vững ngôn ngữ của một nước khác. Bây giờ tôi mới nhận ra, thật ra học ngoại ngữ cũng không phải là một quá trình quá kinh khủng hay quá gian nan, cũng không có cái gì gọi là “bí quyết”, “bí thư” hay “đường tắt” đáng nói ở đây cả. Yêu cầu duy nhất cần phải làm là tìm một phương pháp thật sự phù hợp với bạn và kiên trì đi theo nó đến cùng. Tiếng Anh của tôi cũng bắt đầu từ “bác cả năm”, sau đó liên tiếp phải nếm trải thất bại và đả kích, song tôi vẫn “mặt dày như cái thớt” tiếp tục kiên trì, không ngừng thử nghiệm, không ngừng luyện tập, không ngừng tích lũy nên mới đi tới được ngày hôm nay. Nói một cách công bằng, nếu bạn cho rằng trình độ tiếng Anh của tôi giỏi hơn bạn, thì chẳng qua là vì tôi kiên trì lâu hơn bạn, may mắn tìm được phương pháp học tập thích hợp với mình và luôn kiên trì đi theo phương pháp học tập đó, chứ không đổi đi đổi lại, nay thế này, mai thế khác. Thế nhưng, cùng lúc này, chắc chắn trên thế giới vẫn còn có hàng nghìn hàng vạn người có trình độ tiếng Anh giỏi hơn tôi rất nhiều, vì thực sự tôi cũng chưa bỏ ra nhiều công sức vào học tiếng Anh, tôi vẫn cần phải tiếp tục kiên trì, tiếp tục nỗ lực trong thời gian tới.

Cảm nhận về sự trưởng thành

Về kiên trì

Xuyên suốt cuốn sách dài như thế này, tôi luôn trở đi trở lại nhấn mạnh hai chữ: Kiên trì. Hễ động đến chủ đề kiên trì, tôi lại thấy quá khó nói, cảm giác đây dường như là một con đường tối đen như mực, không có ánh sáng, cũng không biết nó dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu, thậm chí tôi còn chẳng biết điểm đến phía trước có lối ra hay không.

Đơn cử chúng ta hãy nhìn chuyện kiên trì vô hình vô ảnh này từ góc độ học từ vựng GRE nhé. Tôi biết từ vựng GRE vừa nhiều, vừa khó, song tôi cũng hiểu rõ, tôi bắt buộc phải hoàn thành việc này, vì nếu không làm vậy, tôi sẽ chẳng thể nào ôn tập được các phần tiếp theo trong kỳ thi GRE. Nên, mặc dù trong lòng hoàn toàn không muốn học, nhưng tôi vẫn phải cố gò mình học. Cá Béo Ướp Muối từng nói, khi làm việc thì chỉ lo làm việc, đừng suy nghĩ lung tung. Vì vậy, tôi không dám nghĩ nhiều đến chuyện ngày sau sẽ như thế nào, tôi chỉ tâm tâm niệm niệm mỗi ngày hãy sống cho hiện tại, ngày nào lo hoàn thành nhiệm vụ của ngày ấy. Nếu có thể hoàn thành nhiệm vụ trong ngày, thì đến tối đi ngủ tôi sẽ cảm thấy rất hài lòng, rất hưng phấn; còn nếu không hoàn thành nhiệm vụ trong ngày, đến tối chắc chắn tôi sẽ cảm thấy rất áy náy, day dứt, ngày hôm sau ắt hẳn sẽ dậy sớm hơn để làm bù nhiệm vụ vẫn còn đang dang dở trước đó. Như vậy mỗi một ngày trôi qua, tôi vô hình “kiên trì” thêm một chút! Trong quá trình kiên trì này, tôi cũng không lãng phí thời gian suy nghĩ: “Hãy xem, tôi đây đang kiên trì, nhưng liệu sau này tôi có thể tiếp tục kiên trì được nữa không?”

Quả đúng là đạo lý: Bạn đừng nghĩ, bạn hãy làm đi!

Có một câu nói rất ý nghĩa rằng: Hôm nay rất tàn khốc, ngày mai tàn khốc hơn, ngày kia rất tươi đẹp, nhưng hầu hết mọi người đều “chết” vào đêm “ngày mai”, không được tận mắt nhìn thấy ánh mặt trời của “ngày kia”. Âu cũng là một đạo lý. Nếu như quan sát kỹ, có thể bạn sẽ phát hiện ra, người thành công nhất thường là người kiên trì lâu nhất, đi được xa nhất. Tôi quan sát thấy, những nhân vật xuất chúng ở các lĩnh vực khác nhau trên thế giới trước nay đều có chung một đặc điểm là luôn chuyên tâm làm việc, dù gặp khó khăn, đả kích gì đi chăng nữa, họ cũng vẫn chuyên tâm giải quyết vấn đề khó khăn và tiếp tục công việc của mình. Khi nhận ra mình không còn ham thích làm việc giống như trước đây, họ cũng sẽ không nghĩ tới chuyện từ bỏ, mà chỉ nghĩ làm thế nào không ngừng sáng tạo trên nền tảng vốn có, làm thế nào vượt qua chính mình, mỗi ngày một tốt hơn.

Trong quá trình kiên trì, nếu cảm thấy không có tâm trạng và động lực phấn đấu vì gặp thất bại, bạn phải làm sao đây? Lúc này, bạn hãy chọn phương án dũng cảm thay đổi tâm trạng, đừng lẩn tránh, hoặc là chẳng làm gì, chờ tâm trạng quay về tìm bạn. Cảm giác vững chãi, cảm giác an toàn và tâm trạng đều được tạo nên từ sự nỗ lực học tập, nỗ lực làm việc, nào phải suy nghĩ vẩn vơ là có được. Chỉ khi nắm được thành quả đạt được trong tay bằng những sự cố gắng, nỗ lực thiết thực, chúng ta mới cảm nhận được sự an toàn và vững chãi. Đó là một mối quan hệ nhân quả tinh tế, kỳ diệu, tuyệt đối không thể đảo ngược vị trí. Theo tôi, nếu một người muốn làm một việc nào đó, nhưng lại cảm thấy không có động lực, thì điều đó chứng tỏ ham muốn làm nên việc đó của anh ta không đủ mạnh, hoặc là áp lực không đủ lớn, hoặc là thật ra trong sâu thẳm đáy lòng, anh ta đã sẵn sàng đón nhận hậu quả của việc không làm nên việc đó. Giả sử không hoàn thành nhiệm vụ của ngày hôm nay hoặc không đạt được mục tiêu nào đó, anh ta sẽ chết ngay khi chuông đồng hồ điểm mười hai giờ đêm, vậy thì anh ta có còn cảm thấy không có động lực không?

Trước đây tôi là một người có được một chút thành công là dễ dương dương tự đắc, vênh váo kiêu ngạo. Trước khi đi du học, tôi say trong niềm vui chiến thắng, vì nghĩ mình chịu khổ nỗ lực trong nhiều năm, cuối cùng cũng vượt qua được bao nhiêu khó khăn về tiếng Anh rồi. Nhưng, cũng chính vào lúc tôi cho rằng mình tài giỏi lắm ấy, tôi lại chịu sự đả kích nặng nề trên đất Mỹ: Nói không được, nghe không hiểu, cũng không biết phải bắt đầu đọc cuốn sách chuyên ngành dày cộp từ đâu. Một, hai tháng đầu mới đến Mỹ, tôi suy nghĩ rất tiêu cực, rất tuyệt vọng, không hiểu tại sao bản lĩnh của mình lớn như thế mà sang đây lại thấy tự ti. Mỗi ngày tôi đều ghi lại những ý nghĩ của mình lên blog, nhằm bộc lộ cảm nhận thông qua phương thức viết lách, từ đó tìm lại tâm trạng phấn đấu trước đây. Song vẫn là đạo lý này, nếu tôi không làm gì, thì không thể tìm lại tâm trạng.

Lúc bấy giờ, tôi lại nhớ đến câu nói kinh điển của thầy Mã Tuấn: Khi bạn cảm thấy khổ sở, gian nan, uất ức, bi thương, muốn cầm dao đâm vào mình, thì có nghĩa là bạn đang đi lên dốc. Mỗi cơ hội đi lên dốc đều khó khăn, chật vật nhưng đó lại là một cơ hội tôi rèn. Chẳng phải con người cũng trưởng thành trong quá trình không ngừng cọ xát với khó khăn ư? Trong quá khứ, tôi vốn là một đứa hư hỏng, trải qua nhiều lần thất bại và chịu sự đả kích, tôi mới quyết định bắt đầu thay đổi số phận của mình bằng chính sự phấn đấu của mình, cho dù quá trình này vô cùng khổ cực đi nữa, tôi vẫn luôn kiên trì, vì một nguyên nhân duy nhất là tôi không muốn quay lại quá khứ, không muốn để lại bất cứ sự hối hận nào khi hồi tưởng lại những chuyện đã qua vào cuối đời. Về sau, qua sự phấn đấu của mình, tôi dần dần thực hiện được từng ước mơ nhỏ. Còn bây giờ, tôi đang đi trên những ước mơ nhỏ đó để đến với những ước mơ lớn hơn trong tương lai.

Bởi vậy nên, tôi cho rằng chịu đả kích cũng là một việc tốt, vì nhờ có đả kích, bạn mới có thể nhìn rõ bản thân mình, mới có thể biết mình còn kém cỏi, từ đó mới có thể không ngừng tiến bộ. Và quan trọng nhất là, cho dù chịu đả kích như thế nào, cho dù trải qua thất bại ra sao, bạn cũng không được thay đổi ước mơ trong lòng, không được thay đổi lý tưởng mà mình theo đuổi. Bạn phải kiên trì, kiên trì, và kiên trì hơn nữa. Hãy tin rằng, mỗi bước chân bạn đi qua đều in dấu vào một thời khắc nào đó ở tương lai, khi đi đến chỗ gập ghềnh, trắc trở bạn sẽ nhìn thấy cảnh đẹp từ trong gian khó.

Về độc lập

Qua quá trình du học ở Mỹ, tôi cảm nhận sâu sắc rằng, đến một lúc nào đó trong cuộc đời, ta sẽ không thể dựa dẫm mãi vào bố mẹ cũng như dựa dẫm vào người khác. Lúc này, ta cần phải độc lập. Trước đây, tôi cũng hiểu đạo lý này, nhưng tôi chưa bao giờ nhận thức sâu sắc về nó. Ở điểm này, tôi nhận thấy người Mỹ giỏi hơn chúng ta. Phần lớn thanh niên Mỹ từ mười tám tuổi, thậm chí là từ mười sáu tuổi trở lên đều chuyển ra ngoài ở riêng, tự chi trả học phí và sinh hoạt phí của mình dựa vào đồng lương kiếm được. Dù bố mẹ cũng cho được ít tiền, nhưng sớm muộn gì, họ cũng tiêu hết sạch. Cho nên, thanh niên Mỹ một mình lăn lộn trong xã hội, phục vụ bưng bê, bán quần áo, làm tình nguyện viên, tiếp xúc với rất nhiều ngành nghề khác nhau, tích lũy được bao nhiêu kinh nghiệm, hiểu mình phải làm gì, mình thích gì và mình có thể làm được gì. Trong khi đó, nhiều học sinh, sinh viên Trung Quốc đến tầm tuổi này vẫn còn quen dựa dẫm bố mẹ, dựa dẫm người khác giúp đỡ mình về kinh tế, dựa dẫm người khác đưa ra quyết định thay cho chúng ta vào những lúc cần phải giải quyết việc lớn, chúng ta cho rằng bố mẹ làm vậy là điều hiển nhiên, nếu họ không làm vậy, có khi chúng ta còn sinh ra giận dỗi.

Đến Mỹ là lần đầu tiên tôi cách xa gia đình muôn trùng muôn nẻo. Hai năm nay ở Mỹ, tôi cũng giống như tất cả các bạn lưu học sinh khác, thực sự bước vào một cuộc sống độc lập, tự chủ. Tự đi siêu thị mua rau, mua gạo, mua thịt, tự quyết định món ăn hàng ngày. Trước đây, tôi chưa bao giờ nấu nổi một món tử tế, nhưng giờ thì tôi có thể nấu nướng thành thạo các món chiên, hầm xương, làm bánh kem, nấu canh vị ngọt. Tôi biết mua ô tô như thế nào, sửa xe ra sao, tích lũy những kinh nghiệm nhỏ về luật pháp ở nước Mỹ như lái xe chạy quá tốc độ cho phép là phạm luật chẳng hạn. Ngoài ra, tôi còn biết tự đôn đốc bản thân, tự khích lệ bản thân, biết cân bằng giữa cuộc sống và công việc, học tập, biết không luống cuống chân tay khi phát sinh tình huống khẩn cấp, không nổi giận đùng đùng khi bị người khác hiểu nhầm, và dù xảy ra chuyện gì, tôi cũng biết nói với mẹ một câu trong điện thoại: “Mọi chuyện đều ổn, mẹ yên tâm.”

Sống độc lập rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là tinh thần độc lập. Xã hội hiện nay ngày càng lộn xộn, phức tạp, có rất nhiều thông tin, rất nhiều lựa chọn đến với bạn, song cũng đầy cám dỗ. Hiếm người muốn suy nghĩ độc lập hoặc là muốn dụng tâm đi tìm một con đường thật sự thuộc về mình. Chúng ta luôn có suy nghĩ, bạn A có cái này, mình cũng phải có cái đó; bạn B từng đi đến đây, mình cũng phải đi đến đó; bạn C từng làm việc này, mình cũng phải làm việc đó. Lâu dần, chẳng những chúng ta không hoàn toàn biến thành bạn A, bạn B, bạn C, mà còn quên mất mình là ai. Có thể làm vậy cũng không hẳn là sai, miễn nó không làm ảnh hưởng đến bạn, thì cũng không sao hết. Có điều, bạn đã bao giờ nghĩ, bạn có trách nhiệm với cuộc đời của mình? Hay là có trách nhiệm với cuộc đời của bạn A,B,C?

Rất nhiều người Mỹ đều cảm thấy họ sống rất hạnh phúc, hỏi lý do, thì họ nói là vì họ đang làm việc mình thích. Họ quyết định làm như vậy, chủ yếu là vì hứng thú, sở thích và mong muốn của mình, chứ chẳng mấy khi chạy theo phong trào. Bởi vậy, bạn sẽ thấy họ thường kiêm nhiệm cùng một lúc rất nhiều việc, trong đó có một việc đem lại thu nhập cho họ, còn mấy việc khác là làm tình nguyện viên vào buổi tối hoặc cuối tuần. Họ có thể làm hướng dẫn viên ở vườn thú, làm thầy cô giáo ở cô nhi viện, làm người hướng dẫn ở trại hè thanh thiếu niên, và đôi khi họ còn bỏ cả công việc của mình để đến các nước châu Phi làm việc tình nguyện. Họ biết làm thế nào để cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa, độc đáo, và thuộc về mình. Họ cũng hâm mộ người khác, nhưng họ không làm một việc mù quáng là đi so bì cuộc sống của mình với cuộc sống của người ta. Họ hiểu rất rõ rằng: Dẫu thế giới rộng lớn này rực rỡ sắc màu đến đâu, thì tôi vẫn phải sống một cuộc sống mang màu sắc của riêng mình.

Mỗi người chúng ta đều là một cá thể độc lập, có sở thích, có khả năng, có đặc điểm, có tính cách và có phương thức tư duy riêng, cho nên chúng ta cần khéo léo vận dụng những điểm này để phát hiện ra hứng thú của mình, khám phá ra tiềm năng của mình, cuối cùng tìm được con đường phù hợp với mình, thuộc về cuộc đời mình. Tôi nhớ mình từng đọc được một câu như thế này trong cuốn sách nào đó: Tốt nhất là chúng ta không nên thay đổi bản thân mình chỉ vì những lời bình phẩm của người khác, bởi lẽ bản thân những người chỉ tay năm ngón đó cũng chẳng biết họ tuân theo quy tắc nào. Đạo lý ở đây rất đơn giản: Lựa chọn những gì mình thích và kiên trì đi theo nó, cho dù kết quả cuối cùng như thế nào đi nữa, thì đến khi người khác hỏi tại sao bạn muốn làm việc này, ít nhất bạn cũng có thể vui vẻ trả lời “Vì nó phù hợp với tôi” hoặc “Vì tôi thích nó”, chứ không phải “Vì hiện nay mọi người đều làm như thế, cho nên tôi cũng làm theo”.

Tuy nhiên cũng phải nói rằng, từ nhỏ đến lớn tiếp nhận nền giáo dục trong nước, chúng ta được dạy phải đọc thuộc sách, chép lại sách và tin tưởng sách. Từ bé, chúng ta đã quan niệm, kiến thức viết “trong sách” là kiến thức “đúng đắn”. Càng học thuộc sách làu làu càng nắm chắc kiến thức. Cho nên, chúng ta nhiệt tình đưa những kiến thức đó vào cái đầu vốn chật chội của mình mà không hề hoài nghi, không hề sàng lọc. Cấp I tin vào sách, cấp II tin vào sách, cấp III tin vào sách, cho đến khi trưởng thành, lối tư duy quán tính, thiếu phản biện đó đã ăn sâu vào máu chúng ta rồi. Dần dà thành ra: Trong sách viết cái gì, tôi tin cái đó; người môi giới nói cái gì, tôi tin cái đó; số đông loan truyền cái gì, tôi tin cái đó. Chúng ta rất ít khi suy nghĩ xem những điều đó liệu có đúng hay không. Lâu dần, chúng ta lười suy nghĩ độc lập. Lâu dần, chúng ta mất đi khả năng suy nghĩ độc lập.

Nói vậy cũng không hẳn là tất cả các ý kiến, quan điểm và nhận định của người khác đều vô giá trị. Bạn có thể tham khảo tất cả các ý kiến của người khác, nhưng chỉ dừng lại ở tham khảo mà thôi. Tại sao bạn không tổng hợp ý kiến, quan điểm của người khác rồi phân tích xử lý chúng qua bộ não của mình, cuối cùng đưa ra kết luận của chính bản thân bạn? Tại sao càng ngày bạn càng làm cho mọi việc rối tinh rối mù? Tại sao lúc nào bạn cũng làm việc qua loa đại khái? Tại sao lúc nào bạn cũng chỉ biết bảo sao nghe vậy? Tại sao lúc nào bạn cũng bắt chước người khác? Tại sao bạn lại nhẹ dạ cả tin? Tại sao bạn vội vàng đoán định sự việc? Tại sao bạn không biết tư duy sáng tạo? Tại sao bạn không bỏ thời gian tìm hiểu xem thật ra bạn chả hiểu cái gì cả? Tại sao ngay đến bản thân mình muốn gì, bạn cũng chưa từng nghĩ qua? Tại sao bạn không thể thành thật với chính mình?

Nếu thiếu khả năng tư duy độc lập, bạn sẽ dễ dàng tin vào quan điểm của người khác, nói những lời người khác nói sai, làm những việc người khác làm sai, đi vào con đường bất chính người khác từng đi, mắc phải sai lầm người khác từng mắc phải.

Khi bạn “quan một cũng ừ, quan tư cũng gật”, thì người biết suy nghĩ độc lập tự trải nghiệm, tự phán đoán và tự dò ra con đường đi phù hợp với mình. Đến khi bắt tay vào làm, nghe người khác nói việc này khó làm, bạn cũng cảm thấy khó để rồi từ bỏ, thì người biết suy nghĩ độc lập đã sắp xếp hành trang, đi theo con người anh ta chọn cho mình. Khi đạt được thành tích nhỏ, anh ta sẽ vui vẻ nói với mình, hướng đi đó là đúng; còn khi gặp khó khăn hay thất bại, anh ta sẽ lạc quan tự nhủ, mình phải sửa chữa sai lầm và tiếp tục tiến về phía trước. Người biết suy nghĩ độc lập luôn đúc kết kinh nghiệm thông qua thành công, đồng thời rút ra bài học từ trong thất bại. Họ biết tập trung phân tích và làm rõ đạo lý: Thật ra, cái người nói con đường đó rất khó đi ấy, cũng chưa đi đến cuối con đường đâu, chẳng qua là vừa mới té ngã, họ đã gục đổ hoàn toàn rồi.

Cho nên, mỗi người đều cần có cái đầu biết tư duy biện luận một cách độc lập, biết phân tích ý kiến, quan điểm của người khác cũng như những gì đang diễn ra quanh mình. Bạn nên cẩn thận trước những lời oán trách của người thất bại, không nên nghĩ bi quan như họ. Bạn có thể tham khảo kinh nghiệm của người thành công, nhưng không thể rập khuôn theo họ. Vì, dù đó có là những lời phát ra từ miệng thánh nhân đi nữa, thì đặt vào hoàn cảnh của bạn cũng chưa chắc có tác dụng, vì bạn đâu phải là thánh nhân. Bởi vậy, bạn phải biết suy nghĩ độc lập, không được nhất nhất nghe theo người khác. Hãy sàng lọc tất cả qua bộc óc của mình rồi mới đưa ra lựa chọn.

Về mục tiêu

Có một điều hết sức rõ ràng là đời người cần phải có mục tiêu. Vì, không có mục tiêu thì không có động lực, không có mục tiêu thì không có phương hướng. Một khi xác định được mục tiêu trong lòng rồi, con người mới cảm thấy hăng hái làm việc. Nhưng thực tế, phần lớn mọi người thường không biết mục tiêu của cuộc đời mình là gì, không biết mình thích gì và cũng không biết mình có thể làm được gì. Mọi người chỉ có một hình ảnh mờ mờ ảo ảo về cuộc sống tương lai mai này mà mình mong muốn, song cũng chẳng rõ hình ảnh đó có hình thù thế nào, nó nằm ở đâu và làm sao mới với tới được. Nói thực, đây cũng là chuyện hết sức bình thường. Nếu chúng ta biết rõ tất cả, thì đã chẳng gọi là đời người, mà gọi là những bộ phim dài tập vừa mới xem đoạn đầu đã biết tỏng đoạn cuối. Sở dĩ đời người thú vị là vì khả năng thiên biến vạn hóa và không thể lường trước được của nó.

Vậy, phải làm sao mới tìm được mục tiêu nửa ẩn nửa hiện trong cuộc đời mỗi người đây?

Thuở nhỏ, tôi từng có rất nhiều mục tiêu, có mục tiêu dung dị, bình thường, nhưng cũng có mục tiêu điên rồ. Ban đầu tôi muốn làm cô giáo, vì mẹ tôi là một cô giáo rất xuất sắc, có rất nhiều học sinh đều yêu mến bà, cho nên tôi cũng muốn trở thành một cô giáo “oai phong lẫm liệt” giống như bà. Nhưng sau này, tôi nhận ra, nghề giáo viên không phù hợp với mình, phần vì tôi là người nóng vội, nhiều khi thiếu nhẫn nại, phần vì hồi nhỏ tôi học rất dốt, tôi chẳng biết sau này mình có thể dạy người khác được những gì, nên tôi từ bỏ mục tiêu đó. Về sau, có một thời gian, tôi có một mục tiêu điên rồ là muốn làm một nghệ sĩ dương cầm, vì thuở nhỏ tôi rất mê dương cầm, tôi từng năn nỉ bố mẹ mua cho mình một cây dương cầm để luyện tập ở nhà. Ai ngờ thuở đó, tôi không có nhiều nghị lực, học được một thời gian, tôi liền bỏ xó cây đàn, thành thử ước mơ làm nghệ sĩ dương cầm cũng tan tành mây khói. Bây giờ cho tôi ngồi vào cây dương cầm, e là tôi không chơi nổi một bài hoàn chỉnh.

Mãi đến sau này vào đại học, tôi mới học tiếng Anh một cách nghiêm túc, đến khi học giỏi hơn một chút, tôi bắt đầu đi chia sẻ với các em sinh viên khóa dưới những điều tôi tâm đắc trong học tập. Dần dần, tôi nhận ra, tôi vô cùng sung sướng mỗi lần nghe người khác nói rằng, phương pháp học tập tôi dạy giúp ích được cho họ rất nhiều, và cũng từ đó tôi mới hiểu được cảm giác hưng phấn vì giúp đỡ người khác. Về sau, tôi từng bước hình thành một phương pháp học tập tương đối hệ thống, từ quá trình không ngừng học hỏi và rèn luyện, tôi chẳng những đạt được rất nhiều tiến bộ trên phương diện chuyên ngành, mà càng ngày tâm trí của tôi càng trở nên lớn lao. Vì thế, khi các em sinh viên khóa dưới tới tìm tôi, tôi không chỉ chia sẻ với các em phương pháp học tập của mình, mà còn kể cho các em nghe câu chuyện khích lệ của mình nhằm động viên, khuyến khích các em ham học hỏi hơn. Rồi thời gian qua đi, các em nói với tôi, so với phương pháp học tập của tôi, thì chính những câu chuyện khích lệ của tôi lại đem đến cho các em nhiều sức mạnh hơn, đạt hiệu quả khích lệ lâu hơn.

Đến khi học cao học, số người tìm đến tôi xin được chỉ giáo về học tập ngày một nhiều, tôi bèn kể cho đám sinh viên mới nhiều câu chuyện khích lệ hơn. Mọi người đều say sưa nghe những câu chuyện đó, và rồi các em cũng bắt đầu tâm sự với tôi câu chuyện nhỏ của chính các em. Ngoài chuyện phương pháp học tập ra, các em còn kể cho tôi nghe chuyện tình cảm, trải nghiệm cuộc đời và thế giới nội tâm của các em nữa. Lúc này, tôi bỗng nhận ra rằng, lắng nghe người khác tâm sự câu chuyện của họ và giúp họ giải quyết những phiền muộn trong lòng là một việc có ý nghĩa, khi nghe các em sinh viên nói “Quả thật chị đã giúp em rất nhiều”, hoặc “chị đã làm em thay đổi”, tôi cảm thấy dường như mình còn vui hơn chính các em.

Sau đó, tôi bắt đầu suy nghĩ, thì ra giúp đỡ người khác cũng là một việc làm cho con người cảm thấy vui vẻ và thỏa mãn, thì ra hứng thú của tôi là giúp đỡ người khác, cụ thể là giúp người khác nhận biết chính mình, giúp người khác trở nên vui vẻ, giúp người khác tiến gần hơn đến ước mơ. Tiếp đến tôi lên mạng tìm hiểu xem trên thế giới có ngành nghề giúp đỡ con người đó không, cuối cùng tôi cũng tìm được bài viết giới thiệu về bác sĩ tham vấn tâm lý. Ngày tìm được thông tin này, tôi cực kỳ vui sướng, tôi có cảm nhận rõ ràng rằng, tôi đã tìm được công việc mà mình thật sự thích làm! Cho nên sau khi hạ quyết tâm rất lớn, tôi xác định mục tiêu của mình là làm một bác sĩ tham vấn tâm lý. Tuy tôi cũng chưa xác định đó có phải là mục tiêu cả đời của mình hay không, nhưng ít nhất là trong một giai đoạn ngắn đó, nó cho tôi động lực rất lớn. Bởi vậy, tôi quyết tâm phải tới Mỹ học chuyên ngành công tác xã hội ở ngôi trường tốt nhất đất nước này. Sau này, tôi chẳng những may mắn trúng tuyển ngành công tác xã hội của trường Đại học Washington tại St. Louis, mà tôi còn may mắn thuận lợi tốt nghiệp trong vòng hai năm nỗ lực phấn đấu. Dường như tôi đã tiến gần thêm một bước đến với mục tiêu của mình.

Vậy nên, tôi cho rằng chẳng phải chúng ta ngồi chết dí trong nhà, suy nghĩ trên trời dưới đất là có thể tìm ra mục tiêu. Tiền đề của việc xác định mục tiêu phù hợp với bản thân là bạn phải có đủ hiểu biết về chính mình, mà nền tảng là sự từng trải của bạn. Muốn tìm mục tiêu, trước hết bạn phải đọc sách, cảm nhận, phải ra ngoài, trải nghiệm. Ví dụ, bạn tựa hồ cảm thấy mình rất có hứng thú với nghệ thuật, bạn cho rằng làm một họa sĩ rất lãng mạn, vậy thì bạn phải đi cảm nhận ở chỗ có họa sĩ, phải đi thỉnh giáo những họa sĩ đúng nghĩa, hỏi họ làm nghề này thế nào, hỏi họ làm nghề này có thật sự lãng mạn như những gì bạn nghĩ không. Hoặc giả, bạn cảm thấy mình rất nhạy bén với tin tức, bạn mong muốn trở thành một phóng viên, vậy thì bạn phải tới những nơi có phóng viên như tòa soạn báo, tòa soạn tạp chí, thông tấn xã và đài truyền hình, làm quen với các phóng viên đúng nghĩa, hỏi họ xem làm nghề này thế nào, có bao nhiêu khổ cực, người làm phóng viên cần hội tụ những tố chất gì, một ngày làm việc bình thường ra sao. Thậm chí là khi có thời gian, bạn nên đến những nơi đó thử đóng vai người bạn muốn làm, tiếp xúc với người cùng nghề, cảm nhận công việc qua thực tiễn cuộc sống. Chỉ có thông qua thực tiễn, bạn mới hiểu rõ một ngành nghề nào đó có phù hợp với mình hay không, có nên xếp vào mục tiêu của mình hay không.

Chủ tịch Mao Trạch Đông từng nói: “Bạn muốn biết mùi vị của quả lê như thế nào? Vậy bạn hãy tự mình nếm thử.” Tìm mục tiêu cũng như vậy. Khi bạn không biết mình thích điều gì, thì hãy can đảm thử nghiệm. Tuổi trẻ không sợ thất bại, ngã rồi lại phủi bụi đứng lên. Sẽ luôn có một ngày, bạn tìm được công việc thật sự phù hợp với mình. Kì thực, thất bại không đáng sợ, vấp ngã không đáng sợ, nhụt chí không đáng sợ, hèn nhát không đáng sợ, lười biếng không đáng sợ, lạc đường không đáng sợ! Điều đáng sợ nhất là bạn đánh mất trái tim dám theo đuổi ước mơ.

Mấy năm qua, tôi dần cảm nhận sâu sắc một đạo lý nghe có vẻ cũ kỹ, nhưng lại là một đạo lý lớn: Trái tim rộng lớn bao nhiêu thì võ đài rộng lớn bấy nhiêu. Dù ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay ở trong hoàn cảnh ngang trái, chúng ta cũng luôn phải làm việc nghiêm túc, chắc chắn, phải sống can đảm, sáng suốt, phải làm người thành thật, kiên cường và phải thành tâm thành ý ước mơ những điều tốt đẹp. Tóm lại một câu, vĩnh viễn đừng bao giờ quên mất mục tiêu của cuộc đời mình, làm việc chắc chắn, làm người trung thực, còn tất cả những cái khác đều không quan trọng.

Trên đây là tất cả suy nghĩ, cảm nhận của tôi trong hai năm sống ở Mỹ cùng với những hồi ức và tổng kết về hai mươi sáu năm đã qua. Để có những hồi ức như trên, tôi thầm cảm ơn hai mươi sáu năm của cuộc đời, và thành tâm hướng tới hai mươi sáu năm lần thứ hai, hai mươi sáu năm lần thứ ba, thậm chí là hai mươi sáu năm lần thứ tư… Chỉ cần sức khỏe cho phép, tôi vẫn sẽ hăng hái, nhiệt tình bước qua từng cột mốc hai mươi sáu năm như thế. Tuy tuổi tác không ngừng tăng lên, nhưng cũng may là tôi vẫn có một trái tim thơ trẻ, một trái tim khỏe mạnh, tươi mới, biết cảm ơn, biết vui vẻ, biết chúc phúc, biết sống, biết lao động chăm chỉ, biết nghỉ ngơi có chất lượng, biết căm ghét cái ác đến tận cùng, biết tính hai mặt của sự việc, biết mục tiêu cùng với khả năng của mình, biết giao thiệp, biết lên kế hoạch, biết thực hiện kế hoạch, biết ước mơ, biết thực hiện ước mơ, biết lấy điểm mạnh bù điểm yếu, biết không so bì, tị nạnh, biết có tham vọng lành mạnh, biết thế nào là đủ, biết mọi việc đều cần phải có thời gian và quá trình, biết quy luật phát triển của sự vật…

Dù vậy, tôi cũng hiểu rõ có nhiều điều tôi vẫn còn mít đặc như tôi không biết gì về lịch sử, không biết gì văn học, không biết gì về ngôn ngữ, không biết gì về xã hội, không biết gì về bản thân, không biết gì về việc người, không biết gì về bệnh tật tinh thần, không biết gì về cái chết… Trong n hai mươi sáu năm sắp tới, tôi còn có rất nhiều việc phải làm, còn có rất nhiều ước mơ đang chờ đợi tôi phấn đấu. Con đường phấn đấu không có điểm cuối cũng giống như con đường học tiếng Anh có điểm bắt đầu mà không có điểm kết thúc. Vậy nên, giai điệu chính của cuộc đời mỗi người là: Không ngừng sống, không ngừng phấn đấu. Xin gửi đến những người tôi yêu và yêu tôi lời cảm ơn sâu sắc và xin gửi đến tương lai lời chào thân ái.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.