Nhảy, nhảy, nhảy

Chương 07 phần 1



Tôi chẳng có gì để làm cả. Chẳng có gì tôi nên làm, và chẳng điều gì tôi muốn làm. Tôi đã đi cả chặng đường dài tới khách sạn Cá Heo, nhưng cái khách sạn Cá Heo mà tôi muốn đến đã biến mất khỏi bề mặt trái đất này rồi. Phải làm gì bây giờ?

Tôi xuống đại sảnh, buông mình vào một trong những chiếc sofa lộng lẫy, cố nghĩ ra kế hoạch cho cả ngày. Đi dạo phố? Nhưng đi đâu? Hay là đi xem phim? Không, tôi chẳng muốn xem cái gì cả. Mà tại sao lại tốn công đến Sapporo chỉ để xem phim? Vậy thì làm gì bây giờ?

Chẳng có gì mà làm cả.

Được rồi, tới tiệm cắt tóc, tôi tự nhủ. Tôi không ra tiệm cắt tóc cả tháng nay, đã đến lúc phải sửa tóc rồi. Giờ đó là một cách hay để sử dụng thời gian rảnh rỗi. Nếu không có gì hay hơn để làm, hãy đi cắt tóc.

Vậy nên tôi tới tiệm cắt tóc của khách sạn, hy vọng rằng ở đó sẽ thật đông và tôi sẽ phải ngồi chờ tới lượt mình. Nhưng tất nhiên là ở đó chẳng có ai, và tôi được cắt tóc ngay lập tức. Trên những bức tường xanh xám là một bức tranh theo trường phải trừu tượng, những chiếc loa ẩn vang lên giai điệu nhẹ nhàng êm dịu của Jacques Rouchet chơi Play Bach. Nơi này không giống bất kỳ tiệm cắt tóc nào tôi từng tới – thực khó có thể gọi nó là tiệm cắt tóc. Rồi xem, không chừng họ còn bật cả thánh ca Gregory trong nhà tắm, nhạc của Ryuichi Sakamoto trong phòng đợi của văn phòng thuế vụ. Anh chàng cắt tóc cho tôi khá trẻ, chỉ trạc hai mươi. Khi tôi đề cập tới chuyện ở đây đã từng có một khách sạn nhỏ trùng tên với khách sạn này, anh ta đáp, “Vậy ư?” Anh ta cũng không biết nhiều về Sapporo này. Chàng trai khá sành điệu. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi hiệu Men’s Bigi. Dẫu sao thì anh ta cũng biết cắt tóc, vậy nên tôi bước ra đó với cảm giác rất hài lòng.

Làm gì tiếp bây giờ?

Chẳng còn lựa chọn nào khác, tôi quay lại cái ghế sofa lúc nãy trong sảnh khách sạn và nhìn quanh. Cô lễ tân đeo kính hôm qua đang đứng sau quầy lễ tân. Trông cô hơi căng thẳng. Hay là sự có mặt của tôi kích thích cái gì đó trong cô? Không giống vậy lắm. Đồng hồ nhanh chóng chỉ mười một giờ. Giờ ăn trưa. Tôi ra ngoài đi loanh quanh, cố nghĩ xem mình đang muốn gì. Nhưng tôi không đói, và chẳng quán nào làm tôi thấy hứng thú. Không biết làm gì, tôi ghé bừa vào một quán gọi mì spaghetti với xa lát. Rồi một cốc bia. Bên ngoài, trời vẫn rập rình muốn đổ tuyết, nhưng chẳng thấy bông tuyết nào xuất hiện. Bầu trời như đông cứng, bất động. Trông giống thể hòn đảo bay Lapura trong truyện Gulliver(10), nặng nề treo lơ lửng trên thành phố. Mọi thứ cứ như bị phủ màu xám. Thậm chí, nghĩ lại thì cả bữa ăn của tôi cũng mang một màu xám xịt. Không phải là một ngày cho những suy ngẫm có ích.

10. Gulliver du ký.

Cuối cùng, tôi bắt taxi tới một cửa hàng bách hóa ở trung tâm thành phố. Tôi mua giày, đồ lót, pin dự trữ, bàn chải đánh răng du lịch và bấm móng tay. Mua một cái sandwich để ăn vặt ban đêm và một chai brandy nhỏ. Tôi chẳng cần thứ nào trong đống này, chẳng qua tôi chỉ mua sắm, giết thời gian. Tôi đã giết được hai tiếng đồng hồ.

Rồi tôi đi bộ dọc những đại lộ chính, nhìn vào các cửa kính, trong đầu không sẵn điểm đến nào, rồi khi chán những việc đó, tôi ghé vào một quán cà phê, vừa nhấm nháp cà phê vừa đọc một đoạn Jack London. Một lát sau, trời cũng bắt đầu xâm xẩm tối. Gợi cảm giác buồn chán. Giết thời gian không phải là một việc dễ dàng gì.

Trở về khách sạn, khi đi qua bàn lễ tân, tôi nghe có ai đó gọi tên mình. Là cô tiếp tân đeo kính. Cô ra hiệu cho tôi tới một đầu quầy thu ngần, thực ra là chỗ để đăng ký thuê xe, ở đó có một giá để các tập tờ rơi quảng cáo. Hiện không ai trực ở đây cả.

Cô quay quay chiếc bút trong vài giây, nhìn tôi với vẻ mặt kiểu tôi – có – chuyện – cần – nói – với – anh – nhưng – không – biết – nói – thế – nào. Rõ ràng cô không quen làm những việc thế này.

“Xin thứ lỗi cho tôi,” cô bắt đầu, “nhưng chúng ta phải làm bộ như đang nói chuyện về việc thuê xe.” Đôi mắt cô liếc thật nhanh qua phía bàn lễ tân. “Quản lý ở đây rất chặt. Chúng tôi không được phép nói chuyện riêng với khách hàng.”

“Được rồi” tôi nói, “Tôi sẽ hỏi cô về giá thuê xe, còn cô muốn trả lời thế nào cũng được. Vậy là không có riêng tư rồi nhé.”

Cô thoáng đỏ mặt. “Thứ lỗi cho tôi,” cô lại nói. “Ở đây họ rất khắt khe với các quy định.”

Tôi mỉm cười. “Còn nữa, cô đeo kính trông hợp lắm.”

“Dạ?”

“Cô đeo kính này trông đáng yêu lắm. Rất đáng yêu,” tôi nói.

Cô chạm khẽ vào gọng kính, khẽ hắng giọng. Típ người hay lo lắng. “Tôi muốn hỏi anh một chút,” cô lấy lại sự bình tĩnh. “Đây là chuyện riêng.”

Nếu có thể, tôi sẽ vuốt nhẹ đầu cô để giúp cô thoải mái hơn, nhưng thay vì thế, tôi im lặng và nhìn vào mắt cô.

“Đó là chuyện chúng ta đã nói tối qua, anh biết đấy, chuyện ở đây từng có một khách sạn ấy,” cô nhẹ nhàng nói, “có tên trùng với khách sạn này. Cái khách sạn đó thế nào? Ý tôi là, nó có phải là một cái khách sạn bình thường không?”

Tôi lấy một tập sách giới thiệu dịch vụ thuê xe và giả vờ như đang nghiên cứu nó, “Điều đó còn tùy xem cô có ý gì khi dùng từ ‘bình thường’.”

Cô mân mê cổ áo rồi lại hắng giọng. “Chuyện này… thực khó mà nói rõ được, cái khách sạn đó có gì lạ không? Tôi không sao gạt nó ra khỏi đầu được.”

Đôi mắt cô trông đáng yêu và có vẻ tha thiết. Đúng như ấn tượng ban đầu của tôi. Cô lại đỏ mặt lần nữa.

“E là tôi không hiểu cô đang nói gì, nhưng tôi chắc chúng ta sẽ mất chút thời gian để nói về nó và làm việc đó ở đây thì không được tiện lắm. Có vẻ như cô đang rất bận.”

Cô liếc mắt về phía những nhân viên lễ tân khác đang đứng ở bàn, rồi khẽ cắn môi dưới. Sau một phút lưỡng lự, cô lên tiếng: “Được, anh có thể gặp tôi sau giờ làm không?”

“Mấy giờ?”

“Tám giờ là tôi xong việc. Nhưng chúng ta không thể gặp nhau ở gần đây. Quy định của khách sạn. Đến chỗ nào xa xa một chút ấy.”

“Cô quyết định địa điểm đi. Tôi không ngại xa. Tôi sẽ tới đó.”

Cô gái nghĩ thêm một chút, rồi nguệch ngoạc viết tên địa điểm và vẽ đường. “Tôi sẽ đến đó lúc tám rưỡi.”

Tôi nhét mảnh giấy vào túi.

Giờ thì đến lượt cô nhìn tôi. “Tôi mong anh không nghĩ là tôi quái dị. Đấy là lần đầu tiên tôi làm chuyện thế này. Tôi chưa bao giờ vi phạm quy định. Nhưng lần này tôi không biết phải làm sao. Tôi sẽ giải thích cho anh sau.”

“Không, tôi không nghĩ cô quái dị. Đừng lo,” tôi nói. “Tôi không phải là kẻ xấu. Có thể tôi không phải là người đáng yêu nhất thế giới, nhưng tôi có không định làm khó ai.”

Cô lại xoay xoay bút, dường như vẫn chưa hoàn toàn hiểu ý tôi. Rồi mỉm cười lơ đãng và đẩy gọng kính lên. “Vậy, ta gặp sau nhé.” cô nói, và cúi đầu kiểu lịch sự chào tôi trước khi trở về chỗ của cô ở bàn tiếp tân. Quyến rũ, dù hơi mỏng manh.

Tôi lên phòng, lấy bia trong tủ lạnh ra để nuốt trôi cái bánh sandwich bò nướng mua ở cửa hàng bách hóa. Được rồi, ít nhất cũng có một kế hoạch để thực hiện. Có thể cài số hơi chậm, nhưng chúng ta đang lăn bánh, Nhưng đi đâu đây?

Tôi rửa mặt, cạo râu và đánh răng. Điềm tĩnh, lặng lẽ, không hát ngân nga. Rồi lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi soi mình thật kỹ trong gương. Không phát hiện ra điều gì đáng kể. Tôi không thấy có chút gì là anh tuấn cả. Vẫn cái khuôn mặt đó, luôn như vậy.

Tôi rời phòng lúc bảy rưỡi và bắt một cái taxi. Người lái xe săm soi tờ giấy chỉ đường tôi đưa, rồi gật đầu không nói gì, và chúng tôi lên đường. Một đoạn đường tốn khoảng đâu vài nghìn yên, một quán bar nhỏ trong tầng hầm của tòa nhà năm tầng. Ngay từ cửa, tôi nghe thấy âm thanh ấm áp từ một đĩa nhạc cũ của Gerry Mulligan.

Tôi ngồi xuống một ghế ở quầy bar, nghe bản độc tấu bên ly J&B-and-water êm và dễ uống. Tám giờ bốn mươi lăm, cô gái vẫn chưa đến. Tôi không để tâm lắm. Quán bar rất thoải mái, và đến giờ có lẽ tôi đã trở thành chuyên gia giết thời gian. Tôi nhấp rượu, hết sạch, tôi gọi ly khác. Tôi đăm đăm nhìn cái gạt tàn.

Chín giờ năm phút cô xuất hiện.

“Tôi xin lỗi,” cô áy náy nói. “Sắp về thì lại có một đống việc, mà người thay ca cho tôi lại đến muộn.”

“Đừng ngại. Ở đây tôi ổn mà,” Tôi nói. “Đằng nào tôi cũng phải làm gì đó cho thời gian trôi mau.”

Theo gợi ý của cô, chúng tôi chuyển đến một bàn phía sau. Khi đã yên vị, cô tháo găng tay, khăn quàng và áo khoác. Bên trong, cô mặc váy len xanh thẫm và áo len mỏng màu vàng làm lộ ra bộ ngực đầy đặn khiến tôi ngạc nhiên vì trước đó chưa từng chú ý đến. Đôi hoa tai bằng vàng của cô cũng rất thanh tú.

Cô gọi một ly Bloody Mary. Khi rượu được mang ra, cô liền nhấp thử một ngụm. Tôi làm tiếp một ngụm whiskey và cô cũng nhấp một ngụm nhỏ Bloody Mary. Tôi nhấm nháp mấy quả hạch.

Cuối cùng, cô hắt ra một tiếng thở dài. Cô có vẻ lo rằng mình đã gây ra tiếng hơi lớn, liền ngẩng đầu lên nhìn tôi với ánh mắt căng thẳng.

“Công việc mệt mỏi à?” tôi hỏi.

“Ừm,” cô trả lời. “Khá vất vả, tôi vẫn chưa quen được. Khách sạn mới mở nên ban giám đốc lúc nào cũng thúc bách chuyện gì đó.”

Cô khép tay lại rồi đặt lên bàn. Cô đeo một chiếc nhẫn trên ngón út. Một chiếc nhẫn bạc không phô trương, thậm chí là khá tầm thường.

“Về khách sạn Cá Heo cũ…,” cô bắt đầu. “À khoan đã, hình như tôi nghe nói anh viết cho một tạp chí hay gì đó thì phải?”

“Tạp chí?” tôi giật mình. “Sao lại thế?”

“Tôi chỉ nghe nói như vậy thôi,” cô trả lời.

Tôi im lặng. Cô gái cắn môi và đăm đăm nhìn một điểm trên tường.

“Từng xảy ra vài chuyện lộn xộn,” cô bắt đầu trở lại, “do đó ban giám đốc rất lo lắng về cánh truyền thông. Anh biết đấy, chuyện thu mua đất đai và các thứ khác nữa. Nếu quá nhiều điều tiếng về chuyện này lọt ra dư luận, khách sạn sẽ bị ảnh hưởng. Một hình tượng xấu có thể làm hỏng cả việc kinh doanh.”

“Thế đã có chuyện được đưa lên báo à?”

“Một lần, trên tuần san không lâu trước đây. Họ nói xa gần về những vụ làm ăn bẩn thỉu, về chuyện quan hệ với Yakuza(11) hay đám côn đồ cánh tả để gây áp lực lên những người kiên quyết chống đối. Chuyện kiểu như vậy.”

11. Xã hội đen của Nhật.

“Và tôi có thể hiểu rằng khách sạn Cá Heo cũ có liên quan đến những chuyện này?”

Cô nhún vai rồi nhấp một ngụm rượu khác. “Tôi không ngạc nhiên nếu đúng là vậy. Nếu không, có lẽ giám đốc sẽ không tỏ ra căng thẳng đến vậy khi nói chuyện với anh về khách sạn cũ. Ý tôi là, như thể anh vừa gióng lên một tiếng chuông báo động vậy. Tôi không biết cụ thể lắm, nhưng đã có lần tôi nghe được rằng cái tên Cá Heo có liên quan đến một khách sạn cũ. Từ một ai đó.”

“Ai đó ư?”

“Một trong những người áo đen.”

“Những người áo đen?”

“Anh biết đấy, những người mặc đồng phục đen ấy.”

“Ra vậy,” tôi nói. “Thế ngoài ra, cô không nghe được gì khác về khách sạn Cá Heo cũ à?”

Cô lắc đầu và nghịch chiếc nhẫn trên tay. “Tôi sợ,” cô thầm thì, “Tôi rất sợ… tôi không biết phải làm gì nữa.”

“Sợ ư? Sợ tôi và mấy tờ tạp chí à?”

Cô lắc đầu, rồi ấn môi trên thành ly rượu. “Không, không phải thế. Tạp chí chẳng liên quan gì cả. Dù người ta có đăng cái gì chăng nữa, tôi cũng chẳng quan tâm. Có lẽ ban giám đốc sẽ cuống lên vì chuyện đó, nhưng đó không phải chuyện tôi muốn nhắc đến. Mà là cả cái nơi ấy. Cả cái khách sạn cơ, ý tôi là… nó có gì đó hơi kỳ lạ. Có cái gì đó khang khác… cái gì đó… không ổn.”

Cô dừng lại và im lặng. Tôi đã uống cạn ly whiskey, vậy nên tôi gọi thêm đồ uống cho cả hai.

“Cô nói ‘không ổn’ nghĩa là sao?” tôi giục cô trả lời. “Ý cô là có cái gì đó đặc biệt à?”

“Tất nhiên rồi,” cô mau mắn trả lời. “Có chuyện đã xảy ra, nhưng rất khó mô tả bằng lời. Vì vậy, tôi không nói với ai hết. Ý tôi là, nó rất thật, cảm giác của tôi ấy, nhưng nếu tôi cố giải thích bằng lời, nó dường như biến đi đâu hết vậy.

“Vậy là nó giống như một giấc mơ rất thật?”

“Nhưng đây không phải một giấc mơ. Những giấc mơ rồi cũng sẽ phai nhạt phải không nào? Nhưng không phải thứ này. Không đời nào. Lúc nào nó cũng như vậy. Nó luôn luôn hiện hữu, ngay ở đó, trước mắt tôi.”

Tôi không biết phải nói gì nữa.

“Được rồi, chuyện là thế này,” cô nói, nhấp một ngụm Bloody Mary rối lấy giấy ăn chấm miệng. “Đó là hồi tháng Một. Đầu tháng Một, ngay sau tết. Tôi làm ca muộn, vốn tôi không thích làm ca muộn, nhưng hôm ấy tới lượt tôi. Tóm lại là, đến khoảng nửa đêm tôi mới xong việc. Những hôm làm muộn như thế, khách sạn thường gọi taxi cho chúng tôi về vì không còn tàu nữa. Sau khi thay quần áo, tôi phát hiện mình để quên cuốn sách ở phòng nghỉ của nhân viên. Tôi nghĩ hôm sau lấy cũng được, nhưng cái cô đi chung taxi với tôi vẫn chưa xong nên tôi quyết định đi lấy luôn. Tôi vào thang máy dành cho nhân viên và nhấn nút lên tầng mười sáu, phòng nghỉ của nhân viên và các tiện nghi khác dành cho nhân viên đều ở đấy – chúng tôi rất hay lên đó nghỉ ngơi và uống cà phê.”

“Tôi đứng chờ trong thang máy, cửa mở, tôi bước ra ngoài như mọi khi. Tôi chẳng để ý gì cả, ai lại phải để ý gì cơ chứ? Đó là việc ngày nào tôi cũng làm mà. Tôi bước ra khỏi thang máy như một hành động tự nhiên nhất trên đời. Tôi đoán là lúc đó tôi đang nghĩ ngợi, không nhớ là việc gì. Tôi nhớ là mình đang đứng ở hành lang, hai tay đút trong túi thì nhận ra xung quanh tối om. Tối như mực ấy. Tôi quay lại thấy cửa thang máy vừa mới đóng. Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là, ôi trời, mất điện rồi. Nhưng không thể thế được. Khách sạn có máy phát điện dùng khi khẩn cấp, vì vậy nếu bị mất điện, máy phát sẽ lập tức tự động bật lên. Chúng tôi đã diễn tập tình huống này trong đợt huấn luyện, nên tôi biết rõ. Vì vậy, về nguyên tắc, không thể có chuyện mất điện. Mà cho dù có chuyện vô cùng hãn hữu gì đó xảy ra với máy phát điện thì đèn báo động trên hành lang sẽ được bật lên. Vậy nên, tôi muốn nói là, không thể nào có chuyện tối om như thế. Đáng lẽ lúc ấy tôi phải nhìn thấy những ngọn đèn xanh dọc hành lang.”

“Nhưng cả tầng tối đen như mực. Tất cả những gì tôi thấy được là mấy cái nút gọi trên thang máy và màn hình LED màu đỏ hiển thị nó đang ở tầng nào. Do vậy, điều đầu tiên tôi làm là nhấn nút gọi thang máy, nhưng nó cứ đi thẳng xuống. Tôi không biết phải làm gì. Thế rồi, không rõ vì sao, tôi quyết định đi loanh quanh xem xét. Thực sự tôi rất sợ, nhưng cũng thấy bực mình nữa.”

“Lúc đó tôi nghĩ chắc có trục trặc gì đó với hệ thống điện của khách sạn. Máy móc hay kết cấu hay thứ gì đó có vấn đề. Vậy nghĩa là sẽ lại thêm rắc rối từ phía ban giám đốc, không ngày nghỉ rồi đủ thứ phiền phức khác. Càng nghĩ về những chuyện đó, tôi càng thấy bực mình. Sự bực bội dần lớn hơn cả nỗi sợ. Và thế là tôi quyết định, chỉ là đi xung quanh xem xét một chút. Tôi bước hai hay ba bước gì đó và – ừm, có gì đó rất lạ. Ý tôi là, tôi không thể nghe được tiếng bước chân của mình. Chẳng có lấy một tiếng động nào cả. Mặt sàn cho cảm giác rất lạ, không giống như tấm thảm thường ngày. Nó rất cứng. Thật đấy. Và cả không khí nữa, cảm giác cũng rất khác. Nó… có mùi ẩm mốc. Hoàn toàn không giống không khí của khách sạn. Khách sạn chúng tôi đòi hỏi không khí được điều tiết hoàn toàn và ban giám đốc rất cầu kỳ trong chuyện này, bởi vì bầu không khí nơi đây không được giống như tạo bởi điều hòa không khí bình thường, mà phải là một bầu không khí chất lượng, không phải cái loại không khí bị hút hết hơi ẩm chỉ tổ làm khô mũi khách hàng như ở các khách sạn khác. Ở chỗ chúng tôi, không khí phải như là không khí tự nhiên vậy. Vì vậy, bầu không khí hôi hám, mốc meo đó làm tôi rất choáng. Nó có mùi gì đó… rất cũ kỹ – giống như khi anh về quê thăm ông bà và anh mở cửa nhà kho cũ của gia đình ra – như vậy đấy. Tù đọng mốc meo.”

“Tôi quay lại thì thấy cả nút gọi thang máy cũng biến mất. Tôi không nhìn thấy gì cả. Mọi thứ biến mất, hoàn toàn, thật sự rất khủng khiếp. Tôi hoàn toàn đơn độc trong bóng tối, xung quanh im lặng tuyệt đối. Tuyệt đối. Không có bất kỳ một tiếng động nào. Rất kỳ lạ. Thường thì trong trường hợp có sự cố điện như vậy ít nhất cũng phải có ai đó lên tiếng chứ. Mà lúc đó khách sạn đang gần như kín phòng. Bao nhiêu người như vậy hẳn phải ồn ào lắm chứ. Thế nhưng lần đó không hề như vậy.”

Đồ uống đã được mang đến, chúng tôi nhấp rượu. Rồi cô đặt ly của mình xuống bàn và chỉnh lại cặp kính.

“Anh hiểu những điều tôi nói chứ?”

“Kha khá,” tôi trả lời, “Cô ra khỏi thang máy ở tầng mười sáu. Ở đó tối đen như mực. Mùi cũng rất lạ. Quá yên ắng. Chuyện gì đó kỳ quặc đang diễn ra.”

Cô thở dài. “Không biết là tốt hay xấu, nhưng chắc chắn tôi không phải loại nhút nhát. Ít nhất tôi nghĩ mình cũng khá can đảm. Tôi không phải loại con gái hét ầm ĩ lên khi thấy đèn vụt tắt. Tôi có sợ, nhưng không đến nỗi hồn xiêu phách lạc. Tôi tự nhủ mình phải đi kiểm tra xem có chuyện gì đang xảy ra. Vậy nên tôi bắt đầu lần mò đi đọc theo hành lang.”

“Cô đi về hướng nào?”

“Bên phải,” cô trả lời, giơ tay phải lên. “Tôi lần mò đi dọc theo tường, rất chậm, và lát sau hành lang quành phải một lần nữa. Thế rồi, ở phía trước, tôi nhìn thấy có ánh sáng yếu ớt. Nó rất yếu, chỉ như ánh nến le lói từ tận xa xa đâu đó. Thoạt tiên tôi nghĩ là đã có ai tìm thấy nến dự trữ và thắp lên. Tôi tiếp tục đi, nhưng khi đến gần hơn, tôi mới nhận ra ánh sáng ấy hắt ra từ một căn phòng có cánh cửa khép hờ. Cánh cửa ấy cũng rất lạ. Tôi chưa từng thấy cánh cửa nào cũ kỹ như vậy trong khách sạn cả. Tôi đứng im trước cửa, không biết nên làm gì tiếp theo. Nếu có ai đó bên trong thì sao? Lỡ có một kẻ quái đản xổ ra thì sao? Mà trước tiên, sao lại có cánh cửa này ở đây chứ?”

“Tôi gõ khẽ lên cánh cửa, rất khẽ. Khó mà gọi đó là gõ cửa được, nhưng tiếng động vang lên lại khá lớn – có lẽ tại hành lang im ắng quá. Dù sao thì cũng không có tiếng đáp lại. Tôi chờ khoảng mười giây, và trong chừng ấy thời gian, tôi như bị đóng băng. Trong đầu tôi không có lấy một ý nghĩ nào, dù là nhỏ nhất, rằng mình phải làm gì. Rồi tôi nghe thấy tiếng sột soạt ấy. Tôi không rõ nữa, nghe như tiếng một người mặc rất nhiều quần áo đang đứng lên vậy, và sau đó là tiếng bước chân. Thật chậm kịch… kịch… kịch…, có vẻ như người ấy đang đi dép lê hay thứ gì đó. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần cánh cửa hơn.”

Cô nhìn chằm chằm vào khoảng không và lắc đầu.

“Đó là lúc tôi bắt đầu thấy hoảng lên. Như thể tiếng bước chân đó không phải của con người. Tôi không hiểu sao mình lại đi đến kết luận đó. Tôi chỉ cảm thấy sởn tóc gáy, bởi vì bước chân của con người không giống như vậy. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi, nói nghiêm túc đấy. Tôi chạy. Thậm chí còn không nhìn xem mình đang chạy đi đâu. Có lẽ tôi vấp ngã một hai lần gì đó, vì đôi tất tôi mang đã rách toạc ra. Tới đây tôi không nhớ rõ lắm. Điều duy nhất tôi nhớ được là tôi đã chạy. Tôi kinh hoảng. Làm sao đây nếu thang máy bị hỏng? Ơn trời, cuối cùng tôi cũng trở lại được chỗ ấy, khi đó cái đèn đỏ chỉ số tầng và cả nút gọi thang máy đều sáng trở lại. Thang máy đang ở tầng trệt. Tôi nhấn liên tục vào nút gọi và thang máy bắt đầu trở lên. Nhưng chậm hơn nhiều so với bình thường. Thật đấy, chậm như con sên. Tầng hai… tầng ba… tầng bốn, tôi cầu nguyện, nào, nhanh lên nào, nhưng không có ích gì. Nó cứ ì ra. Giống như có ai đó làm kẹt bộ điều khiển vậy.”

Cô gái thở ra một hơi dài và lại nhấp một ngụm rượu. Rồi cô xoay xoay chiếc nhẫn đeo tay một lúc.

Tôi chờ cô tiếp tục. Nhạc đã tắt, ai đó đang cười.

“Tôi vẫn nghe thấy tiếng bước chân đó kịch… kịch… kịch mỗi lúc một gần hơn. Không dừng lại… kịch… kịch… kịch…, dọc theo hành lang, tiến về phía tôi. Tôi vô cùng hoảng sợ! Trong đời chưa bao giờ tôi thấy sợ đến thế. Dạ dày tưởng như bị ép chặt lên tới tận cổ họng. Tôi vã mồ hôi khắp người, nhưng lại thấy lạnh toát. Tôi rùng mình. Thang máy thì mãi không lên tới. Tầng bảy… tầng tám… tầng chín… Tiếng bước chân vẫn tiếp tục tiến lại gần.” Cô dùng lại khoảng hai mươi ha mươi giây. Và một lần nữa, cô xoay xoay chiếc nhẫn trên tay, như thể đang chỉnh radio. Một cô gái ở quầy bar nói gì đó làm bạn cô ta lại cười phá lên. Giá họ làm mọi thứ nhanh hơn và bật nhạc lên. “Tôi không diễn tả được cảm giác của mình lúc đó. Anh phải trải qua thì mới biết được,” cô nói khô khan.

“Rồi chuyện gì đã xảy ra?”

“Điều tiếp theo mà tôi nhận ra là, thang máy đã ở đó,” cô nói và nhún vai. “Cửa mở và tôi lại thấy thứ ánh sáng đẹp đẽ và quen thuộc. Tôi rơi vào trong đó, theo đúng nghĩa đen. Tôi run lên bần bật, nhưng vẫn cố bấm nút xuống đại sảnh. Khi xuống tới nơi, hẳn tôi đã làm mọi người bở vía một phen. Mặt tôi tái xanh, người run rẩy, không nói được một lời. Viên quản lý tiến tới, lắc người tôi và hỏi: ‘Có chuyện gì vậy?’ Vậy là tôi có kể cho ông ta về những thứ kỳ lạ trên tầng mười sáu, nhưng vẫn thở hổn hển. Người quản lý ngắt lời tôi giữa chừng, gọi một người trong số đám nhân viên nam rồi cả ba chúng tôi cùng quay trở lại tầng mười sáu. Chỉ để kiểm tra lại mọi thứ. Nhưng trên đó tất cả đều hoàn toàn bình thường. Tất cả bóng đèn đều sáng, cũng không có mùi cũ nát, mọi thứ vẫn giống như mọi khi, như nó cần phải thế. Chúng tôi tới phòng nhân viên hỏi một anh chàng ngồi đó xem anh ta có để ý tới chuyện vừa rồi không, nhưng anh thề lên thề xuống rằng anh ta thức suốt và không có chuyện mất điện. Rồi để cho chắc chắn, chúng tôi đi kiểm tra hết tầng mười sáu, từ đầu tầng tới cuối tầng. Không có gì bất thường cả. Cứ như thể tôi đã bị bỏ bùa mê hay cái gì tương tư vậy.”

“Chúng tôi trở xuống, sau đó người quản lý dẫn tôi vào văn phòng của ông. Tôi đã đinh ninh quản lý sẽ hét vào mặt tôi, nhưng thậm chí ông ấy còn không hề nổi giận. Ông yêu cầu tôi kể chi tiết hơn những điều đã xảy ra. Tôi giải thích theo cách rõ ràng nhất có thể, từ đầu cho tới cả tiếng bước chân theo sau lưng tôi nữa. Tôi có cảm giác mình là một con ngốc hết thuốc chữa. Tôi chắc mẩm thế nào ông cũng cười nhạo tôi và nói tôi đã mơ ra toàn bộ câu chuyện này.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.