Nhảy, nhảy, nhảy

Chương 11



Chúng tôi ngồi đối diện nhau qua một chiếc bàn nhỏ và nói chuyện. Chiếc bàn tròn đã rất cũ kỹ ở giữa có một cây nến. Cây nến cắm thẳng trên một cái đĩa. Và đó là toàn bộ đồ đạc trong phòng. Không có cái ghế nào. Chúng tôi ngồi lên những đống sách.

Đó là căn phòng của Người Cừu.

Chật hẹp và gò bó. Những bức tường và trần nhà gợi cảm giác như đang ở khách sạn Cá Heo cũ, nhưng cũng không phải là cái khách sạn cũ ấy. Ở góc xa của căn phòng có một cửa sổ được bịt kín bằng ván từ bên trong. Nó chắc đã được bít như vậy từ lâu rồi, nhìn vào những chiếc đinh gỉ hay lớp bụi xám xịt két lại trên khe ván là đoán được. Căn phòng là một chiếc hộp hình chữ nhật. Không ánh sáng. Không tủ để đồ. Không phòng tắm. Không giường. Hẳn ông ta phải ngủ trên sàn nhà, quấn người trong bộ đồ bằng lông cừu.

Chỉ có vừa đủ khoảng trống để đi lại. Căn phòng bừa bộn hàng đống sách báo đã ngã vàng và các cuốn sổ sưu tập. Một số cuốn mới xong, bìa ngoài bong hẳn ra. Tôi có thể nói rằng tất cả đều viết về lịch sử của loài cừu ở Hokkaido. Tất cả có lẽ đều lấy từ kho lưu trữ của khách sạn Cá Heo cũ. Đây là phòng tra cứu về cừu, nơi ngài giáo sư Cừu, cha của chủ nhân căn phòng, từng trú ngụ. Điều gì đã xảy đến với ông ta?

Người Cừu nhìn tôi qua ánh nến bập bùng. Phía sau, cái bóng rõ lớn tới mức dị dạng của ông hắt lên bức tường đầy bụi bẩn.

“Đãlâurồi,” ông ta cất tiếng từ sau chiếc mặt nạ, “Đểxemnào, anhgầyđi à?”

“Ừm, chắc là tôi đã sút vài cân.”

“Nàonóiđi, thếgiớingoàikiathếnào? Bọntakhôngcónhiềutintứclắm, khôngcógìởđây.”

Tôi vắt chéo chân và lắc đầu. “Vẫn như vậy thôi. Không có gì đáng nói. Mọi thứ trở nên phức tạp hơn. Nhanh hơn. Không, không có gì thực sự mới mẻ cả.”

Người Cừu gật đầu, “Cuộcchiếntiếptheovẫnchưabắtđầu, phảikhông?”

Đối với Người Cừu, cuộc chiến gần đây nhất là cuộc chiến nào? Tôi không biết rõ. “Vẫn chưa,” tôi trả lời.

“Nhưngsớmmuộngìnósẽxảyra,” ông ta cất giọng bình thản, tay gấp đôi găng của mình lại, “Tốthơnanhnênđềphòng. Sắpcóchiếntranhrồi, khôngnghingờgìnữađâu. Nhớlấylờibọnta. Khôngtinaiđược. Chẳngđượcgìđâu. Chúngsẽgiếtanhbấtcứlúcnào. Chúngsẽgiếtlẫnnhau. Chúngsẽgiếttấtcả.”

Bộ lông của Người Cừu cáu bẩn, cứng queo và nhờn. Cái mặt nạ của ông ta trông cũng khủng khiếp, giống như thứ gì đó được chắp vá vội vàng. Thật khó nhìn trong ánh sáng mờ nhạt của căn phòng ẩm ướt này và có lẽ trí nhớ tôi sai lệch, nhưng vấn đề không chỉ là trang phục. Người Cừu rất mệt mỏi. So với lần cuối cùng tôi thấy ông bốn năm trước, ông ta trông như co rút lại. Hơi thở ông trở nên khó nhọc, khò khà khò khè rất khó nghe, nghe như cái ống nước bị nghẹt.

“Tưởnganhsẽđếnsớmhơn!” Người Cừu nói: “Bọntađãđợitừlâurồi. Cólần, cóaiđóđãtớiđây. Bọntađãtưởngđólàanh, nhưngkhôngphải. Anhlàmsaomàthếđược? Chỉlàaiđóđiloanhquanhởđây. Nhưngdùsaobọntavẫnmonganhđếnsớmhơn.”

Tôi nhún vai. “Tôi luôn nghĩ rằng mình sẽ quay lại, tôi đoán thế. Tôi biết tôi phải làm điều đó, nhưng rồi mãi không hạ được quyết tâm. Tôi đã mơ về nó. Về khách sạn Cá Heo. Lúc nào tôi cũng mơ về nó. Nhưng phải mất một thời gian tôi mới quyết định quay trở lại.”

“Cốgắnggạtnórakhỏiđầuư?”

“Có lẽ vậy,” tôi đáp. Rồi đưa mắt nhìn xuống tay mình trong ánh nến bập bùng. Có làn gió nào vừa từ đâu thoáng qua đây. “Lúc đầu tôi nghĩ mình phải cố quên những điều có thể quên. Tôi muốn một cuộc đời hoàn toàn không còn liên quan với nơi này.”

“Vìbạnanhđãchết?”

“Đúng, vì bạn tôi đã chết.”

“Nhưnganhđãtrởlại,” Người Cừu lại nói.

“Vâng, tôi đã trở lại,” tôi trả lời. “Tôi không thể gạt bỏ nơi này khỏi tâm trí. Tôi đã cố quên mọi thứ, nhưng rồi có những chuyện khác xảy ra. Do vậy, dù thích hay không, tôi lờ mờ nhận ra mình thuộc về nơi này. Thực sự tôi cũng không biết điều này có ý nghĩa gì, nhưng dù sao thì tôi cũng đã nhận ra. Trong những giấc mơ về nơi này, tôi là… một phần trong đó. Ở đây đã có ai đó khóc vì tôi. Ai đó cần tôi. Đó là lý do tôi trở lại. Rốt cuộc thì chốn này là chốn nào?”

Người Cừu nhìn tôi chằm chằm rồi lắc đầu. “Elàbọntakhôngbiếtnhiềulắm. Nóvôcùngtối, thậtsựtốităm. Tấtcảnhữnggìbọntabiếtlàcănphòngnày. Ngoàichỗnày, bọntakhôngbiếtgìnữa. Nhưngdùsaoanhcũngđãởđây, vậychắcđãtớilúcrồi. Tớilúcanhtìmđườngđếnđây. Cáchbọntanhìnthấy, ítnhất…” Người Cừu dừng lại ngẫm nghĩ. “Cólẽaiđóđãkhócvìanh, thôngquachốnnày. Aiđóbiếtanh, biếtdùthếnàoanhcũngquaylạinơiđây. Nhưchimvềtổ… Nhưngnóicáchkhác, nếuanhkhôngquaylạiđây, nơinàycũngsẽkhôngtồntại.” Người Cừu vò đôi găng tay. Chiếc bóng trên tường phản chiếu từng cử chỉ của ông ta với độ phóng rất lớn, như một bóng u linh đang rình rập hòng tóm gọn tôi từ trên cao.

Như con chim về tổ ư? Nghe có vẻ giống vậy thật. Có lẽ suốt bấy lâu, cuộc đời tôi vẫn không ngừng trôi theo cái vòng quay không định nghĩa được này.

“Giờthì, đếnlượtanh,” ông lão nói. “Kểchobọntavềbảnthânanhđi. Nơiđâylàthếgiớicủaanh. Khôngcầnphảikháchkhí. Từtừmàkể. Nóibấtcứđiềugìanhmuốn.”

Trong ánh sáng mờ nhạt, mắt chăm chú nhìn vào chiếc bóng trên tường, tôi dốc lòng kể chuyện đời mình. Mất rất nhiều thời gian, nhưng tôi lại kể rất chậm, như băng tan chảy, kể từng chuyện một. Rằng tôi đã xoay xở nuôi sống mình thế nào. Vậy mà chưa từng thử đi bất cứ đâu. Chưa từng rời nơi nào, mỗi năm thì một già đi, về tất cả đã hờ hững với tôi thế nào. Và tôi hờ hững tất cả. Rằng tôi đã lạc lối thế nào. Tôi đã làm việc như một thằng ngốc vì những công việc chẳng đáng gì. Tại sao mọi việc lại không hề thay đổi. Cả chuyện tôi mất phom người. Các mô tế bào cứng đờ ra từ bên trong. Điều này làm tôi sợ hãi. Tôi kể cả chuyện mình đã lờ mờ nhận ra sợi dây kết nối với nơi này như thế nào. Tôi không biết nó là chốn nào nhưng linh cảm mách bảo tôi là một phần thuộc về nó… Bằng bản năng, tôi biết mình thuộc về nó…

Người Cừu lắng nghe tất cả mà không nói một lời nào. Thậm chí có khi ông ta còn ngủ gật nữa. Nhưng khi tôi dừng câu chuyện, ông mở mắt và nhẹ nhàng nói: “Đừnglolắng, anhđúnglàmộtphầncủanơinày, thậtđấy. Đãluônthế, sẽluônthế. Nóbắtđầuởđây. Thìnósẽkếtthúcởđây. Đâylàchỗcủaanh. Nólàđầumối. Nóliênkếtmọithứ.”

“Mọi thứ ư?”

“Mọithứ. Nhữnggìanhđãmất. Nhữnggìanhsẽmất. Mọithứ. Đâylànơimọithứkếtnốilạivớinhau.”

Tôi nghĩ về điều đó. Tôi không hiểu gì cả. Lời nói của Người Cừu quá mơ hồ, mờ ảo. Tôi phải yêu cầu ông ta giải thích lại. Nhưng ông không nói nữa. Thế có nghĩa là không thể giải thích được sao? Ông lắc cái đầu lông cừu của mình rồi im lặng. Đôi tai già vẫy lên vẫy xuống. Cái bóng trên tường rung lên. Dữ dội đến mức tôi tưởng như bức tường như sắp sập xuống.

“Sẽlýgiảiđược. Khônglâunữa, tấtcảsẽlýgiảiđược. Khithờiđiểmđóđến, anhsẽhiểu,” ông ta trấn an tôi.

“Nhưng cho tôi biết một điều được không.” tôi hỏi. “Tại sao người chủ của khách sạn Cá Heo cũ khăng khăng đòi khách sạn mới giữ cái tên này?”

“Anhtalàmvậylàvìanh,” Người Cừu trả lời. “Họphảigiữtêncũđểanhquaytrởlại. Nếukhông, anhđãkhôngởđây. Tòanhàđãthayđổi, nhưngkháchsạnCáHeovẫnởđây. Bọntađãnóirồimà, lúcnàonócũngvẫnsẽởđây. Bọntađợianh.”

Tôi cười phá lên. “Đợi tôi ư? Họ gọi chỗ này là khách sạn Cá Heo chỉ vì tôi thôi ư?”

“Phải. Điềunàylạlắmsao?”

Tôi lắc đầu. “Không, không lạ, chỉ thấy ngạc nhiên thôi. Quá bất ngờ, giống như chuyện này không phải là sự thật vậy,”

“Ồ. Đólàsựthật,” Người Cừu nhẹ nhàng trả lời. “ThậtnhưkháchsạnCáHeodướikialàthậtvậy. Anhcònmuốnthậtđếnthếnàonữa?” Người Cừu vỗ nhẹ ngón tay lên cạnh bàn, ánh nến liền lắc lư. “Vàthậtsựlàbọntađangởđây. Bọntađãđợi. Đợianh. Bọntađãsắpxếphết. Bọntađãnghĩvềmọithứ. Tấtcảmọithứ, saochoanhcóthểkếtnốilạiđượcvớimọingười.”

Tôi chăm chú nhìn vào ngọn nến đang tung tăng nhảy múa. Chuyện này thật quả là khó tin. “Tôi không hiểu. Tại sao ông lại làm đủ chuyện rắc rối như vậy? Vì tôi ư?”

“Đâylàthếgiớicủaanh,” Người Cừu thản nhiên trả lời. “Đừngnghĩnhữngchuyệnnàyphứctạpquá. Nếuanhđangđitìmnó, thìnóởđây. Nơinàyởđâylàdànhriêngchoanh. Đặcbiệtđấy. Bọntađãrấtvấtvảđểanhquaylạiđây. Đểmọithứkhôngtanrã. Đểchoanhkhỏiquên.”

“Vậy tôi thực sự là một phần của nơi đây?”

“Đươngnhiênanhthuộcvềnơinày. Mọingườiđềuởđây, cùngvớinhau. Đâylàthếgiớicủaanh,” Người Cừu nhắc lại.

“Vậy ông là ai? Và ông làm gì ở đây?”

“BọntalàNgườiCừu,” ông ta cười ha hả. “Anhkhôngthấysao? Bọntakhoácdacừu, vàbọntasốngtrongthếgiớimàconngườikhôngthểnhìnthấy. Bọntađãbịđuổivàorừng. Lâulắmrồi. Lâulắmrồi. Khómànhớnổitrướcđâybọntatừnglàgìnữa. Nhưngkểtừđóbọntasốngtáchbiệtvớixãhộiloàingười. Cũngdễdàngthôi, nếuanhmuốnthế. Rồibọntatớiđâyđểtrôngnomnơinày. Mộtnơinàođóđểchemưachenắng. Trongrừngcódãthú. Hiểukhông?”

“Rõ rồi,” tôi trả lời

“Bọntanốikếtcácthứvớinhau. Đólàviệccủabọnta. Nhưtổngđàiđiệnthoạibọntanốikếtmọithứ. Cóđiểmnútlàbọntanốikếtlại. Bọntachínhlàliênkết. Vìkhôngmuốnmọithứbịlạcnhaunênbọntanốithắtcácnútlại. Đólànhiệmvụcủabọnta. Tổngđàiđiệnthoại. Anhkiếmtìm, bọntaliênkết, anhcóđượcthứmìnhmuốn. Hiểuchưa?”

“Hơi hơi,” tôi trả lời.

“Dovậy,” Người Cừu nói tiếp, “dovậy. Anhcầnbọnta. Nếukhông, anhsẽkhôngởđây. Anhmấtthứgìđó, nênanhlạclối. Anhmấtphươnghướng. Nhữngliênkếtcủaanhkhônghoànchỉnh. Anhhoangmang, nghĩrằngmìnhkhôngcókếtnốinào. Nhưngđólànơitấtcảkếtnốilại.”

Tôi nghĩ về những điều ông ta nói. “Có thể ông đúng. Như ông nói, tôi đã đánh mất gì đó, bị lạc lối, và tôi hoang mang. Tôi chẳng gắn kết với bất cứ điều gì. Đây là nơi duy nhất mà tôi cảm thấy mình thuộc về.” Tôi dừng lại và chăm chú nhìn bàn tay mình trong ánh nến. “Nhưng còn một điều khác, người khóc trong những giấc mơ ấy, có sự liên kết nào với nơi đây không? Tôi nghĩ mình cảm nhận được điều đó. Ông biết đấy, nếu có thể, tôi muốn bắt đầu lại việc tôi đã bỏ dở cách đây nhiều năm. Đó hẳn là lý do tôi cần ông ở đây.”

Người Cừu im lặng. Dường như ông ta không còn gì để nói nữa. Bầu không khí tĩnh lặng đè nặng, như thể chúng tôi đang bị dìm xuống tận đáy một cái hố sâu vô cùng. Nó đè chặt tôi xuống, đóng đinh suy nghĩ của tôi bằng trọng lực của nó. Đôi lúc, cây nến lại phát ra những tiếng xè xè. Người Cừu hướng ánh mắt sang phía ngọn nến. Vẫn im lặng, im lặng đến vô tận. Rồi từ từ, ông ta ngước mắt nhìn sang phía tôi.

“Bọntasẽlàmnhữngđiềucóthể,” Người Cừu nói. “Dùbọntađãgià, mongrằngbọntavẫncònlàmđược. Hêhê. Bọntasẽcố, nhưngkhôngđảmbảo, khôngthểhứarằnganhsẽhạnhphúc.” Ông ta nhìn xuống vết thủng trên tấm lông cừu của mình rồi nói tiếp. “Bọntachỉkhôngdámchắc. Trongthếgiớikia, cóthểchẳngcónơinàonữa, khôngcònnơinàodànhchoanh. Anhbắtđầucóvẻcứngngắc, cólẽlàcũngđếnnỗikhôngdichuyểnnổi. Vảlạianhcũngđâucòntrẻnữa.”

“Vậy tôi phải làm sao bây giờ?”

“Anhđãđánhmấtnhiềulắm. Rấtnhiềuthứquýgiá. Chẳngphảilỗicủaai. Nhưngmỗilầnanhđánhmấtmộtthứgìđó, anhđánhmấtluôncảmộtchuỗinhữngthứkháccùngnó. Tạisao? Tạisaoanhlạilàmvậy?”

“Tôi không biết.”

“Khócóthểlàmkhác. Sốphậncủaanh, hoặcđiềugìđógầngiốngnhưsốphận. Cáckhuynhhướng.”

“Các khuynh hướng?”

“Cáckhuynhhướng. Anhcócáckhuynhhướng. Bởithế, kểcảanhcólàmlạitấtcảmọithứ, cảcuộcđờianh, anhcókhuynhhướngchỉlàmnhữngchuyệnmìnhtừnglàm, lặplạitấtcả.”

“Được rồi, vậy tôi phải làm sao bây giờ?”

“Bọntađãnóirồi, bọntasẽlàmhếtnhữnggìcóthể. Cốgắngkếtnốianhlạivớinhữnggìanhmuốn.” Người Cừu đáp. “Nhưngbọntakhôngthểlàmđiềuđómộtmình. Anhcũngphảithamgia. Ngồikhônglàmđượcgìcả, nghĩcũngkhônglàmđượcgìcả.”

“Vậy thì tôi phải làm gì?”

“Khiêuvũ,” Người Cừu nói. “Anhphảikhiêuvũ. Mỗikhitiếngnhạccấtlên. Anhphảinhảy. Đừngbaogiờthắcmắctạisao. Khiđầuanhsuynghĩlàlúcchânanhphảidừnglại. Dừnglạinghĩalàbọntasẽmắckẹt. Khibọntamắckẹt, anhcũngmắckẹt. Vìvậy, đừngnghĩngợigì, chodùđiềuđócóngốcđếnmứcnào. Anhphảiluôngiữnhịpchân. Anhphảiluônmềmdẻo. Anhphảilàmmềmnhữngbộphậnđangcứngđờtrêncơthể. Phảisửdụngtấtcảnhữnggìanhcó. Bọntabiếtanhmệtmỏi, mệtmỏivàhoảngsợ. Nhưngaicũngvậymà, phảikhông? Chỉcầnđừngđểđôichânmìnhdừnglạilàđược.”

Tôi ngước lên và lại chăm chú nhìn cái bóng trên tường.

“Khiêuvũlàtấtcả,” Người Cừu tiếp tục nói. “Nhảybằngphongtháithậthoànhảo. Nhảytớikhimọithứxungquanhđềuquaycuồng. Nếuanhlàmđượcđiềuđó, bọntacóthểlàmđượcđiềugìđóchoanh. Anhphảikhiêuvũ. Mỗikhitiếngnhạcvanglên.”

Khiêu vũ. Mỗi khi có tiếng nhạc vang lên, văng vẳng vang lên trong đầu tôi.

“Này, cái thế giới này mà ông luôn nhắc tới là gì vậy? Ông nói rằng nếu tôi có định tại một chỗ, tôi sẽ bị kéo từ thế giới kia sang thế giới này, hay đại loại như vậy. Nhưng chẳng phải thế giới này là để cho tôi hay sao? Chẳng phải nó tồn tại vì tôi sao? Vậy thì vấn đề là gì? Chẳng phải ông đã nói nơi này thực sự tồn tại đấy sao?”

Người Cừu lắc đầu. Chiếc bóng của ông trên tường rung lên như thể có bão. “Ởđâylạikhác. Anhchưasẵnsàng, chưasẵnsàngchonơinày. Ởđâyquátối, quárộnglớn. Thậtkhógiảithích. Nhưđãnóivớianh, bọntakhôngbiếtnhiềulắm. Nhưngđólàsựthật. Anhvàbọntađangnóichuyệnlàmộtthựctại. Nhưngkhôngphảilàthựctạiduynhất. Cònrấtnhiềuthựctạikhácởngoàikia. Bọntachọnnơinàychỉvì, hừm, bọntakhôngthíchchiếntranh. Vàbọntacũngkhôngcòngìđểmất. Nhưnganh, anhvẫncònhơiấm. Vìvậy, nơinàyquálạnhđốivớianh. Khôngcógìđểăn. Đâykhôngphảinơidànhcho anh.”

Khi Người Cừu nói về cái lạnh cũng là lúc tôi bắt đầu để ý tới nhiệt độ trong căn phòng. Tôi sục bàn tay vào túi áo, run rẩy.

“Anhcảmthấyrồiphảikhông?” Người Cừu hỏi.

“Phải.” tôi gật đầu.

“Thờigiansắphếtrồi,” Người Cừu cảnh báo. “Cànglâu, cànglạnh. Tốthơnanhnênđiđi.”

“Khoan đã, còn điều cuối cùng nữa. Tôi đoán là lúc nào ông cũng ở quanh đây, trừ một điều là tôi không trông thấy ông. Chỉ là cái bóng của ông, khắp mọi nơi. Ông lúc nào cũng ở một nơi nào đó.”

Người Cừu lần ngón tay theo cái bóng mập mờ của mình. “Đúngvậy, bọntachỉlàcáibóngnửavời, bọntaởgiữamọithứ.”

“Nhưng tôi vẫn không hiểu,” tôi nói. “Tại đây tôi có thể nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt và cơ thể ông. Trước đây tôi không thể, nhưng giờ tôi đã thấy. Sao lại như vậy?”

“Anhđãđểmấtquánhiều,” ông ta nhẹ nhàng nói, “nêngiờ anhcóthểnhìnthấybọnta.”

“Ý ông là…?” Dồn hết can đảm, tôi hỏi ông ta câu hỏi quan trọng nhất: “Đây có phải là thế giới của người chết không?”

“Không,” Người Cừu trả lời. Vai ông ta đu đưa sau mỗi nhịp thở. “Cảanhvàbọnta, chúngtađangsống. Đangthở. Đangnóichuyện.”

“Tôi không hiểu.”

“Nhảy,” ông ta nói. “Đólàcáchduynhất. Giábọntacóthểgiảithíchrõhơn. Nhưngbọntađãnóivớianhmọiđiềucóthể. Khiêuvũ. Đừngnghĩgìcả. Hãykhiêuvũ. Nhảyhếtsứcmình, nhưthểcuộcsốngcủaanhphụthuộcvàonó. Anhphảinhảy.”

Nhiệt độ đang giảm xuống. Tôi giật mình nhớ lại một cơn ớn lạnh. Rét buốt tới tận xương tủy, ẩm ướt lạnh lẽo. Đã lâu lắm rồi, ở một nơi thật xa. Nhưng ở đâu? Đầu óc tôi như bị tê liệt. Cứng đờ và bất động.

Cứng đờ và bất động.

“Tốthơn là anh nên đi,” Người Cừu giục tôi. “Cứởđây, anhsẽchếtcóng. Nhưngnếuanhcần, bọntavẫnởđây. Anh biết tìm bọn ta ở đâu rồi.”

Người Cừu tiễn tôi ra chỗ rẽ ở hành lang, lê chân nặng nề, soạt… soạt… soạt. Chúng tôi tạm biệt. Không bắt tay, không một lời chào đặc biệt. Chỉ tạm biệt, rồi chúng tôi đi vào bóng tối. Ông ta trở về căn phòng nhỏ bé của mình còn tôi đi ra chỗ thang máy. Tôi nhấn nút gọi thang máy. Khi thang máy tới nơi, cửa mở ra không một tiếng động. Ánh sáng tràn ngập xung quanh tôi dọc khắp hành lang. Tôi bước vào và đổ sụp vào vách tường. Cửa đóng lại, Tôi không nhúc nhích.

Tốt thôi… tôi tự nói với mình. Nhưng tốt cái gì cơ? Không có câu trả lời. Đầu tôi là một khoảng trống rỗng khổng lồ. Một khoảng không bất tận. Đúng như Người Cừu đã nói, tôi mệt mỏi và sợ hãi. Cô đơn. Và lạc lối.

“Anhphảinhảy” Người Cừu đã nói thế.

“Anh phải nhảy,” vang vọng trong đầu tôi.

“Phải nhảy,” tôi nhắc lại thành tiếng.

Tôi nhấn nút tầng mười lăm.

Khi thang máy tới nơi, giai điệu bài “Moon river” phát ra từ loa gắn trên trần đón chào tôi. Thế giới hiện thực – nơi có lẽ tôi không bao giờ có được hạnh phúc, và không bao giờ đạt được gì.

Tôi liếc nhìn đồng hồ. Thời gian trở lại, ba giờ hai mươi sáng.

Được rồi, tôi nghĩ. Được rồi, được rồi, được rồi, được rồi, được rồi, được rồi… câu nói cứ văng vẳng trong đầu tôi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.