Nhảy, nhảy, nhảy
Chương 29 phần 1
Sáng hôm sau, Yuki nói con bé muốn đi gặp mẹ. Nó không biết mẹ mình ở đâu, nhưng có số điện thoại. Thế là tôi liền gọi điện, chào xã giao vài câu và được chỉ đường. Ame hiện thuê một ngôi nhà nhỏ gần Makaha, cách Honolulu khoảng bốn năm phút đi xe.
Chúng tôi thuê một chiếc Mitsubishi Lancer, mở radio thật to, hạ cửa kính xuống và lên đường. Mọi nơi chúng tôi đi qua đều ngập tràn ánh sáng, sóng vỗ và hương hoa.
“Mẹ cháu sống một mình à?” tôi hỏi Yuki.
“Chú đùa à?” Yuki bĩu môi. “Không đời nào một quý bà lớn tuổi có thể sống một mình ở nước ngoài. Cháu đảm bảo bà ấy là người không thực tế nhất chú từng gặp đấy. Nếu không có ai chăm sóc, bà ấy không còn là chính mình nữa. Chú dám cược bao nhiêu rằng bà ấy có bạn trai ở đó? Có thể là trẻ và đẹp trai. Giống của bố ấy?”
“Thế à?”
“Chú còn nhớ không, cái gã pê đê điển trai sống cùng ba cháu ấy. Trông anh ta thật là sạch sẽ.”
“Đồng tính sao?”
“Chú không thấy vậy à?”
“Không, chú chẳng nghĩ gì hết.”
“Trời, chú thật là chậm hiểu. Chỉ cần nhìn thôi cũng đủ biết,” Yuki nói. “Cháu không biết bố cháu có pê đê không, nhưng anh chàng kia thì chắc chắn. Rõ ràng trăm phần trăm là pê đê.”
Radio chuyển sang Roxy Music, Yuki liền vặn âm lượng hết cỡ.
“À mà, điểm yếu của mẹ cháu là các nhà thơ. Những nhà thơ trẻ, nhà thơ bất tài, đủ các thể loại nhà thơ. Bà ấy bắt họ đọc thơ khi bà ấy tráng phim. Đó là thú vui của mẹ cháu. Cháu thì cháu thấy thế hơi quái gở. Bố cháu mà là nhà thơ có phải hay không, nhưng dù có bất chợt được tắm trong mưa hoa ông ấy cũng chẳng làm nổi bài thơ nào đâu.”
Gia đình này thật kỳ dị. Cha là một nhà văn cục cằn và cẩu thả sống cùng gã Thứ Sáu pê đê, mẹ là nhiếp ảnh gia thiên tài kè kè các người tình thi sĩ, đứa con gái có khả năng ngoại cảm với… Khoan đã. Có phải tôi đang trở thành một phần mở rộng của cái gia đình luôn luôn sống trong ảo giác tinh thần này không? Tôi nhớ đến nụ cười quyến rũ và thân thiện của Thứ Sáu. Có thể, chỉ là có thể thôi, anh ta sẽ nói Chào mừng anh đến với hội chúng tôi. Gượm đã. Mối liên hệ với gia đình này hoàn toàn chỉ là tạm thời thôi. Hiểu không? Một kỳ nghỉ ngắn trước khi tôi trở lại với công việc xúc dọn tuyết. Tôi không có thời gian cho thú vui dở hơi này. Tôi muốn làm việc riêng của mình. Tôi thích mọi thứ ít liên quan đến với nhau hơn.
Theo lời chỉ dẫn của Ame, tôi rẽ phải rời đường lớn trước khi tới Makaha và đi về phía những ngọn đồi. Dọc hai bên đường là những ngôi nhà tưởng như luôn sẵn sàng bị tốc mái trong trận bão sau, mỗi lúc một thưa thớt dần trên con đường dẫn tới cổng của khu nghỉ dưỡng cao cấp. Người gác cổng để chúng tôi vào khi nghe nhắc đến tên cô Ame.
Bên trong trải dài một bãi cỏ rộng xén kỹ. Những người làm vườn lái những chiếc xe nhỏ hay thấy ở sân golf đang cần mẫn tỉa những hàng cây, ngọn cỏ. Nơi ở của mẹ Yuki nằm bên kia bể bơi, sau hàng cây, sau cả một ngọn đồi và thảm cỏ.
Đó là một ngôi nhà xây theo kiểu nhiệt đới, xung quanh có nhiều câu trĩu quả. Chúng tôi bấm chuông. Tiếng chuông gió khô khốc khật khừ hòa nhịp với nhạc Vivaldi phát ra từ ô cửa sổ mở. Vài giây sau, cửa mở và một người đàn ông da trắng cao to có làn da rám nắng xuất hiện. Anh ta trông vạm vỡ, để ria mép, mặc áo sơ mi Hawaii, quần thể thao và đi dép tông cao su. Anh chàng tầm tuổi tôi, trông cũng tươm, nếu không nói là đẹp trai, và hơi cục mịch so với một nhà thơ, mặc dù chắc chắn trên đời này cũng có những nhà thơ cục mịch như thế. Đặc điểm dễ nhận ra nhất của anh ta là cánh tay phải bị cụt hoàn toàn từ vai trở xuống.
Anh ta nhìn tôi, nhìn Yuki, rồi quay lại nhìn tôi, vận động các cơ hàm thật uyển thuyển để mỉm cười. “Hello,” anh ta nhẹ nhàng chào chúng tôi, rồi chuyển sang tiếng Nhật. “Konnichiwa.”. Anh ta bắt tay và mời chúng tôi vào nhà. Tiếng Nhật của anh ta thật hoàn hảo.
“Ame đang rửa ảnh. Mười phút nữa cô ấy sẽ ra,” anh ta nói. “Xin lỗi vì để hai người phải đợi. Xin tự giới thiệu, tôi là Dick, Dick North. Tôi sống ở đây với Ame.”
Dick dẫn chúng tôi đi vào phòng khách rộng rãi. Căn phòng có những cửa sổ lớn và một chiếc quạt trần, gống như trong tiểu thuyết của Somerset Maugham(34). Đồ thủ công vùng Polynesia trang trí trên tường. Anh ta mời chúng tôi ngồi xuống bộ sofa to tướng, rồi mang ra hai chai Primos và một chai Coca. Dick và tôi uống bia, còn Yuki không hề đụng đến chai nước của nó.
34. Wililiam Somerset Maugham (1874-1965): nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Anh.
Con bé nhìn chằm chằm ra cửa sổ không nói câu nào. Giữa các hàng cây ăn quả có thể nhìn thấy bãi biển hiện lên lấp lóa. Phía chân trời lơ lửng một đám mây cô độc, có hình giống đầu người tiền sử. Nó cứ bướng bỉnh đứng im một chỗ, cố định trên nên cảnh biển. Một hình khối màu trắng định hình trên nền trời. Những đàn chim bay qua hót ríu rít ran. Tiếng nhạc Vivaldi dồn dập lên cao trào để rồi kết thúc, Dick đứng dậy cất đĩa vào vỏ rồi đặt nó lên giá. Chỉ có một cánh tay nhưng anh ta khéo léo đến kinh ngạc.
“Anh học tiếng Nhật ở đâu mà giỏi vậy?” tôi hỏi vì chẳng biết nói gì khác nữa.
Dick nhướng mày mỉm cười. “Tôi sống ở Nhật mười năm rồi,” anh ta trả lời chậm rãi. “Tôi đến đó lần đầu tiên trong chiến tranh – chiến tranh Việt Nam ấy. Tôi thích nước Nhật, tôi đã từng tới trường đại học Sophia. Tôi học thơ ca Nhật Bản, haiku và tanka, những thể loại mà tôi đang dịch. Không dễ, nhưng vì bản thân tôi cũng là nhà thơ nên việc ấy cũng rất có ích.”
“Tôi có thể hình dung được,” tôi lịch sự nói. Không trẻ, không đẹp trai nổi bật, nhưng là nhà thơ. Có một trong ba điều kiện.
“Thật lạ, anh biết đấy,” anh ta nói như đang tiếp tục dòng suy nghĩ trong đầu. “Chẳng bao giờ nghe nói đến một nhà thơ cụt một tay. Anh có thể nghe nói đến họa sĩ, nghệ sĩ piano, thậm chí cả cầu thủ ném bóng một tay. Vậy tại sao không có nhà thơ cụt tay nhỉ?”
Cũng đúng.
“Cho tôi biết nếu anh nhớ ra có người nào như thế,” Dick nói.
Tôi lắc đầu. Tôi không có nhiều quan hệ trong giới thi sĩ nói chung, ngay cả những người lành lặn cả hai tay cũng không.
“Có nhiều tay lướt sóng cũng bị cụt một tay,” anh ta tiếp tục. “Họ dùng chân để đạp ván. Và họ làm được. Tôi cũng từng thử một chút.”
Yuki đứng dậy đi quanh quẩn trong phòng. Con bé lấy mấy cái đĩa trên giá xuống, nhưng hình như không tìm thấy cái nó thích, nó khẽ cau mày. Không có âm nhạc, mọi thứ xung quanh yên tĩnh đến mức dễ ru ngủ người ta. Phía xa thỉnh thoảng có tiếng ì ầm của máy cắt cỏ, tiếng người nói, tiếng chuông gió, và cả tiếng chim hót.
“Yên tĩnh quá,” tôi nhận xét.
Dick North trầm ngâm nhìn bàn tay mình.
“Phải. Tĩnh lặng. Đó là điều quan trọng nhất. Đặc biệt với những người làm công việc như Ame. Cả công việc của tôi nữa, cũng rất cần sự yên tĩnh. Tôi không thể chịu được sự nhộn nhịp hối hả. Ồn ào, anh thấy Honolulu có ồn ào không?”
Tôi thấy cũng không ồn lắm, nhưng vẫn đồng ý để tiếp tục cuộc nói chuyện. Yuki lại nhìn ra cửa sổ với nụ cười châm chọc ra ý thật-phiền-phức.
“Tôi thích sống ở Kauai hơn. Đó thực sự là một nơi rất đẹp. Yên tĩnh hơn, ít người hơn. Tôi không thích Oahu. Quá nhiều khách du lịch, quá nhiều ô tô, quá nhiều tội phạm. Nhưng Ame phải ở lại đây vì công việc. Cô ấy tới Honolulu hai ba lần một tuần để lấy thiết bị và nhu yếu phẩm. Với cả, tất nhiên ở đây thì làm ăn và gặp gỡ mọi người cũng dễ dàng hơn. Hiện cô ấy chụp ảnh công nhân làm đường, chụp hết. Cô ấy là một nhà nhiếp ảnh tuyệt vời.”
Tôi chưa bao giờ ngắm kỹ các bức ảnh nghệ thuật của Ame, nhưng lần này, vì lý do xã giao, tôi đồng ý với anh ta. Yuki phát ra một thứ âm thanh gì đó qua mũi.
Dick hỏi tôi làm gì.
Cây bút tự do, tôi bảo anh ta thế. Anh ta có vẻ thích thú, có lẽ nghĩ rằng tôi là một dạng tâm hồn đồng điệu với mình. Rồi anh ta hỏi tôi đang viết thể loại gì.
Bất cứ cái gì, tôi viết theo đơn đặt hàng. Giống xúc tuyết vậy, tôi nói, cố gắng để anh ta hiểu theo nghĩa này.
Xúc tuyết, Dick trang trọng nhắc lại. Dường như anh ta không hiểu lắm. Tôi đang định giải thích thì Ame bước vào.
Ame mặc áo vải bông chéo và quần soóc trắng. Không trang điểm, đầu tóc rối bù, như vừa ngủ dậy. Mặc dù thế, trông vẫn quyến rũ lạ kỳ, toát lên vẻ chững chạc và dáng điệu khó quên khiến tôi ấn tượng ngay từ lúc còn ở khách sạn Cá Heo. Vừa bước vào, chị ta đã thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Ngay lập tức, không cần giải thích, không cần phô diễn.
Rồi không một lời chào hỏi. Ame đi về phía Yuki, âu yếm xù tóc con bé lên, rồi dụi chỏm mũi vào thái dương con bé. Rõ ràng Yuki không thích, nhưng vẫn cố chịu đựng. Nó lắc đầu thật manh làm mái tóc trở lại bình thường, rồi lạnh lùng nhìn bình hoa trên giá sách. Tuy nhiên, đó không phải là ánh mắt coi thường khinh khỉnh như khi nhìn bố nó. Ở đây, Yuki chỉ thể hiện sự lúng túng, cố kìm nén mình mà thôi.
Giữa mẹ và con gái đang có một cuộc đối thoại không lời. Không có “Con khỏe không?” hay “Mọi việc vẫn ổn chứ?” Chỉ là nghịch tóc và chạm mũi. Rồi Ame đến ngồi kế bên tôi, rút ra một bao Salem và châm lửa. Nhà thơ đi tìm một chiếc gạt tàn rồi cẩn thận đặt lên bàn. Ame vứt que diêm vào đó, nhả khói, nhăn mũi rồi để điếu thuốc xuống gạt tàn.
“Xin lỗi, không thể bỏ dở công việc được,” chị ta bắt đầu. “Anh biết làm ảnh là thế nào đấy. Không thể bỏ dở giữa chừng.”
Nhà thơ mang ra một chai bia và một chiếc cốc, rồi rót cho Ame.
“Anh định ở Hawaii bao lâu?” Ame hỏi.
“Khoảng một tuần,” tôi trả lời. “Tôi không có lịch cố định. Hiện tôi đang nghỉ nhưng sắp tới tôi cũng phải quay lại làm việc sớm thôi.’
“Anh cứ ở bao lâu cũng được. Ở đây rất đẹp.”
“Vâng, công nhận là ở đây rất đẹp,” tôi đáp lại, nhưng tâm trí cô có vẻ đã đang ở đâu rồi.
“Anh ăn gì chưa?” Ame lại hỏi.
“Tôi ăn một miếng sandwich trên đường rồi,” tôi trả lời. “Nhưng Yuki chưa ăn gì.”
“Bữa trưa chúng ta ăn gì nhỉ?” Ame quay lại phía nhà thơ hỏi.
“Anh nhớ hình như chúng ta ăn spaghetti cách đây một tiếng,” anh ta nói chậm rãi và thong thả. “Cách đây một tiếng nghĩa là mười hai giờ mười lăm, giờ đó có thể coi là bữa trưa rồi.”
“Thật thế à?” Ame lơ đãng đáp lại.
“Đúng thế,” nhà thơ nói, mỉm cười với tôi. “Khi Ame tập trung vào công việc, cô ấy không còn biết đến cái gì khác nữa. Cô ấy quên cả chuyện đã ăn rồi hay chưa, làm gì ở đâu. Khi tập trung cao độ, đầu óc cô ấy trở lên trống rỗng.”
Tôi cười xã giao. Tập trung cao độ ư? Xem ra đây có vẻ thuộc vấn đề thần kinh nhiều hơn.
Ame lơ đãng nhìn cốc bia một lúc trước khi cầm lên. “Có lẽ vậy, nhưng em vẫn đói. Mà chúng ta đã ăn gì cho bữa sáng đâu,” chị ta nói. “Hay là ăn rồi nhỉ?”
“Để anh kể lại cho em những gì anh nhớ nhé. Bảy rưỡi sáng nay em đã ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với bưởi, bánh mì nướng và sữa chua,” Dick thuật lại, “Em còn tỏ ra rất hào hứng và nói rằng một bữa sáng ngon là một trong những điều thú vị của cuộc sống.”
“Em đã nói thế à?” Ame hỏi, gãi gãi mũi. Chị ta nhìn chằm chằm vào không khí để suy ngẫm, giống như một cảnh trong phim Hitchcock vậy. Thực tại sẽ lùi ra xa khi ra chưa phân biệt được ai sáng suốt còn ai không.
“Ồ, cũng chẳng sao. Em đang rất đói,” Chị ta nói. “Anh không phiền chứ?”
“Không, bình thường thôi,” người tình thi sĩ của chị ta cười lớn. “Đó là dạ dày của em, đâu phải của anh. Nếu muốn, em cứ ăn bao nhiêu cũng được. Thèm ăn là chuyện tốt. Em lúc nào cũng thế. Khi công việc tiến triển tốt, em luôn thèm ăn. Anh làm cho em một miếng sandwich nhé?”
“Cám ơn. Anh mang luôn cho em một cốc bia được không?”
“Tất nhiên rồi,” anh ta nói, rồi mất hút vào trong bếp.
“Còn anh, anh đã ăn trưa chưa?” Ame hỏi tôi.
“Tôi đã ăn một chiếc sandwhich trên đường,” tôi nhắc lại.
“Còn Yuki?”
“Chưa,” Yuki nói ngắn gọn.
“Dick và tôi gặp nhau ở Tokyo,” Ame vắt chéo chân và nói với tôi. Nhưng có lẽ chị ta cũng đang giải thích với Yuki. “Anh ấy là người đã gợi ý cho tôi tới Kathmandu. Anh ấy nói với tôi sẽ tạo cảm hứng cho tôi. Kathmandu quả thực là một nơi rất tuyệt. Dick mất cánh tay ở Việt Nam. Đó là miền đất của bom mìn. Một quả “Boucing Betty”(35), loại vọt lên cao rồi mới nổ ấy. Bùm. Gã đi cạnh anh ấy giẫm phải và Dick mất một cánh tay. Dick là nhà thơ. Anh ấy nói tiếng Nhật rất giỏi, đúng không? Chúng tôi ghé Kathmandu một thới gian rồi đến Hawaii. Sau Kathmadu, chúng tôi muốn đến nơi nào ấm áp một chút. Đó là khi Dick tìm được chỗ này. Nhà của một người bạn anh ấy. Tôi dùng phòng tắm dành cho khách hàng làm phòng tối. Một nơi rất tuyệt, anh có thấy thế không?”
35. Tên lóng của một loại mìn nhảy lên khoảng một mét trên không rồi mới phát nổ.
Ame thở một hơi thật dài, như để biểu thị rằng đó là tất cả những gì mình muốn nói. Chị ta duỗi người ra rồi im lặng. Chiều xuống yên ả, ánh nắng chiếu khiến những hạt bụi sáng lên lấp lánh lơ lửng hỗn độn trong không khí. Cụm mây trắng hình đầu người tiền sử vẫn chơi vơi nơi chân trời. Dai dẳng hơn bao giờ hết. Điếu Salem của Ame vẫn cháy trong gạt tàn, hầu như không được đụng tới.
Không hiểu Dick xoay xở cách nào để kẹp sandwich bằng một tay nhỉ? Tôi nhận ra mình đang băn khoăn về chuyện đó. Làm thế nào để anh ta cắt lát bánh mì? Làm thế nào để giữ yên chúng?
Khi nhà thơ mang ra một khay bánh sandwich thịt hun khói tuyệt đẹp, ngon lành, cắt khéo léo, tôi không còn lời nào để diễn tả sự ngưỡng mộ của mình nữa. Rồi anh ta mở một chai bia và rót cho Ame.
“Cám ơn Dick,” Ame nói rồi quay sang tôi. “Dick là một đầu bếp giỏi.”
“Nếu có một cuộc thi nấu ăn dành cho những nhà thơ bị cụt một tay, tôi sẽ thắng dễ dàng cho xem.” Dick nói cùng một cái nháy mắt. Rồi anh ta quay vào bếp để pha cà phê. Dù chỉ có một cánh tay nhưng Dick làm được rất nhiều việc.
Ame mời tôi một chiếc sandwich. Bánh rất ngon, dường như có cả thi vị trong ấy. Cà phê của Dick cũng rất tuyệt.
“Không có vấn đề gì chứ, anh với Yuki, chỉ hai người thôi ư?” Ame tiếp tục câu chuyện.
“Gì cơ?”
“Tất nhiên là tôi đang nói về âm nhạc. Nhạc rock ấy, Nó không làm anh đau đầu à?”
“Không, không hề,” tôi nói.
“Tôi không thể nghe loại nhạc đó quá ba mươi giây, nếu không đầu tôi sẽ nổ tung. Ở với Yuki rất tuyệt, nhưng thứ nhạc đó thật không chịu nổi.” Ame nói, day day ngón tay trở lên thái dương. “Tôi nghe được ít loại nhạc lắm. Vài bản baroque, một chút jazz. Nhạc dân tộc. Những âm thanh làm cho người ta thấy thư giãn. Đó là những thứ mà tôi thích. Tôi cũng thích thơ nữa. Hài hòa và bình yên.”
Ame châm một điếu thuốc khác, hút một hơi ngắn rồi đặt xuống gạt tàn. Tôi chắc chắn rằng chị ta cũng sẽ quên mất nó, và quả đúng vậy. Thật ngạc nhiên vì chị ta vẫn chưa làm cháy nhà lần nào. Tôi bắt đầu hiểu Hiraku Makimura có ý gì khi nói Ame khiến ông ta mệt mỏi. Ame không cho ai điều gì. Chị ta chỉ nhận. Ame sử dụng tất cả mọi thứ xung quanh để phục vụ chính mình. Và những thứ xung quanh ấy luôn sẵn sàng phục vụ chị ta. Tài năng của Ame biểu hiện ở sự hấp dẫn đến hút hồn. Chị ta tin rằng đó là đặc quyền của riêng mình. Hài hòa và bình yên. Để chị ta có được điều đó, mọi người luôn phải sẵn sàng quỳ dưới chân mà phục vụ.
Điều đó không liên quan gì đến tôi cả, tôi muốn hét lên. Tôi đến đây để nghỉ ngơi. Tôi có cuộc sống riêng của mình, cho dù chỉ để làm những thứ mà ai cũng biết là gì. Cứ để câu chuyện quái đản này tự nhiên như vốn thế. Nhưng biết đâu những gì tôi nghĩ chẳng quan trọng? Tôi vẫn nằm trong số những người phải phục vụ chị ta.
Ame ăn xong phần bánh sandwich rồi tiến lại phía Yuki, lại chậm chạp luồn những ngón tay qua tóc con bé. Yuki chăm chú nhìn mấy tách cà phê trên bàn, ánh mắt hết sức hờ hững. “Tóc đẹp quá,” Ame nói. “Lúc nào mẹ cũng muốn có mái tóc như con. Óng ả trơn mượt. Tóc mẹ bờm xờm quá, đúng không hả công chúa?” Chị ta lại chun mũi âu yếm cọ vào thái dương Yuki.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.