Nhảy, nhảy, nhảy

Chương 39 phần 1



Tôi cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ của mình.

Câu hỏi đầu tiên: Tôi có nên tin Yuki không? Tôi phân tích vấn đề ở mức độ khả năng thuần túy, cố hết sức để dẹp qua một bên những nhân tố cảm xúc. Điều này cũng không tốn sức lắm. Cảm xúc của tôi đã tê liệt, như thể bị ong chích, ngay từ đầu. Khả năng đó có tồn tại. Tôi xem xét khả năng ấy càng lâu thì xác suất xảy ra của nó càng lớn. Tôi đứng trong bếp pha cà phê. Sau khi rót cho mình một chén, tôi cầm theo ra giường. Khi tôi uống xong cà phê thì xác suất cao đã trở thành một điều chắc chắn. Đúng, chính xác như những gì Yuki đã thấy: Gotanda đã giết Kiki, kéo xác nàng đi và chôn đâu đó.

Thật ngớ ngẩn. Dù sao thì cũng không có bằng chứng. Chỉ là giấc mơ khi xem phim của một cô bé mười ba tuổi nhạy cảm. Nhưng, vì một lý do nào đó, những gì con bé nói không thể bị nghi ngờ. Thật là khó tin. Nhưng bản năng của tôi vẫn chấp nhận nó trọn vẹn. Tại sao? Làm sao tôi chắc chắn được như vậy?

Tôi không biết.

Câu hỏi tiếp theo: Tại sao Gotanda giết Kiki?

Tôi không biết.

Câu hỏi tiếp theo: Có phải Goranda cũng giết cả Mei? Và tại sao? Điều gì khiến Gotanda muốn giết cô ấy?

Một lần nữa, tôi lại không biết. Tôi vắt óc suy nghĩ, nhưng chẳng nghĩ ra được lý do nào giải thích tại sao Gotanda lại giết Kiki hay Mei cả.

Có quá nhiều điều còn chưa biết.

Tôi phải gặp Gotanda. Tôi phải trực tiếp hỏi cậu ta. Tôi với lấy điện thoại nhưng lại không thể quay số. Tôi đặt ống nghe xuống, lăn trên giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà. Gotanda đã trở thành một người bạn. Giả sử Gotanda có giết Kiki thật, cậu ta vẫn là bạn tôi. Tôi không muốn mất người bạn này. Không giống như tôi đã mất bao thứ trong đời này. Không, tôi không thể gọi cho cậu ta được.

Tôi không muốn nói chuyện với ai cả.

Tôi ngồi dậy, khi điện thoại kêu, tôi để nó đổ chuông. Nếu đó là Gotanda, tôi sẽ phải nói gì đây? Nếu đó là Yuki, hay thậm chí là Yumiyoshi đi nữa, tôi không quan tâm. Tôi không muốn nói chuyện với ai cả.

Bốn ngày, năm ngày, tôi chỉ ở yên một chỗ và suy nghĩ. Tại sao? Tôi hầu như không ăn gì, cũng không ngủ, Tôi không uống lấy một giọt. Tôi chỉ ở trong nhà. Tôi mất dần cảm giác với cơ thể. Với những gì đã xảy ra, tôi vẫn lạc lối. Và tôi ở đây, một mình, vẫn luôn như thế này. Theo cách nào đó, Gotanda và tôi thuộc cùng một loại người. Hoàn cảnh khác nhau, suy nghĩ khác nhau, tình cảm cũng khác nhau, nhưng vẫn thuộc cùng một loại người. Cả hai chúng tôi đều mất mát. Và bây giờ chúng tôi đánh mất cả nhau nữa.

Tôi có thể thấy Kiki. Chuyện này là gì vậy? Nhưng phải chăng Kiki đã chết, bị vùi lấp trong bụi đất? Giống như con Kipper của tôi. Cuối cùng, Kiki phải chết. Thật lạ là tôi không thể hình dung sự việc theo cách nào khác được. Lớp vỏ bọc tâm hồn tôi không còn mềm yếu nữa. Tôi cố gắng để không cảm thấy gì. Sự nhẫn nhịn của tôi như một cơn mưa lặng lẽ rơi trên biển rộng mênh mông. Đến cả sự cô đơn cũng rời xa khỏi tôi. Mọi thứ đang rời bỏ tôi, như những dấu vết hằn in trên cát, rốt cuộc đều bị gió cuốn đi.

Vậy là một người nữa đã tham gia vào nhóm trong căn phòng kỳ dị nhất trên thế giới ấy của tôi. Bốn người đã chết, còn lại hai. Sớm hay muộn, những bộ xương trắng sẽ được đưa vào căn phòng đó theo những lối vào không tưởng. Phòng chờ của người chết ở Honolulu, kết nối với cái hang tối ớn lạnh của Người Cừu trong khách sạn ở Sapporo, kết nối với căn phòng sáng Chủ nhật nơi Gotanda nằm với Kiki. Tôi có mất trí không nhỉ? Những sự kiện thật, trong những hoàn cảnh tưởng tượng, quay ngược trở lại, lộn xộn, méo mó, kỳ dị. Có phải chăng không có gì là tuyệt đối? Có phải là không có… hiện thực không? Sapporo trong tuyết tháng Ba có thực không? Ngồi trên bãi biển Makaha với Dick North có vẻ thật – nhưng một người đàn ông cụt một tay lại có thể cắt bánh mì hoàn hảo như thế ư? Và một cô gái điếm ở Honolulu đưa tôi một số điện thoại mà sau đó tôi tìm được một số hệt như thế trong căn phòng dẫn vào căn phòng đầy người chết mà Kiki đã dẫn tôi tới? Tại sao đó không phải là hiện thực? Có thứ gì tôi có thể thừa nhận là hợp lý mà không làm cho thế giới của tôi rung chuyển tận nền móng?

Căn bệnh là ở bên trong hay ở ngoài kia? Có khác biệt gì không?

Giờ đầu mối là gì? Bắt nhịp và khiêu vũ, lôi cuốn mọi người. Tiếp tục theo nhịp – đó có phải là hiện thực duy nhất? Nhảy đến bên điện thoại, gọi cho Gotanda, và hỏi một cách tự nhiên: “Cậu giết Kiki à?”

Không đời nào. Tay tôi đột nhiên tê dại. Tôi ngồi bên cạnh điện thoại, đờ đẫn, run rẩy, như đang trong một cơn gió thổi tạt ngang. Hô hấp trở nên khó khăn. Tôi quý Gotanda, rất quý. Cậu ta là người bạn duy nhất của tôi, là một phần cuộc đời tôi. Tôi hiểu cậu ta.

Tôi cố nhấn số. Lần nào cũng sai. Đến lần thứ sáu, tôi ném ống nghe xuống sàn.

Tôi không gọi được điện thoại cho Gotanda. Rốt tuộc, Gotanda lại là người xuất hiện ở cửa nhà tôi.

Đó là một đêm mưa. Gotanda đội mũ đi mưa và mặc áo khoác ngắn màu trắng giống hôm tôi lái xe đưa cậu ta đến Yokohama. Mưa rơi nặng hạt và mũ của cậu ta ướt sũng. Cậu ta không mang theo ô.

Gotanda mỉm cười khi thấy tôi. Tôi cười lại, gần như chỉ là một phản xạ.

“Trông cậu thật tệ,” anh ta nói. “Tôi đã gọi đi gọi lại nhưng cậu không trả lời điện thoại. Nên tôi quyết định đến luôn. Cậu thấy khó ở à?”

“Không phải là khó ở,” tôi nói.

Gotanda tò mò nhìn tôi. “Có lẽ lúc này không thích hợp, tôi sẽ trở lại khi cậu khá hơn. Xin lỗi vì đã đến mà không báo trước.”

Tôi lắc đầu và thở hắt ra. Không nói lời nào. Gotanda kiên nhẫn chờ đợi. “Tôi không ốm hay sao cả,” tôi khẳng định. “Chỉ là tôi chưa ăn và cũng chưa ngủ thôi. Tôi nghĩ bây giờ thì ổn rồi. Đằng nào thì tôi cũng đang muốn nói chuyên với cậu. Mình đi đâu đó nhé. Lâu lắm rồi tôi chưa ăn một bữa no.”

Chúng tôi lái chiếc Maserati ra đường phố rực ánh đèn trong mưa. Gotanda lái xe vẫn cẩn thận và mượt mà như thường, nhưng giờ chiếc xe khiến tôi lo lắng. Chiếc xe cắt một đường xuyên qua những tiếng ồn ào dấy lên xung quanh chúng tôi.

“Đi đâu đây?” Gotanda hỏi. “Tất cả những gì tôi muốn là một chỗ yên tĩnh để chúng ta có thể nói chuyện và được phục vụ thức ăn tử tế mà không phải gặp cái đám đeo đồng hồ Rolex ấy,” cậu ta nói. Gotanda liếc sang phía tôi, nhưng tôi không nói gì cả. Chúng tôi lái xe vòng quanh ba mươi phút, mắt tôi chỉ nhìn chăm chăm vào những tòa nhà bên đường.

“Tôi chẳng nghĩ ra chỗ nào,” Gotanda cố thử lần nữa. “Thế còn cậu? Có ý tưởng gì không?”

“Không, tôi cũng thế.” Tôi thực sự không thể nghĩ gì. Đầu óc tôi vẫn chỉ có một nửa ở hiện tại.

“Thôi được, đã thế thì sao ta không làm ngược lại?” Cậu ta nói to.

“Ngược lại gì?”

“Chỗ nào nào đó ồn ào và đông đúc. Như thế chúng ta có thể thư giãn.”

“Được thôi. Ở đâu?”

“Cậu thích pizza không? Ta đến quán Shakey’s đi.”

“Tôi thì không vấn đề gì. Tôi không phản đối pizza. Nhưng đi tới một chỗ như vậy thì e người ta nhận ra cậu mất?”

Gotanda cười yếu ớt, như một tia nắng cuối cùng của mùa hè giữa đám lá cây. “Lần cuối cùng cậu nhìn thấy một người nổi tiếng ở Shakey’s là bao giờ, anh bạn của tôi?”

Quán Shakey’s chật cứng những người đi mua sắm cuối tuần. Đông đúc ồn ào. Một nhóm nhạc jazz bốn người mặc quần thun áo sơ mi trắng đỏ đang chơi bản The tiger rag cho một nhóm sinh viên uống bia hò hét khản cả giọng. Mùi pizza ở khắp mọi nơi. Chẳng ai để ý đến người khác.

Chúng tôi gọi món, bê hai cái khay, và ngồi xuống một cái bàn ở cuối nhà hàng trong ánh sáng nhộn nhạo.

“Tôi đã nói gì với cậu nhỉ. Thế này có thích hơn không?” Gotanda hỏi.

Tôi chưa bao giờ thèm ăn pizza, nhưng miếng đầu tiên đã khiến tôi nghĩ rằng đó là món ngon nhất tôi từng ăn. Hẳn là tôi đang đói lắm. Cả hai chúng tôi. Chúng tôi uống rồi ăn, ăn rồi lại uống. Khi hết pizza, chúng tôi gọi thêm một lượt bia nữa.

“Tuyệt thật, nhỉ?” Gotanda ợ một tiếng, “Tôi đã muốn ăn pizza suốt ba ngày rồi. Thậm chí còn mơ về nó, xèo xèo nóng giòn, trượt ra khỏi lò nướng. Mặc dù trong mơ, tôi chưa bao giờ được ăn. Tôi chỉ nhìn chằm chằm và nhỏ dãi. Đó là tất cả giấc mơ. Chẳng có gì khác. Jung(47) sẽ nói gì về nguyên mẫu pizza nhỉ?” Gotanda cười tủm tỉm rồi im lặng. “Vậy chuyện mà cậu muốn nói với tôi là gì đây?”

47. Carl Jung (1875-1961): nhà tâm thần học người Thụy Sĩ, học trò của Sigmund Freud.

Bây giờ hoặc không bao giờ, tôi nghĩ. Nhưng nói trắng ra là Gotanda đang rất thoải mái tận hưởng buổi tối. Tôi nhìn nụ cười hồn hậu của cậu ta và không thể cầm lòng làm việc đó. Ít nhất là bây giờ.

“Cậu có gì mới không?” tôi hỏi. “Công việc? Vợ cũ.”

“Công việc vẫn thế,” Gotanda nói. “Chẳng có gì mới, chẳng có gì tốt, chẳng có gì khiến tôi hứng thú. Tôi có thể la hét đến khi nào khản cổ, nhưng chẳng ai muốn nghe những gì tôi nói. Vợ tôi – cậu có nghe không? Tôi vẫn gọi cô ta là vợ sau tất cả mọi chuyện – tôi chỉ gặp cô ta một lần từ lần cuối cùng tôi gặp cậu. Này, cậu có bao giờ cậu làm chuyện ấy trong nhà nghỉ chưa?”

“Gần như là không.”

“Tôi đã kể với cậu là tôi và cô ta gặp nhau trong nhà nghỉ. Cậu biết đấy, càng đến những chỗ đó nhiều, ta càng mệt mỏi. Tối tăm, cửa sổ đóng kín mít. Một nơi chỉ dành để làm tình, ai cần cửa sổ chứ, đúng không? Tất cả những gì ta cần là phòng tắm và giường – thêm âm nhạc, ti vi và tủ lạnh – nhưng hầu hết đều trống rỗng, không có nhãn hiệu gì và giả tạo. Thật ra, thế thì rất tiện nằm xuống mà làm chuyện đó. Nó khiến cậu cảm thấy như thực sự làm chuyện ấy. Nhung một lúc sau, cậu sẽ thấy tù túng, và bắt đầu ghét nơi đó. Nhưng đó vẫn là nơi trú ẩn duy nhất của chúng tôi.”

Gotanda uống một ngụm bia và lau miệng bằng giấy ăn.

“Tôi không thể đưa vợ đến căn hộ của mình được. Bọn báo chí lá cải sẽ có một ngày bận rộn nếu chúng phát hiện ra điều đó. Tôi không có thời gian để đi đâu khác. Nhưng dù sao chúng cũng sẽ đánh hơi được. Chúng tôi đã bán đi sự riêng tư của mình với giá quá rẻ mạt. Cho nên chúng tôi đến những nhà nghỉ hạng bét và…” Gotanda nhìn sang tôi mỉm cười. “Rồi tôi tới đây, lại lảm nhảm cằn nhằn.”

“Không sao. Tôi đâu có ngại nghe.”

Ban nhạc Dixieland chơi sang bài “Hello Dolly.”

“Này, gọi thêm một cái pizza nữa nhé?” Gotanda hỏi. “Chia đôi. Tôi không biết tại sao, nhưng đói lắm!”

Ngay sau đó, trước mặt chúng tôi đã có một chiếc bánh cỡ trung. Đám sinh viên tiếp tục trò chơi la hét, còn ban nhạc thì đã chơi xong bản cuối cùng. Đàn banjo, kèn trumpet, rồi kèn trombone được cho vào va li, các nhạc công rời sân khấu, chỉ để lại cái piano trơ trọi.

Chúng tôi đã ăn hết chiếc pizza gọi thêm, nhưng không hiểu sao lại không thể rời mắt khỏi sân khấu trống không. Không có âm nhạc, tiếng ồn của đám đông dẻo như nhựa, tưởng như có thể chạm vào. Những đợt sóng âm thanh cô đặc lại khi tiến đến chỗ chúng tôi, nhưng lại vỡ vụn khi tiếp xúc. Cuộn tròn rồi lại chậm chạp cuộn tròn, va đập ý thức của tôi, rồi nhào trở ra. Xa dần xa dần. Những đợt sóng xa xăm, vỗ vào tâm hồn tôi từ phía xa.

“Tại sao cậu giết Kiki,” tôi hỏi Gotanda. Tôi không định hỏi. Nhưng cứ buột miệng nói ra.

Gotanda nhìn tôi như thể nhìn cái gì xa xăm lắm. Môi cậu ta hé ra một chút. Răng cậu ta trắng và đều. Một lúc lâu, Gotanda chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. Những đợt sóng trong đầu tôi nổi lên từng chặp, lúc mạnh mẽ, lúc yếu ớt. Như thể tất cả liên hệ với hiện thực đã đến rồi lại đi. Tôi nhớ những ngón tay duyên dáng của cậu ta đặt ngay ngắn trên bàn. Khi tôi bị kéo ra xa khỏi hiện thực, trông chúng như những tác phẩm thủ công mỹ nghệ vậy.

Sau đó, cậu ta mỉm cười bình tĩnh.

“Tôi giết Kiki ư?” Gotanda phát âm từng tiếng một.

“Đùa thôi mà,” tôi rào trước.

Gotanda nhìn xuống những ngón tay mình. “Không, không phải là trò đùa. Việc này rất quan trọng. Tôi thực sư phải nghĩ về nó. Tôi có giết Kiki không nhỉ? Tôi phải suy nghĩ thật nghiêm túc về việc này.”

Tôi nhìn cậu ta. Miệng Gotanda mỉm cười, nhưng mắt thì không.

“Có lý do nào để cậu giết Kiki không?” tôi hỏi.

“Có lý do gì để tôi giết Kiki không à? Bản thân tôi còn không biết. Tôi giết Kiki ư? Tại sao?”

“Này, làm sao tôi biết được?” tôi cố gượng cười. “Cậu có giết Kiki hay không chứ?”

“Tôi nói là tôi đang nghĩ về điều đó mà. Tôi có giết Kiki hay là không?”

Gotanda uống một ngụm bia nữa, đặt cốc xuống và đưa tay ôm lấy mặt. “Tôi không chắc lắm. Nghe có vẻ ngớ ngẩn, phải không? Nhưng đúng là thế đấy. Tôi không chắc. Tôi nghĩ, có lẽ, tôi đã cố siết cổ Kiki. Ở nhà tôi, hình như thế. Tai sao tôi lại giết Kiki ở đó nhỉ? Tôi thậm chí còn không muốn ở một mình với cô ấy. Không được rồi, tôi không thể nhớ được. Nhưng dù sao đi nữa, Kiki đã ở nhà tôi – tôi đặt xác cô ấy trong xe và lái đi đâu đó, sau đó tôi chôn cô ấy. Đâu đó trên núi. Tôi không chắc liệu tôi có làm thế thật không. Tôi không thể tin là mình có thể làm việc đó. Tôi chỉ cảm thấy hình như tôi đã làm thế. Tôi không thể chứng minh được. Tôi chịu thôi. Phần mấu chốt nhất lại trống không. Tôi đang cố nghĩ xem liệu có thể có bằng chứng cụ thể nào không. Cái xẻng chẳng hạn. Chắc hẳn là tôi phải dùng một cái xẻng. Nếu tìm thấy một cái xẻng, không chừng, tôi có thể biết là mình đã làm việc đó. Để tôi thử tìm lại xem. Tôi mua một cái xẻng ở cửa hàng dụng cụ làm vườn. Tôi đào hố và chôn Kiki. Sau đó tôi vứt cái xẻng đi. Được thôi, nhưng ở đâu?”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.