Chúng đã bị tan xác! – Harbert thốt lên.
– Đúng vậy! Chúng đã bị nổ tung, y như là Ayrton đã đốt kho thuốc súng của chúng vậy! – Pencroff khẳng định, đồng thời cùng với Nab và cậu bé Harbert lao đến chỗ thang máy.
– Thủng thẳng rồi chúng ta sẽ biết, còn bây giờ hãy đi đã. Điều chủ yếu là bọn cướp biển không còn nữa.
Cyrus Smith vội vã kéo nhà báo và Ayrton đi ra bờ biển, tại đây Pencroff, Nab và Harbert đang chờ họ.
Sóng biển đã nuốt gọn con tàu, thậm chí các cột buồm cũng không thấy đâu. Con nước xoáy đã nhấc bổng con tàu lên, lật nó nằm nghiêng, và cứ thế nó chìm nghỉm. Nước đã ùa vào lỗ thủng thân tàu.
Trên mặt nước, những mảnh tàu vỡ cứ xoáy tròn – nguyên bộ cột buồm và trục buồm dự trữ, các chuồng gà (những tù nhân có cánh này vẫn còn sống), các hòm và thùng phuy đựng công cụ bị áp lực của nước tống qua các cửa rơi xuống biển và dần dần nổi trên mặt nước. Ayrton cùng Pencroff đã lao xuống thuyền, lùa bộ cột buồm còn nguyên vẹn và tất cả những gì nổi trên mặt nước, vào đảo lớn và đảo Cứu thoát.
Cùng với các mảnh tàu vỡ có vài xác người nổi lên. Trong số đó Ayrton nhận ra Bob Harvey. Anh chỉ cho Pencroff thấy tên cướp biển và xúc động nói:
– Tôi cũng từng là người như thế đó, Pencroff ạ!
– Nhưng bây giờ anh hoàn toàn khác rồi, Ayrton đáng yêu của chúng tôi! – chàng thuỷ thủ thốt lên.
Khi những mảnh tàu bị đắm đã được vớt từ dưới nước lên và xếp vào một chỗ an toàn trên bờ, những người ngụ cư quyết định nghỉ ngơi và ăn sáng.
– Đúng là kì diệu, – Pencroff khẳng định – phải thừa nhận là bọn ác ôn đã bị tan xác rất đúng lúc! Lâu đài Đá hoa cương đã trở lên trống trải lắm rồi.
– Thưa ngài Cyrus, ngài biết không, – Harbert bắt đầu nói – có điều này làm cháu hết sức ngạc nhiên: Tại sao vụ nổ không gây ra những phá hoại lớn? Tiếng nổ không mạnh lắm, và chỉ có lớp vỏ bọc tàu bị hư hại thôi. Quả thật, có thể nghĩ rằng chiếc tàu bị đắm đúng hơn là bị nổ.
– Cả tôi cũng thấy thế, Harbert ạ! – viên kĩ sư trả lời – Điều ấy cũng làm tôi rất ngạc nhiên. Hãy đợi đã, sau khi xem xét thân tàu, tất nhiên chúng ta sẽ rõ sự việc như thế nào.
Độ một giờ rưỡi chiều, những người ngụ cư ngồi vào xuồng và bơi ra chỗ tàu đắm. Vừa lúc ấy, thân tàu “Nhanh” bắt đầu nổi lên khỏi mặt nước. Những người ngụ cư đi vòng quanh thân tàu rồi chui vào bên trong tàu, lần tới đằng lái, nơi trước đây là tầng trên. Theo lời của Ayrton thì phải tìm kho thuốc nổ ở chỗ này đây. Cyrus Smith hi vọng rằng nó không bị nổ. Và do đó, vài thùng thuốc súng còn nguyên vẹn, vì thuốc súng thường được bảo quản trong bao bì bằng kim loại, nên chắc chắn nó không bị ướt.
Những giả định của viên kĩ sư đúng hoàn toàn. Trong số rất nhiều đạn đại bác, những người ngụ cư đã phát hiện được khoảng hai chục thùng thuốc súng bọc bằng những lá đồng… Pencroff đã tận mắt nhìn thấy và tìn chắc rằng tàu “Nhanh” bị diệt không phải do kho thuốc tự nổ. Chính phần trên tàu, nơi để thuốc súng lại ít bị hư hại hơn những phần khác.
Mải xem xét tàu, những người ngụ cư không để ý mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua và thuỷ triều bắt đầu lên. Đành phải ngưng các công việc lại. Tuy nhiên, chẳng có gì phải sợ sóng cuốn mất sườn tàu ra khơi, vì tàu đã mắc cạn và được giữ chắc chắn bằng tất cả số neo của nó.
Đã năm giờ chiều. Những người ngụ cư trải qua một ngày vất vả. Họ ăn bữa trưa thật ngon miệng, và mặc dù rã rời chân tay, họ vẫn không thể cưỡng lại được sự quyến rũ là tìm hiểu những đồ chứa trong các thùng được tìm thấy trong các hầm tàu “Nhanh”.
Phần lớn các thùng đều có quần áo may sẵn, giày dép đủ cỡ, nhiều đến mức thừa dùng cho cả một vùng di dân. Ngoài ra còn có những thùng rượu, thuốc lá, vũ khí, dụng cụ nông nghiệp, đồ dùng cho thợ mộc, thợ nề và thợ rèn, các bao hạt giống gieo trồng đủ loại.
Họ lấy những thứ cần thiết trên tàu mang về đảo. Bây giờ họ mới nhớ là trên đảo còn sáu tên cướp sống sót đang quanh quẩn đâu đó và những vị khách không mời mà đến này rất bất trị. Do đó, họ phải hết sức cẩn thận đề phòng.
Sau tai nạn một tuần, đúng hơn là sau vụ nổ tàu bí ẩn đã cứu sống những người ngụ cư, thậm chí khi nước ròng cũng không thể phát hiện ra dấu vết của tàu “Nhanh”. Những mảnh vỡ cuối cùng của nó đã bị cuốn ra khơi, còn hàng thì làm giàu cho các kho tàng của Lâu đài Đá hoa cương.
Song, tình huống tàu bị diệt quá ư đột ngột và lạ lùng vẫn còn là vấn đề bí mật, nếu như ngày 10 tháng mười, trong khi đi dạo trên bờ biển, Nab không tìm thấy mảnh một ống kim loại còn giữ lại dấu vết của vụ nổ. Chiếc ống ấy bị xoắn và vỡ ở hai bên cạnh. Cyrus Smith chăm chú xem xét ống, sau đó quay sang Pencroff nói:
– Tàu đụng phải cục sắt này nên nó bị chìm. – viên kỹ sư đưa cho Pencroff xem phần còn lại của ống kim loại.
– Đụng phải cái ống nhỏ này ư? – chàng thuỷ thủ thốt lên, thậm chí không che giấu sự nghi hoặc.
– Các bạn! – Cyrus Smith nói với những người ngụ cư – Tôi hi vọng các bạn nhớ rằng, trước khi chìm, chiếc tàu buồm đã bị nhấc bổng lên bởi lực đẩy của cột nước lớn?
– Tất nhiên là nhớ ạ, thưa ngài Cyrus! – Harbert vội đáp lời.
– Các bạn chưa biết cột nước ấy do cái này mà ra. – và viên kỹ sư chìa cho mọi người xem mảnh ống bị hỏng.
– Do cái này ư? – Pencroff hỏi.
– Đúng! Đó là phần còn lại của một quả thuỷ lôi.
– Thuỷ lôi! – những người ngụ cư đồng thanh thốt lên.
– Thế ai đã đặt quả thuỷ lôi ấy? – Pencroff hỏi.
– Tôi chỉ có thể khẳng định một điều là không phải tôi! – Cyrus Smith trả lời – Nhưng sự thật đã rành rành, có ai đó đã đặt quả thuỷ lôi và tự các bạn hình dung được sức công phá của nó.
o O o
Thế là mọi biến cố được giải thích bởi tiếng nổ của quả thuỷ lôi, Cyrus Smith không thể lầm được. Trong thời kì nội chiến ở Mỹ, ông đã nhiều lần chứng kiến tác dụng của loại vũ khí phá hoại kinh khủng này.
Phải, mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, trừ một tình huống. Ở đâu xuất hiện quả thuỷ lôi ấy?
– Các bạn! – Cyrus Smith lên tiếng – Bây giờ khỏi phải nghi ngờ gì nữa, trên đảo có một người bí ẩn nào đó, có thể, cũng như chúng ta, người ấy là nạn nhân của một vụ đắm tàu. Tôi nói điều ấy cốt để cho Ayrton làm quen với những sự kiện huyền bí xảy ra ở đây trong hai năm qua. Ân nhân bí ẩn ấy đã từng nhiều lần cứu giúp chúng ta. Nhưng nhân vật ấy là ai thì tôi không làm sao biết được. Vì những lí do gì ông ta hành động và tại sao ông ta lại tránh chúng ta, điều ấy tôi cũng không thể hiểu nổi. Ayrton chịu ơn người đó với mức độ cũng ngang như tất cả chúng ta. Ân nhân ấy đã cứu tôi thoát khỏi những đợt sóng biển sau khi quả khí cầu bị tai nạn hất tôi xuống biển, cũng lại chính ông ta đã viết lá thư, bỏ vào chai thả xuống eo biển và bằng cách ấy báo cho chúng ta biết tình trạng nguy khốn của Ayrton. Tôi nói thêm rằng, chính ông ta đã kịp thời thả lên mũi Tìm thấy chiếc hòm đựng tất cả những dụng cụ mà chúng ta đặc biệt cần thiết; chính ông ta đã đốt lửa trên đỉnh núi để các bạn có thể về đến đảo, chính ông ta đã bắn con lợn rừng, và viên đạn chì từ súng của ông ấy bắn ra chúng ta đã tìm thấy trên mình con vật bị chúng ta giết; chính ông ta đã đặt quả thuỷ lôi trong eo biển để phá chiếc tàu của bọn hải tặc. Tóm lại, chúng ta chịu ơn con người bí ẩn ấy về tất cả những nghĩa cử cao thượng và ân huệ không giải thích nổi và không sao hiểu được.
– Cyrus thân mến, ngài hoàn toàn có lí! – Gédéon Spilett đáp lời – Vâng, ngài đã nói rất có lí rằng ở đâu đây trên đảo này có một người bí ẩn có sức mạnh hầu như siêu nhân và bấy lâu nay đã giúp ích chúng ta… Có thể là ông ấy bí mật theo dõi chúng ta qua cái giếng của Lâu đài Đá hoa cương và nhờ đó biết được mọi kế hoạch của chúng ta.
Những người có mặt không thể không đồng ý với ý kiến của nhà báo.
– Hoàn toàn đúng! – Cyrus Smith tiếp lời – không ai trong chúng ta nghi ngờ về sự tồn tại của một cư dân bí ẩn trên đảo. Tôi thừa nhận rằng ông ta có những phương tiện mà tạm thời con người chưa biết tới. Đây, lại thêm một điều bí ẩn nữa. Tiếp tục tôn trọng sự ẩn danh của con người độ lượng ấy, hay làm tất cả những gì có thể làm được để tìm ông ta. Tôi muốn biết ý kiến của các bạn về vấn đề này.
– Theo con, thưa ông chủ! – Nab thốt lên – Chúng ta có tìm hay không tìm con người ấy – điều đó không quan trọng. Khi cần tự bản thân ông ta sẽ lộ diện, chúng ta chẳng cần tìm ông ta làm gì.
– Nói rất hay, Nab! – Pencroff khen.
– Tôi hoàn toàn đồng ý với Nab! – Gédéon Spilett bắt đầu – Nhưng đó là cái cớ chưa đủ xác đáng để từ bỏ cuộc tìm kiếm. Chúng ta có tìm thấy hay không tìm thấy thì ít nhất chúng ta phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với ông ta.
– Còn cháu, chú bạn nhỏ, cháu có ý kiến gì không? – viên kỹ sư hỏi Harbert.
– Ôi! – Harbert kêu lên, mắt sáng rực – Cháu muốn được tạ ơn ông ấy đầu tiên là đã cứu ngài, thưa ngài Cyrus, còn sau đó thì cứu tất cả chúng ta!
– Nghĩ khá đấy, em trai bé bỏng ạ! – Pencroff đáp lại – Mọi người biết đó, tôi không có thói tò mò quá đáng, nhưng dẫu sao cũng sẵn sàng chịu mất một con mắt để được nhìn thấy con người kì diệu ấy.
– Còn ý kiến của anh thế nào, Ayrton? – viên kỹ sư hỏi.
– Thưa ngài Smith, tôi không biết nói gì nữa. Ngài đã quyết định điều gì thì mọi việc đều sẽ đúng và tốt cả. Nếu như ngài muốn tôi tham gia vào các cuộc tìm kiếm thì tôi sẽ không chậm trễ đi theo ngài.
– Rất cảm ơn anh, Ayrton. – Cyrus Smith trả lời – nhưng tôi lại muốn nhận được ở anh một câu trả lời thẳng thắng hơn. Anh là một người bạn, anh có đầy đủ quyền hạn như chúng tôi. Vì vậy, anh hãy nói cho chúng tôi biết anh nghĩ gì về việc này?
– Thưa ngài Smith, tôi cho rằng chúng ta có trách nhiệm làm tất cả những gì có thể làm để tìm ra ân nhân bí ẩn của chúng ta. – Ayrton trả lời – Có thể ông ấy đang bị giày vò trong cô đơn. Có thể ông ấy đang đau khổ. Có thể, với sự giúp đỡ của chúng ta, ông ấy sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Chính ngài vừa nói rằng tôi là người mắc nợ ông ấy. Đúng là ông ấy, tất nhiên là ông ấy chứ không phải ai khác, đã đến thăm đảo Tabor, phát hiện thấy có một người bất hạnh đang đau khổ và đã báo cho các ngài biết cần phải cứu con người ấy. Nghĩa là, nhờ ơn của ông ấy mà tôi tìm lại được hình hài và diện mạo con người. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.
– Thôi được rồi, vậy là đã quyết định xong. – Cyrus Smith nói – Chúng ta sẽ bắt đầu những cuộc tìm kiếm càng nhanh càng tốt. Chúng ta khảo sát toàn bộ đảo, xem xét từng xó xỉnh. Chúng ta lục hết mọi chỗ khuất kín và mong người bạn chưa quen biết ấy tha thứ cho chúng ta về sự khiếm nhã này.
Trước khi bắt đầu cuộc hành trình khảo sát đảo, những người ngụ cư quyết định bỏ ra mười ngày làm nốt một số công việc trên cao nguyên Tầm nhìn.
Song, Ayrton phải trở lại khu chăn nuôi, bởi vì gia súc cần được trông nom và săn sóc. Họ quy ước với nhau là anh ta sẽ ở đó vài ngày và trở về Lâu đài Đá hoa cương sau khi cho gia súc thật nhiều thức ăn.
Thế là Ayrton ra đi lúc sáng sớm ngày 9 tháng mười bằng chiếc xe do hai con la kéo, hai giờ sau anh ta đánh điện báo cho mọi người biết ở khu chăn nuôi mọi việc bình thường. Ngay buổi chiều hôm đó Ayrton nhận được bức điện với yêu cầu mang hai con dê ở bãi chăn nuôi về. Nab muốn luyện cho chúng thích nghi với đồng cỏ của cao nguyên. Nhưng, thật là lạ, trái với mọi khi, Ayrton không tiếp nhận điện. Viên kỹ sư ngạc nhiên. Đúng là lúc ấy Ayrton không có mặt ở khu chăn nuôi, có lẽ anh ta đang trên đường về Lâu đài Đá hoa cương.
Lúc ấy gần một giờ tối, vẫn chưa thấy Ayrton đâu cả. Khi ấy mọi người quyết định gởi bức điện thứ hai và yêu cầu trả lời gấp.
Nhưng chuông ở Lâu đài Đá hoa cương lại im lặng. Những người ngụ cư lo lắng nhìn nhau. Nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra, một số nằng nặc đòi đi ngay, những người khác nói đợi đến sáng mai thì tốt hơn.
Họ đã quyết định đợi đến sáng, nhưng nỗi lo âu của những người ngụ cư cứ tăng lên. Lúc trời hừng sáng, Cyrus Smith lại cho máy điện báo hoạt động, nhưng vẫn không nhận được tín hiệu trả lời của Ayrton. Ông gọi lần nữa, chuông vẫn im lặng.
– Ra khu chăn nuôi mau! – ông kêu lên.
– Mang theo vũ khí! – Pencroff nói thêm.
Họ để lại Nab ở Lâu đài Đá hoa cương, vì họ thấy không thể bỏ mặc chỗ ở mà không có người trông coi được. Nab tiễn những người ngụ cư đến cuối Glixerin, nâng cầu lên và nép vào sau các gốc cây đợi họ hoặc Ayrton trở về.
Trong trường hợp bọn cướp biển xuất hiện và mưu toan đột nhập cao nguyên Tầm nhìn, anh ta sẽ nổ súng kìm chân chúng, cùng lắm thì anh ta sẽ ẩn náu trong Lâu đài Đá hoa cương và cất thang dây lên – ở trong pháo đài bất khả xâm phạm này anh ta chẳng phải sợ gì hết. Xuống khỏi cao nguyên Tầm nhìn, những người khai khẩn hướng thẳng tới khu chăn nuôi. Họ cầm chắc súng trong tay, sẵn sàng nhả đạn ngay khi có tiếng động khả nghi đầu tiên. Trang bị của họ gồm hai khẩu cacbin và hai khẩu súng săn đã nạp đạn… Tuy nhiên, một lát sau viên kỹ sư phát hiện thấy đường dây điện hơi bị chùng, khi họ đến cột số bảy mươi bốn thì Harbert đi trước bỗng dừng lại và kêu to:
– Dây điện bị cắt đứt!
Những người cùng đi với chú rảo bước nhanh hơn và một lát sau họ đã nhập vào với Harbert.
– Mới bị đứt phải không? – Cyrus Smith hỏi.
– Vâng! – Harbert khẳng định – Còn trụ điện thì bị quật đổ.
– Ra khu chăn nuôi mau! – mọi người đồng thanh kêu to và rảo bước.
Cuối cùng họ đã đến nơi. Mọi người chậm bước để thở lấy hơi và nếu cần thì có thêm sức lực mới xông vào chiến đấu. Súng đã được lên đạn. Mỗi người theo dõi một khu rừng nhất định. Con Top khẽ gầm gừ không báo hiệu điều gì tốt lành.
Từ sau những hàng cây họ đã nhìn thấy hàng rào của khu chăn nuôi. Thoạt trông thì nó còn nguyên vẹn. Cổng vẫn khoá như mọi khi. Đằng sau đó, hoàn toàn im ắng, không nghe tiếng be của dê rừng, tiếng quát tháo nghiêm khắc của Ayrton.
– Ta vào đi! – Cyrus Smith nói.
Viên kỹ sư bước đến chỗ hàng rào, còn các bạn của ông thì đứng cảnh giới cách đó hai mươi bước và sẵn sàng nổ súng.
Cyrus Smith nâng chốt cổng lên và định mở cánh cổng ra, bỗng con Top sủa dữ tợn. Từ sau hàng rào vang lên một phát súng, và đáp lại là một tiếng kêu thương đau. Harbert đã bị trúng đạn nằm trên đất.