Priest cạo râu, rồi lội xuống dòng nước lạnh tắm. Xong hắn lau khô mình, rồi leo dốc trở về làng. Sau khi mặc quần Jeans và áo sơ mi lao động, hắn đi vào nhà bếp,…nhóm lửa với mấy que củi, đặt một xoong nước lên bếp để pha cà phê, rồi đi ra. Priest thích đi dạo quanh trong làng trong khi mọi người còn ngủ. Hắn thì thầm gọi tên từng người khi đi qua nhà của người đó. “Moon, Dale, Poem, Giggle…” Hắn hình dung mỗi người đang nằm ngủ. Apple, con bé mập, nằm ngửa, miệng há hốc, ngáy khò khò; những đứa nhỏ trong nhà trẻ, con Flower và thằng Ringo, con của hắn, bé Dusty, con của Melanie; bé Bubble và bé Chip, cặp song sanh, đầu bù, má đỏ hồng…. Dân của tôi. Cầu trời cho họ được sống mãi mãi.
Hắn qua nhà kho, trong đó rượu vang từ mùa gặt năm ngoái được đựng đầy trong các thùng gỗ lớn, sẵn sàng để được pha trộn và đóng chai.
Hắn dừng bước bên ngoài đền thờ. Đền này đã được dựng lên từ 5 năm trước. Priest trân qúy cái đền này lắm. Đền này là thành quả của sự tu tỉnh của nhóm Priest. Họ không còn là một đám híp-pi vô trách nhiệm nữa. Họ nay đã có thể làm việc để tự nuôi lấy mình, và lại còn có thì giờ và tiền bạc lập nên một chỗ để thờ phụng.
Priest bước vào trong đền. Đó chỉ là một công trình xây bằng gỗ, trống trơn, với độc một cửa kính dưới mái. Mọi người đều ngồi xếp bằng tròn trên sàn gỗ để cầu nguyện. Đó cũng là trường học và phòng họp của làng. Chỉ có một vật trang trí là cái biểu ngữ do Star làm. Priest không đọc được biểu ngữ ấy, nhưng hắn biết rõ biểu ngữ nói gì:
Suy tư là lẽ sống, ngoài ra chỉ là cuồng loạn.
Tiền bạc làm người ta nghèo đi.
Hôn nhân là một sự đại bất trung.
Khi không ai có gì thì ta có tất cả.
Làm cái gì mình thích, đó là điều luật duy nhất.
Đó là 5 điều nghịch lý của Baghram, một trưởng giáo Ấn Độ. Priest nói như vậy. Sự thực là của chính hắn nghĩ ra, không phải của ai khác.
Hắn đứng ở giữa đền, mắt nhắm, hai tay buông thõng, tập trung ý trí. Hắn cầu xin cho ông thống đốc Mike Robson sẽ bố cáo ngưng việc xây nhà máy điện ở California. Hắn tưởng tượng ông thống đốc sẽ nói: “Tôi quyết định cho các người ấy cái mà họ muốn, không phải để tránh một vụ động đất, mà là vì như thế là đúng với lẽ phải.”
Sau vài phút, Priest thấy tinh thần phấn khởi lên. Hắn thấy tự tin hơn.
Khi trở ra ngoài, hắn làm một vòng đi thăm cánh đồng nho. Trước kia không có một cây nho nào ở chỗ này. Khi Star tới, ở trong sơn cốc này không có cái gì hết, ngoại trừ một cái lều mục nát của thợ săn bỏ lại. Suốt ba năm ròng, nhóm dân của nàng phải chịu hết thất bại này đến thất bại khác. Rồi thì Priest tới. Trong vòng chưa đầy một năm Priest đã trở nên người ngang hàng với Star để lãnh đạo nhóm dân. Dưới quyền điều khiển của Priest họ cầy đất trên sườn đồi, đào mương dẫn nước, và trồng nho. Bây giờ rượu vang Chardonnay của họ đã được các người sành rượu hỏi mua.
Priest đi dọc theo những luống cây. Giây nho đang trổ mầm. Lúc này là cuối tháng Năm. Mùa lạnh làm chết mầm non đã qua rồi. Công việc cần thiết bây giờ là cột những dây non vào lưới đỡ để dẫn đường cho dây nho mọc, và cũng để giữ cho đây nho không bị gió làm hư hại. Priest đã học được nhiều về rượu vang trong những năm hắn làm đại lý bán rượu, còn Star thì học trong sách vở. Nhưng dù sao họ cũng không thể thành công được nếu không có sự giúp đỡ của ông già Raymond Delavalle, một chuyên viên trồng nho.
Đồn điền nho của Priest đã cứu vãn làng này, nhưng làng này cũng đã cứu Priest. Trên đường đi trốn hắn đã tới đây. Hắn trốn băng đảng, trốn cảnh sát Los Angeles, và trốn sở thuế. Hắn nghiện rượu và bạch phiến, cô đơn, thất bại, và đã có ý tưởng tự vẫn trong đầu. Hắn lái xe theo con đường đất tới làng, theo lời chỉ dẫn mơ hồ của một người đi nhờ xe, và hắn đã tìm thấy sự yên lành, một tôn giáo mới, việc làm, bạn hữu, và tình yêu. Từ nay hắn không muốn sống đời sống nào khác nữa. Chỗ này là tất cả những gì hắn có, và hắn phải tranh đấu để gìn giữ chỗ này, dù cho có phải chết.
Đêm nay hắn sẽ nghe buổi phát thanh của John Truth. Nếu ông thống đốc muốn điều đình thì chắc chắn sẽ cho bố cáo vào phần cuối buổi phát thanh.
Khi Priest bước tới một góc xa của cánh đồng nho, hắn nghĩ tới cái chấn động cơ. Hắn leo lên đồi. Chỗ ấy có một con đường mòn. Cách xa xóm làng chừng bốn trăm mét, hắn tới một khoảng đất trống bùn lầy. Đậu dưới tàng cây là chiếc xe Cuda cũ của hắn, một chiếc Volkswagen 12 chỗ ngồi, chiếc Subaru mầu vàng của Melanie, và chiếc pickup Ford Ranger chung của dân làng. Từ chỗ này một con đường đất đi ngoằn ngoèo ba cây số qua cánh rừng, tới một vùng sình, rồi qua một con suối, và sau rốt tới đường cái.
Mỗi năm một lần, tám tháng sau vụ gặt, tất cả mọi người trong làng phải lăn các thùng rượu nho len lỏi qua các cây cối tới chỗ đất trống, xếp chúng lên xe tải của Paul Beale để được chở tới xưởng đóng chai tại Napa. Để bù lại cho tiền rượu nho, Paul Beale mua thức ăn về cho nhà bếp công cộng của làng, và mua các hàng hoá vật dụng chất đầy kho của làng: áo quần, kẹo bánh, thuốc lá, sách vở, kem đánh răng, tất cả những thứ gì mà người trong làng cần có. Cần thức gì, xã viên cứ việc lấy, khỏi phải trả tiền. Tuy nhiên Paul vẫn tính toán phân minh, và đến cuối năm hắn bỏ số tiền thặng dư vào một trương mục ngân hàng mà chỉ có Star và Priest biết thôi.
Từ chỗ đất trống đi theo đường mòn khoảng một cây số rồi rẽ vào rừng. Len lỏi qua đám cây một lúc hắn tới một khoảng trống nhỏ và dừng lại bên một đống cành lá chất cao chừng ba bốn mét, trông như một đống cành lá để đốt lửa trại. Hắn đẩy mấy cành lá qua một bên để lộ ra một phần của chiếc chấn-động-xa.
Con chó Spirit chợt hộc lên một tiếng, như nó đã nghe thấy tiếng gì. Priest vội kéo mấy cành lá lại, che kín cái xe, rồi len lỏi qua các cây rừng ra đường mòn, và đi trở về xóm làng.
Khi hắn tới chỗ có thể trông thấy nơi đậu mấy chiếc xe thì hắn biết tại sao con Spirit mất bình tĩnh. Trong khoảng rừng thưa, cạnh chiếc Cuda, có một xe cảnh sát đậu. Tim Priest muốn ngưng đập khi hắn trông thấy một viên cảnh sát đang đi vòng quanh một thân cây. Spirit sủa dữ dội. “Im!” Priest nói, và con chó ngưng sủa. Viên cảnh sát trông thấy Priest và giơ tay vẫy.
Priest vẫy lại, rồi ngần ngại tiến tới gần chiếc xe. Hắn cố trấn tĩnh, mỉm cười, nói:
– Chào ông.
Viên cảnh sát hỏi:
– Có xóm nhà nào gần đây không?
Priest định nói dối, nhưng sực nghĩ anh cảnh sát này chỉ đi chừng nửa cây số là gặp xóm nhà ngay, nên hắn phải nói thật:
– Gần đây có một khu nhà làm rượu nho gọi là Silver River Winery.
– Tôi chưa hề nghe thấy tên này.
Dĩ nhiên là phải như vậy. Trong quyển điện thoại niên giám, địa chỉ và số điện thoại của nơi này được ghi dưới tên của Paul Beale. Không có xã viên nào ghi danh để đi bầu, không ai đóng thuế, và không ai có lợi tức nào cả.
Priest nói:
– Xưởng rượu nho này nhỏ lắm.
– Ông là chủ hả?
– Không. Tôi là một người làm công.
– Vậy ông làm gì ở đấy, làm rượu nho hả?
– Phải. Mới sáng sớm ông đã tới đây làm gì vậy?
– Tôi kiếm cha mẹ của một cô gái tên là Flower.
Priest thấy lạnh xương sống.
– Cái gì xẩy ra vậy?
– Cô bé đã bị bắt giam.
– Nó có sao không?
– Nó không bị thương tích gì hết.
– Cảm ơn trời đất. Tôi chỉ sợ ông nói là nó đã bị tai nạn gì.
Priest cảm thấy như cất được một gánh nặng.
– Tại sao nó bị bắt giam? Đáng lẽ là nó phải ở đây, đang ngủ mới phải chứ!
– Ông có liên hệ gì với cô bé không?
– Tôi là cha của nó.
– Vậy thì ông phải tới Silver City.
– Silver City? Nó ở đó bao lâu rồi?
– Mới đây thôi. Chúng tôi không muốn giữ nó lâu đâu, nhưng nó đã không cho chúng tôi biết địa chỉ của nó. Nó chỉ cho chúng tôi biết một giờ trước đây thôi. Tuy vậy kiếm được ông đâu có dễ. Tôi gặp một bọn mang súng trong sơn cốc, cách đây 7 cây số. Họ chỉ đường cho tôi tới đây.
Priest gật đầu:
– Bọn Los Alamos.
– Đúng rồi. Họ có một tấm biểu ngữ lớn nói “Chúng tôi không chấp nhận thẩm quyền của chính phủ Hiệp-Chúng-Quốc Hoa-Kỳ”.
– Tôi biết bọn chúng. Chúng là nhóm thuộc cánh hữu của đảng phản nghịch Vigilante. Chúng đã chiếm cứ một trang trại và canh giữ nghiêm ngặt với nhiều súng lớn. Tại sao con Flower đã bị bắt giữ? Nó đã làm gì?
– Nó đã bị bắt quả tang ăn cắp đồ của một tiệm buôn.
– Của một tiệm? Tại sao nó làm như vậy khi nó có quyền lấy mọi thứ tại một cửa hàng mà không phải trả tiền? Nó đã ăn cắp cái gì?
– Một tấm hình mầu lớn của Leonardo DiCaprio.
Priest cảm ơn viên cảnh sát, và hứa hắn sẽ cùng đi với mẹ của Flower đến trụ sở cảnh sát Silver City trong vòng một giờ nữa. Hài lòng, viên cảnh sát lái xe đi.
Priest vào phòng của Star. Đây cũng là bệnh xá của xã. Star không học về thuốc nhưng nàng đã học lỏm được cách chữa bịnh và săn sóc bịnh nhân của cha và mẹ nàng, cha nàng là bác sĩ và mẹ nàng là y tá. Phòng của nàng chứa đầy bông băng, dầu thoa bóp, aspirin, và thuốc ho.
Priest đánh thức nàng dậy và cho nàng biết chuyện. Nàng nhẩy ra khỏi giường và la lên:
– Chúng ta phải đi lãnh nó về ngay bây giờ!
Star rất ghét cảnh sát. Priest nói:
– Đúng. Nhưng em phải mặc quần áo đã chứ. Em sẽ không giúp được gì cho con Flower nếu em tới đó la hét, và làm cho em cũng bị bắt giam luôn.
Star trấn tĩnh lại và mặc vội quần áo. Nghĩ rằng đến trước mặt mấy thầy cảnh sát thì mình phải ăn mặc chỉnh tề mới được, nên Priest mặc bộ đồ xanh thẫm bên ngoài chiếc sơ-mi lao động của hắn. Rồi hắn và Star ngồi vào trong xe Cuda.
Khi ra đến đường cái, Priest nói:
– Tại sao chúng ta không biết được là nó không ở nhà đêm qua?
– Em đã định đi kiếm nó để giục nó đi ngủ, nhưng con Pearl nói nó đã đi họp với mấy đứa bạn thân. Em đâu có ngờ.
Pearl là con gái của Dale và Poem, 12 tuổi, và là bạn thân nhất của Flower.
Họ lái xe đến Silver City. Sở cảnh sát ở bên cạnh toà án. Họ bước vào một hành lang mờ tối. Một cảnh sát viên mặc sơmi kaki và đeo cà-vạt xanh nói:
– Ông bà cần gì?
Star nói:
– Tôi tên là Stella Higgins. Các ông đang giữ con gái tôi ở đây.
– Xin ông bà chờ một chút.
Nói rồi viên cảnh sát đi vào phía trong.
Priest khẽ nói với Star:
– Mình phải tỏ ra là những công dân có lễ độ, biết tôn trọng luật pháp, và đang lo sợ vì có đứa con bị rắc rối với cảnh sát.
– Được rồi.
Một cánh cửa mở ra, và viên cảnh sát bước ra nói:
– Ông bà Higgins, xin theo tôi.
Ông ta dẫn hai người vào trong phòng họp.
Flower đang ngồi chờ ở đó. Một ngày kia nó sẽ trở nên nẩy nở và đầy đặn như mẹ nó, nhưng nay mới 13 tuổi, nó chỉ là một cô gái cao, gầy, và vụng về. Nó ngồi mặt mày bí xị và còn ướt nước mắt. Star lặng lẽ ôm con, rồi Priest cũng làm như vậy.
Star nói:
– Đêm qua con ngủ trong nhà giam phải không?
Flower lắc đầu nói:
– Ở trong cái nhà nào đó.
Viên cảnh sát giải thích:
– Luật lệ California nghiêm ngặt lắm. Trẻ vị thành niên không được giam cùng với những tội phạm lớn tuổi. Bởi vậy nên cháu Flower đã ngủ tại nhà của người em gái ông cảnh sát trưởng. Priest thấy hơi yên tâm. Viên cảnh sát nói:
– Mời ông bà ngồi. Cháu Flower phạm tội ăn cắp một tấm bích chương đáng giá 10 đôla.
Star quay về phía con gái nói:
– Mẹ không hiểu tại sao con lại đi ăn cắp tấm bích chương của một kép xinê?
– Tại con thích nó thì con lấy.
Priest nói với viên cảnh sát:
– Chúng tôi muốn lãnh con chúng tôi về ngay. Chúng tôi phải làm gì?
– Hình phạt tối đa mà cháu Flower phải chịu về vụ này là bị giam cho đến tuổi 21. Tuy nhiên đây mới là lần đầu phạm tội nên có lẽ sẽ không bị phạt nặng như vậy. Trước đây cháu có bị rắc rối với luật pháp bao giờ chưa?
– Chưa bao giờ.
Viên cảnh sát hỏi cặn kẽ về đời sống của Flower trong gia đình để xem nó có được chăm sóc cẩn thận không. Priest trả lời thỏa đáng mọi câu hỏi, làm như họ chỉ là những nông dân bình thường.
Viên cảnh sát dường như được thỏa mãn với các câu trả lời. Flower phải ký một giấy cam đoan sẽ đi hầu tòa trong bốn tuần nữa. Viên cảnh sát yêu cầu một trong hai người cha mẹ ký tên bảo đảm. Star ký.
Ra đến ngoài đường Priest nói:
– Flower, con đã làm một việc điên rồ, nhưng ba mẹ vẫn yêu con như bao giờ, con hãy nhớ như vậy. Chúng ta sẽ nói về chuyện này khi chúng ta về nhà.
Trong khi lái xe về làng, Priest nghĩ đến hậu quả của việc Flower bị bắt. Làng này chưa bao giờ bị cảnh sát lưu ý tới. Nhưng bây giờ họ đã biết tới chỗ này rồi, và lúc này là lúc không thuận tiện nhất để cho họ để ý tới.
Hắn bật máy radio trên xe. Có một tin mới được loan báo: “Thống đốc Mike Robson gặp nhân viên FBI hồi sáng nay để bàn về vụ bọn khủng bố Búa Thiên Lôi đe dọa làm một vụ động đất.”
Khi họ về tới nhà, xe của Melanie không có ở bãi đậu xe. Nàng đã đưa Dusty về thăm bố nó trong dịp cuối tuần.
Hầu hết mọi người đang làm cỏ ngoài đồng nho. Khi họ thấy Priest và Star trở về với Flower, tất cả đều đi về đền thờ. Khi có việc quan trọng họ đều họp để bàn luận.
Trên đường đi đến đền thờ, gia đình Priest gặp Dale và Poem với đứa con gái của họ, Pearl.
Dale nói:
– Có cái này quý vị cần phải xem.
Flower phóng cho Pearl một tia nhìn trách móc. Pearl đang sợ rúm người.
Dale, người nhỏ thó, tóc cắt ngắn, gọn gàng, là người đứng đắn nhất và quan trọng nhất trong làng, vì hắn là chuyên viên pha chộn rượu nho.
Dale dẫn mọi người đến một phòng trống. Trên trần có một cửa vuông nhỏ mở lên. Có một cái thang dựng gần lỗ cửa ấy. Dale châm lửa vào một cây nến và leo lên thang. Priest và Star theo sau.
Trong khoảng hẹp giữa trần và mái nhà, họ trông thấy kho tàng bí mật của mấy cô gái: một thùng đầy những đồ trang sức rẻ tiền, phấn son, y phục thời trang, và báo chí của giới trẻ.
Priest bình tĩnh nói:
– Tất cả những thứ mà chúng ta vẫn dậy chúng phải coi là đồ vô giá trị.
Dale nói:
– Chúng nó đi nhờ xe đến Silver City. Trong bốn tuần qua chúng đã đi ba lần như vậy. Sau khi tới đó chúng cởi bỏ quần jeans và sơmi lao động, và mặc đồ đẹp vào.
Star nói:
– Chúng làm gì ở đó?
– Đi lang thang trong đường phố, bắt chuyện với con trai, và ăn cắp đồ trong các tiệm.
Priest thọc tay vào trong thùng và lôi ra một chiếc áo thun hẹp mình, mầu xanh dương với một sọc ngang to bản mầu vàng cam. Chiếc áo thật mỏng và bèo nhèo. Cầm cái áo trong tay Priest đi xuống thang. Star và Dale xuống theo. Hai cô gái có vẻ bẽn lẽn.
Priest nói:
– Ta vào đền bàn chuyện này.
Lúc họ tới đền thờ, mọi người đã tề tựu đông đủ, ngồi xếp chân bằng tròn đợi trên sàn đền. Priest vào ngồi chính giữa như mọi khi.
Priest nói:
– Vị nào muốn nói trước tiên?
Aneth nói:
– Có lẽ trước hết Flower và Pearl phải nói cho chúng ta biết tại sao hai cô muốn đến Silver City.
Flower nói, giọng thách thức:
– Để gặp người ta.
Aneth mỉm cười:
– Cô muốn nói gặp con trai?
Flower nhún vai. Aneth nói:
– Được, tôi cho là cái đó có thể hiểu được. Nhưng tại sao các cô phải ăn cắp?
– Để làm đẹp.
Star hỏi:
– Quần áo thường dùng của con có gì là không tốt?
Flower nói, giọng khinh bỉ:
– Còn phải hỏi.
Star nhoài người về phía trước, tát vào mặt Flower, và nói:
– Mày nói với mẹ mày như thế hả? Mẹ đã lãnh mày từ trong tù ra về tội trộm mà. Mày đừng có nghĩ rằng mẹ mày là một người ngu đần.
Pearl bật khóc. Priest thở dài. Đáng lẽ hắn đã phải biết trước việc này sẽ xẩy ra. Áo quần trong tiệm miễn phí của làng đều tốt cả. Mọi người trong làng đều có quần jeans, áo sơmi vải xanh để làm việc, áo thung, áo len dầy cho mùa đông, áo mưa để làm việc ngoài đồng khi trời mưa. Nhưng người nào cũng mặc những thứ ấy. Mà bọn trẻ lại muốn có cái gì khác người ta. Ba mươi lăm năm trước Priest đã ăn cắp một chiếc áo Beatle ở một tiệm tên là Rave.
Poem nói với con gái:
– Pearl, con không thích quần áo của con à?
Pearl vừa sụt sịt khóc vừa nói:
– Chúng con muốn giống như dì Melanie.
Priest thốt lên:
– A, chú hiểu rồi!
Melanie vẫn còn mặc quần áo cũ của nàng: áo nịt ngắn hở hang, váy ngắn, quần soọc cũng thật ngắn, giầy kiểu khác thường, và mũ đẹp. Nàng trông đẹp và khêu gợi. Chẳng trách mấy cô gái đã coi nàng như một người mẫu để bắt chước.
Dale nói:
– Chúng ta cần phải bàn về cô Melanie.
Priest chột dạ. Hắn đã đem Melanie về đây. Hai người đã yêu nhau, và nàng là người rất quan trọng trong kế hoạch của hắn. Nàng là người duy nhất hiểu được những dữ kiện trong cái đĩa của Michael. Priest không thể để họ làm khó nàng. Hắn nói:
– Chúng ta không bao giờ buộc người nào phải đổi áo quần khi họ tới nhập bọn ta. Chừng nào quần áo cũ của họ còn dùng được thì họ cứ dùng.
Alaska, trước kia là một thầy giáo, nói:
– Không phải chỉ có quần áo mà thôi. Cô ấy không làm gì hết.
Priest cãi:
– Tôi đã trông thấy cô ấy rửa bát và làm bánh.
Alaska tiếp tục:
– Mấy việc lặt vặt ấy thì ăn thua gì. Cô ấy không làm việc ngoài đồng. Cô ấy chỉ là một người khách mà thôi.
Đến lượt Garden nói. Trước đây Garden là một dân ghiền sì-ke. Mới 25 tuổi nhưng nàng trông như đã bốn chục.
– Melanie có ảnh hưởng xấu cho bọn trẻ. Cô ấy hay nói với chúng về những đĩa nhạc kích động, những chương trình tivi, và những rác rưởi khác.
Priest nói:
– Chúng mình sẽ phải bàn với Melanie về vấn đề này khi nào cổ rời San Francisco trở về đây.
Dale nói thêm:
– Nhiều người chúng tôi còn bị làm phiền bởi cái gì anh có biết không?
Priest cau mày:
– Cái gì làm phiền nhiều người?
– Cái điện thoại và cái máy điện toán di động của cô ấy.
Trong sơn cốc này chưa bao giờ có điện. Người dân trong này đã quen sống không có tivi và băng nhạc băng hình. Mấy cái máy của Melanie, mà nàng thỉnh thoảng phải sạc điện tại thư viện Silver City, đã được người ta nhìn bằng những con mắt không mấy thiện cảm.
Priest không thể nói cho Dale biết lý do tại sao Melanie phải giữ cái điện thoại và máy điện toán di động của nàng. Priest nghĩ Dale là người nhát gan sẽ ngăn cản hắn không cho thi hành việc hắn đã hoạch định. Priest thấy là phải chấm dứt vụ bàn cãi này. Hắn nói:
– Tôi nghĩ là chúng ta đang bàn luận vụ này trong một thời gian không thuận tiện.
Hầu hết mọi người gật đầu tán thành. Priest nhìn thằng con trai 10 tuổi của hắn, một đứa nhỏ nghiêm trang có cặp mắt đen, và nói:
– Chúng ta phải làm gì đối với vấn đề này hả, Ringo? Con hãy nói đi.
Ringo nói:
– Chúng ta hãy cùng nhau ngồi thiền.
Thấy không ai phản đối, Priest nói:
– Vậy thì xin qúy vị dọn mình để cùng tham thiền.
Mỗi người ngồi với tư thế riêng của mình. Priest và mấy người khác ngồi xếp chân bằng tròn, tay để trên đầu gối, mắt nhắm.
Một không khí lắng dịu tràn ngập phòng họp, và Priest cất giọng thật trầm nói một tiếng “Ồm”.
Tất cả mọi người đồng thanh nói theo “Ồmm…. Dân của tôi. Cầu cho mọi người được sống ở nơi đây đời đời”.
Buổi họp tại văn phòng thống đốc được định vào lúc 12 giờ trưa. Sacramento, thủ đô của tiểu bang, cách San Francisco khoảng hai giờ lái xe. Judy Maddox khởi hành vào lúc 9g30, để phòng hờ những lúc kẹt xe.
Trên giấy tờ thì người mà nàng sẽ gặp, AL Honeymoon, là một viên bí thư. Sự thật, trong việc làm, thì y là tay sát thủ của ông thống đốc. Khi nào Thống Đốc Robson cần phóng một xa lộ mới qua một nơi có phong cảnh đẹp, xây một nhà máy điện hạch-nhân, hay sa thải một ngàn công chức, thì ông sai Honeymoon làm để y hứng mũi chịu sào. Honeymoon được chọn để đóng vai “Ông Ác” vì y là một người da đen. Ông thống đốc đã khôn khéo tính toán rằng báo chí sẽ ngần ngại khi phải đụng chạm đến một người da đen. Honeymoon là một chính trị gia rất khéo léo và rất ác độc. Không ai ưa ông, nhưng người nào cũng sợ ông.
Vì danh tiếng của sở, Judy muốn gây một ấn tượng tốt. FBI thích tỏ ra là một cơ quan toàn năng, nhưng trong vụ này Judy còn dò dẫm, chưa tiến được nhiều, nên nàng chưa có thể tỏ ra nàng là người làm việc hữu hiệu và đáng tin cậy.
Không biết chỗ đậu xe ở nơi đó có thuận tiện không, nàng bấm số điện thoại của văn phòng thống đốc. Thư ký của ông thống đốc trả lời, giọng một người đàn ông trẻ.
Judy nói:
– Tôi phải đến họp với ông Honeymoon vào lúc 12 giờ. Tôi có thể đậu xe tại bãi đậu xe của Capitol Building được không?
– Chúng tôi không có bãi đậu xe dành cho khách, nhưng có một bãi đậu xe công cộng ở khu bên cạnh, trên đường số 10. Tuy nhiên buổi họp là vào lúc 11g30, chứ không phải 12 giờ.
– Sao, mới đổi lại à?
– Thưa bà không. Từ trước vẫn định là 11g30.
Judy bấn người. Buổi họp quan trọng mà đến trễ thì còn mặt mũi nào nữa. Nàng nghĩ là đã có ai bị nhầm lẫn. Nàng xem đồng hồ. Nếu nàng lái xe như điên thì cũng phải mất chín mươi phút mới tới nơi.
Nàng nói liều:
– Không sao. Tôi sẽ tới trước giờ.
– Tốt lắm.
Nàng ấn bàn chân xuống và nhìn đồng hồ tốc độ leo lên tới số 100. Cũng may, trên đường không có nhiều xe lắm.
Kincaid nói cho nàng biết giờ họp, có nghĩa là ông ấy cũng sẽ bị trễ. Judy bấm số điện thoại của văn phòng San Francisco, và nói với cô thư ký của ông ta.
– Linda, cô cho ông Brian Kincaid biết là ông phụ tá thống đốc sẽ gặp ổng vào lúc 11g30, chứ không phải 12 giờ đâu.
Linda nói:
– Hình như ổng biết rồi.
– Không, ổng không biết đâu. Chính ổng nói với tôi là 12 giờ. Cô thử gọi ổng xem.
– Được, tôi sẽ gọi.
– Cảm ơn.
Judy cúp máy và chú tâm vào việc lái xe.
Mấy phút sau nàng nghe tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Nhìn vào kính chiếu hậu, nàng thấy một xe tuần cảnh xa lộ California, và lẩm bẩm:
– Thật là phiền.
Rồi nàng tạt xe vào lề đường và thắng mạnh. Xe tuần cảnh đậu sau xe nàng. Nàng mở cửa xe.
Một tiếng loa nói: “Ngồi yên trong xe.”
Judy cầm huy hiệu FBI trong tay, giơ thẳng ra ngoài cho người cảnh sát trông thấy. Viên cảnh sát tiến đến gần:
– Cô lái xe tới 90 dặm (miles) một giờ.
Nàng vẫy vẫy tấm huy hiệu và nói:
– Tôi là một phái viên FBI đang làm một việc khẩn cấp. Ông đã làm trễ giờ của tôi.
– Biết rồi. Trông cô không giống người của FBI.
– Vậy thế nào mới giống người FBI?
– Cô làm ơn cho xem bằng lái xe của cô.
– Không. Tôi phải đi ngay bây giờ, và tôi sẽ chạy xe tới Sacramento với tốc độ 90 miles một giờ. Ông hiểu chưa?
– Cô không làm như thế được.
– Ông cứ phúc trình mọi nơi đi.
Nói rồi nàng đóng mạnh cửa xe và phóng đi luôn.
Judy đã mất bình tĩnh với viên tuần cảnh. Hắn sẽ trình lên thượng cấp của hắn. Vị này sẽ than phiền với FBI. Rồi nàng sẽ bị khiển trách. Nhưng nếu nàng phải giữ thái độ lịch sự thì nàng hãy còn bị giữ ở chỗ đó. Khi nàng rẽ vào con đường nhỏ ra khỏi xa lộ để vào trung tâm thành phố Sacramento thì đã 11g20 rồi. Lúc 11g25 nàng đậu xe trong bãi đậu trên đường số 10, rồi nàng chạy băng qua đường.
Tòa nhà Capitol Building là một dinh thự bằng đá giống như một cái bánh đám cưới. Judy bước nhanh dọc theo phòng lớn lát đá hoa cương tới một hành lang rộng với chữ THỐNG ĐỐC khắc phía trên. Nàng dừng lại và nhìn xuống đồng hồ của nàng. Đúng 11g30.
Bên trong cũng lại một phòng rộng nữa với một viên thư ký ngồi sau một bàn giấy thật lớn. Cạnh đấy có một hàng ghế. Trên một ghế Judy ngạc nhiên thấy Brian Kincaid ngồi chễm chệ từ lúc nào, mặt mũi tươi tắn, thảnh thơi, không có vẻ gì là một người mới hối hả tới. Khi Kincaid trông thấy nàng, Judy thấy một thoáng ngạc nhiên trong ánh mắt của y.
Nàng nói:
– Chào ông Giám Đốc.
– Chào cô.
Nói xong, Kincaid ngoảnh mặt nhìn ra chỗ khác.
Nàng hỏi:
– Ông tới từ lúc nào vậy, thưa ông?
– Mới vài phút trước thôi.
Có nghĩa là ông đã biết trước giờ đúng để họp. Một người đàn ông da đen trẻ xuất hiện nơi một cửa bên và nói với họ:
– Ông Honeymoon đang chờ qúy vị.
Hai người đi theo hắn dọc theo hành lang, quẹo theo một góc tường, rồi được dẫn vào phòng của Honeymoon.
Ông là một người to lớn, tóc hoa râm, húi ngắn sát đầu. Ông mặc bộ đồ xám có sọc nhỏ, áo vét treo trên mắc, để lộ dây đeo quần mầu đen. Mặt sắt đen sì, nghiêm nghị, uy nghi. Tuy bề ngoài có vẻ uy nghiêm, nhưng cung cách tiếp khách của ông thật lịch sự. Ông đứng dậy bắt tay hai người, và nói:
– Thật là khó nhọc cho hai vị, phải lặn lội từ San Francisco tới đây.
Brian Kincaid nói:
– Không sao ạ.
Tất cả ngồi xuống. Honeymoon vào đề ngay:
– Các vị thấy tình hình ra sao?
Kincaid nói:
– Xin để cô Judy trình bầy ông rõ.
Judy nói:
– Chúng tôi chưa bắt được bọn họ, nhưng chúng tôi chắc chắn là bọn họ không dính dáng gì đến tổ chức Green California. Họ cố ý đánh lạc hướng chúng ta. Chúng tôi không biết họ là ai, nhưng chúng tôi đã biết được đôi điều về họ.
Honeymoon nói:
– Xin cô cứ tiếp tục.
– Trước hết, cuộc phân tích ngôn ngữ của lời đe dọa cho ta thấy rằng chúng ta phải đương đầu với một nhóm người chứ không phải với một người đơn độc.
Kincaid nói:
– Vậy thì ít nhất là phải hai người.
Judy lườm Kincaid, nhưng y làm như không thấy gì.
Nàng nói tiếp:
– Lời đe dọa đã được nghĩ ra bởi một người đàn ông, và được đánh vào máy điện toán bởi một người đàn bà. Vậy ít nhất họ phải có hai người. Điều thứ hai là họ không điên khùng.
Kincaid nói:
– Phải, không điên khùng theo bịnh lý, nhưng họ chắc chắn là không được bình thường.
Rồi y cười lớn, làm như đã nói được một câu hay ho lắm. Judy rủa thầm y vì y đã cố ý dèm pha nàng, và nàng nói tiếp:
– Những tên phạm trọng tội có thể được chia ra làm hai loại, có tổ chức và không có tổ chức. Loại không có tổ chức hành động tùy theo hứng, dùng bất cứ vũ khí gì chúng có được, và đánh bừa bãi, gặp ai đánh nấy. Loại có tổ chức nghiên cứu kỹ kế hoạch của chúng, đem theo vũ khí của chúng, và đánh những người chúng đã chọn trước.
Honeymoon nói:
– Được rồi. Búa Thiên Lôi là một bọn có tổ chức.
– Xét theo lời đe dọa của chúng thì đúng là như vậy.
Honeymoon nói:
– Cô tin tưởng vào sự phân tích ngôn ngữ lắm nhỉ?
Kincaid nói:
– Cái đó không phải là một công tác chính trong một cuộc điều tra cẩn thận, nhưng trong vụ này, cho tới nay, chúng tôi chỉ biết được như vậy.
Hàm ý của câu nói ấy là họ chỉ có cái “phân tích ngôn ngữ” mà dựa vào thôi, vì Judy không chịu bỏ công đi điều tra.
Chới với, Judy cố chống đỡ:
– Chúng ta đang đương đầu với một bọn rất nghiêm chỉnh. Nếu họ không có khả năng làm được động đất thì họ sẽ dùng một phương thức khác.
– Thí dụ như?
– Một trong nhiều phương thức thông thường của bọn khủng bố: cho nổ một quả bom, bắt một con tin, ám sát một người có danh vọng. Tuy nhiên tôi vẫn không sẵn sàng loại bỏ sự khả dĩ làm nên một vụ động đất của họ. Một chuyên viên hàng đầu về địa chấn ở California, giáo sư Quercus, đã nói với tôi như vậy.
Kincaid ngả lưng tựa vào ghế của y, nói với giọng thân mật của một người bạn:
– Judy đã trả lời anh đúng theo sách vở, anh AL. Theo kinh nghiệm làm việc lâu năm của tôi thì tôi cho anh biết quan điểm của tôi. Bọn này không thể làm được động đất, và chúng không hề quan tâm đến nhà máy điện nào hết. Linh tính của tôi cho tôi biết rằng chỉ có một thằng muốn lấy le với con bạn gái của nó. Nó đã làm cho ông thống đốc phải sợ hãi, sở FBI phải chạy vòng vòng, và đài phát thanh John Truth phải nói về nó mỗi đêm. Tự nhiên nó trở nên một người quan trọng, và cô gái kia phải phục nó sát đất.
Judy thấy không còn mặt mũi nào nữa. Kincaid đã để nàng nói ra hết mọi việc nàng đã cố sức làm, rồi hắn tạt một thùng nước lạnh vào những điều nàng đã nói. Hắn đã cố ý hoạch định như vậy từ trước, và hắn đã cố ý cho nàng thời điểm sai của buổi họp hôm nay.
Honeymoon đứng dậy và nói:
– Bây giờ tôi đi nói với ông thống đốc bỏ qua vụ này đi, không làm gì hết. Cảm ơn hai vị.
Kincaid nói:
– Bất cứ lúc nào cần đến chúng tôi, xin anh cho chúng tôi biết.
Một lát sau, hai người đã ở ngoài phòng họp. Judy giữ im lặng trong khi họ đi qua mấy phòng lớn và ra ngoài trời. Lúc đó Kincaid đứng lại và nói:
– Cô Judy, lúc nãy cô đã đối đáp thật khéo với Honeymoon. Cô cứ yên trí, đừng lo gì cả.
Nàng muốn hét to vào mặt hắn, nhưng nàng cố trấn tĩnh nói:
– Đó là công việc tôi phải làm, thưa ông.
Judy nhìn theo hắn đi khỏi. Rồi nàng băng qua đường, vào một tiệm bán bánh kẹo, và mua một hộp chocolate.
Trong lúc lái xe trở về San Francisco, nàng đã ăn hết nguyên hộp.
Sau buổi họp trong đền, Priest và Star ngồi trong xe của Priest và bật máy radio. Bản tin tức giống y như bản họ đã nghe hồi sớm. Priest nghiến răng vì thất vọng.
Star nói:
– Điệu này là mình phải biểu diễn cho họ xem một chút thì họ mới chịu nghe mình.
Priest nói:
– Phải rồi. Anh chỉ sợ cái chấn động cơ của mình không hiệu nghiệm. Cho nó chạy rồi mà không có động đất là mình đi đoong.
Hai người xuống xe và đi tới đồng nho để làm cỏ. Trên đường đi Star nói:
– Tối nay anh phải ngồi chơi với con Flower một lát. Anh chỉ hay chơi với thằng cu Dusty thôi.
Dusty mới 5 tuổi. Chơi với nó rất thú vị. Flower đã 13 tuổi rồi, cái tuổi hay khinh người lớn, coi các bậc trưởng thượng như những đồ hủ lậu.
Priest hỏi:
– Anh phải làm gì với nó?
– Nó muốn học đàn ghi-ta.
Priest đàn đâu có giỏi, nhưng cũng đủ để dậy Flower lúc ban đầu. Priest nói:
– Được rồi, anh sẽ bắt đầu dậy nó tối nay.
Hai người tiếp tục làm việc, nhưng vài phút sau ngừng tay. Priest trông thấy một người đàn ông đang từ trên đồi đi xuống, một người đàn bà theo sau, tay bồng một đứa bé. Khi hai người này đến gần hơn, Priest nói:
– Có phải vợ chồng nhà Bones không?
Star reo lên:
– Phải rồi.
Rồi nàng chạy đi đón những người mới đến. Priest từ từ theo sau.
Bones nghiện rượu và cần sa. Trước kia hắn không chịu nhập tịch làng để làm việc. Sau vài năm tạm trú ở làng, Bones ra đi. Từ đó không ai gặp hắn nữa. Hôm nay, sau hơn hai chục năm, hắn trở lại.
Star ôm chặt Bones một lát. Khi hai người buông nhau ra, Priest nhận thấy sắc diện của Bones rất tiều tụy. Bones vốn dĩ vẫn gầy, nhưng bây giờ hắn có vẻ như người sắp chết đói, áo quần dơ dáy. Hắn tới đây vì hắn đang gặp khó khăn.
Bones giới thiệu người đàn bà là Debbie. Nàng vào khoảng 25 tuổi. Đứa nhỏ, con của họ, vào khoảng 18 tháng. Cả hai mẹ con đều gầy gò và bẩn thỉu như Bones vậy.
Lúc đó gặp giờ ăn trưa. Priest và Star dẫn bọn Bones vào nhà bếp và cho họ ăn súp lúa mạch. Debbie ăn ngấu ăn nghiến, và cho đứa nhỏ ăn, nhưng Bones chỉ húp vài muỗng rồi thôi.
Sau bữa ăn, Bones kéo Priest ra một chỗ và nói:
– Tôi muốn cho anh xem cái này. Anh đi theo tôi.
Priest đi theo hắn. Vừa đi Priest vừa lấy ra một túi nhỏ đựng cần sa, và quấn một điếu.
Bones liếm môi:
– Anh không có thứ gì mạnh hơn à?
– Hồi này anh dùng thứ gì?
– Một chút đường nâu thôi, để cho được tỉnh táo.
Bạch phiến. Thì ra anh chàng Bones này nghiện bạch phiến.
– Ở đây chúng tôi không có bạch phiến. Không ai dùng thứ này. Nếu có ai dùng thứ này thì tôi không cho ở đây.
Khi hai người tới chỗ đậu xe nơi rừng thưa, Bones nói:
– Đây, nó đây.
Thoạt đầu, Priest không biết đó là cái gì. Đó là một chiếc xe, nhưng loại xe gì đây? Nó có một hình vẽ sơn mầu đỏ và vàng chói. Ở hai bên sườn xe có hình vẽ của một con quái vật đang phun lửa với một hàng chữ cũng mầu lòe loẹt như thế. Bones đã biết là Priest không biết đọc, nên nói:
– Miệng con rồng. Đây là cái xe để cộ đèn và hoa.
Bây giờ Priest mới hiểu. Những bộ phận để trưng bầy đèn và hoa đều được đặt trên các xe tải. Máy xe tải sẽ cung cấp điện cho những bộ phận ấy. Sau cuộc vui thì các bộ phận ấy được xếp lại, và xe tải được điều đi một nơi khác. Priest đưa cho Bones điếu cần sa và nói:
– Xe này của anh à?
– Tôi đã nhờ nó mà sống được 10 năm rồi. Nay nó cần được sửa chữa.
Bones hút một hơi thuốc dài rồi nói tiếp:
– Tôi muốn bán nó đi. Nó đáng giá năm chục ngàn đôla. Tôi chỉ xin mười ngàn thôi. May ra các ông muốn mua nó chăng?
– Tôi làm gì với cái xe cộ đèn này?
– Đầu tư vào cái xe này là chắc ăn à. Nếu anh gặp một năm xấu, mất mùa rượu vang chẳng hạn, anh sẽ cho xe này đi cộ đèn, và sẽ có tiền xài.
Priest lắc đầu:
– Không được đâu. Nhưng tôi chúc anh nhiều may mắn.
– Anh Priest, thật sự tôi đang túng quá. Anh có thể cho tôi mượn tạm một ngàn đồng được không?
– Chúng tôi làm gì có tiền. Anh đã biết là chúng tôi không dùng tiền mà.
Bones gật đầu:
– Đó là câu nói để trốn tránh thôi, anh ơi. Tôi thật đang gặp khó khăn.
– Anh đừng lén sau lưng tôi mà đến hỏi tiền Star, vì anh cũng sẽ được câu trả lời như vậy thôi.
Priest trừng mắt nói thêm:
– Anh nghe rõ chưa?
Bones hoảng:
– Rõ, rõ. Đừng nóng anh, đừng nóng.
– Tôi không nóng.
Khi Melanie trở về lúc xẩm tối, Priest nói cho nàng biết chuyện con Flower bị bắt, và chuyện dân làng đổ lỗi cho Melanie và cách ăn mặc hở hang của nàng. Melanie nói nàng sẽ dùng quần áo lao động tại cửa hàng miễn phí của xã.
Sau bữa an chiều, Priest ngồi bên ngoài nhà với Flower và lên dây đàn ghita.
Priest nói:
– Phần đông các bài hát đều có ba hoà âm. Nếu con biết được ba hòa âm ấy thì con có thể đánh được chín trong mười bài.