Búa Thiên Lôi

CHƯƠNG 6



Cả bọn bước ra ngoài. Star nói:
– Họ đã loan truyền đi giọng nói của tôi! Bây giờ tôi phải làm gì?
Priest nói:
– Bình tĩnh. Đừng lo. Không có ai ngoài làng của ta biết giọng nói của bà. Trong hai mươi lăm năm nay bà đã chỉ nói với người ngoài chừng ba mống chứ bao nhiêu.
– Có lẽ anh nói đúng. Không có ai ở ngoài làng biết giọng nói của tôi.
Đột nhiên Star nhìn sững Priest và nói:
– Chết rồi! Thằng cảnh sát ở Silver City!
Priest bật ra một tiếng chửi thề. Phải rồi. Star đã nói với viên cảnh sát ấy mới hôm qua đây thôi. Nếu y có nghe radio và nhớ lại giọng nói của Star thì ông cảnh sát trưởng với nửa tá cảnh sát viên tùy tùng có thể đang ở trong làng, chờ Star trở về. Nhưng có thể y đã không nghe tin tức.
Priest nói:
– Để tôi thử gọi sở cảnh sát xem họ có động tĩnh gì không. Các bà chờ ở đây.
Priest đến chỗ máy điện thoại công cộng, tìm số sở cảnh sát, rồi bấm số:
– Xin cho tôi ông Wicks.
Một giọng thân thiện trả lời:
– Billy không có ở đây. Ông ấy đã bay đi Nassau tối hôm qua. Hai tuần nữa mới về. Ông có cần gọi người nào khác không?
Priest gác máy và đi ra. Hắn nói:
– Thằng cha đi nghỉ hè. Nó ở Nassau hai tuần. Chúng ta yên rồi.
Star thở phào:
– Cảm ơn ông Trời.
Priest mở cửa xe tải:
– Đi thôi, các bà.
Lúc Priest lái chiếc chấn động xa vào con đường rừng dẫn về làng thì đã gần nửa đêm rồi. Hắn đậu xe vào chỗ ẩn núp trước.
Sau khi đậu chiếc Cuda, cả bọn đi xuống đồi, trở về làng. Hầu hết các lều đều tối om và im lìm. Họ thì thầm chào nhau, rồi ai nấy trở về nhà riêng của mình.
Đêm hôm ấy trời oi bức. Priest nằm trên giường suy nghĩ. Ông thống đốc không nói gì, nhưng còn buổi họp báo của FBI sáng ngày mai. Cái này làm hắn thắc mắc. FBI đã tìm thấy cái gì? Hắn cần phải biết. Mà muốn biết thì hắn phải đến dự buổi họp báo. Có phần nguy hiểm đấy, nhưng ý kiến này cứ lởn vởn trong đầu hắn, không chịu biến đi.
Hắn xuống giường, xỏ chân vào dép, và đi ra ngoài. Dưới ánh trăng hắn đi về phía lều của Melanie. Nàng đang ngồi ở cạnh giường, chải làn tóc đỏ dài của nàng. Thấy Priest bước vào, nàng mỉm cười nói:
– Có chuyện gì vậy anh?
– Anh muốn mượn cái điện thoại cầm tay của em.
Melanie bĩu môi. Nàng nghĩ rằng mục đích của Priest tới đây không phải là như vậy.
Priest toét miệng cười:
– Nhưng anh cũng có thể đè em xuống và làm cho em một trận mê tơi, rồi anh mới dùng cái điện thoại của em.
Melanie cười:
– Được rồi. Cho phép anh điện thoại trước.
Priest cầm lấy cái điện thoại, gọi xin số của FBI ở San Francisco. Sau khi đã có rồi, hắn bấm số gọi. Một giọng đàn ông trả lời:
– FBI.
– Đây là đài phát thanh KCAR ở Carson City. Tôi là Dave Horlock. Chúng tôi muốn gởi một phóng viên tới cuộc họp báo của qúy ông ngày mai. Ông có thể cho tôi nơi và giờ họp được không?
– Mười hai giờ trưa, tại đây, trong Toà Nhà Liên Bang.
– Chúng tôi có cần phải xin một giấy mời, hay là cứ đích thân tới?
– Y chỉ cần có một thẻ phóng viên của đài thôi.
– Cảm ơn ông.
Priest tắt máy. Hắn sẽ tới cuộc họp báo xem kẻ thù có ý định làm gì.
Melanie đã nằm sẵn trên giuờng, nói:
– Ngày hôm nay thật là dài.
Priest ngắm cái thân hình ấy. Hắn cần phải làm lắng dịu tâm hồn. Cách thứ hai để làm việc ấy là ngồi thiền. Cách thứ nhất đang nằm trước mắt hắn.
Sau đó Melanie ngủ. Nằm cạnh nàng, Priest tính cách giải quyết vụ thẻ phóng viên cho đến khi đã tìm ra được một giải pháp.
Sớm mai, hắn thức dậy, đi xuống nhà trẻ và đánh thức Flower dậy. Hắn nói:
– Ba muốn con đi San Francisco với ba. Con mặc quần áo đi.
Priest làm bữa ăn lót dạ cho con gái trong căn nhà bếp vắng tanh. Trong khi Flower ăn, hắn nói:
– Con có nhớ con đã nói với ba là con muốn viết văn không? Và con nói con muốn làm việc cho một tạp chí?
– Có, tạp chí “Teen”.
– Hôm nay con sẽ biết thế nào là một phóng viên nhà báo. Ba đưa con đi xem một cuộc họp báo của FBI.
– Họ họp báo về chuyện gì vậy, ba?
– Có một bọn tự nhận đã gây ra một trận động đất. Về việc này ba muốn con phải giữ bí mật, không được nói cho một người nào biết. Nhớ không?
– Nhớ.
Priest nghĩ tới việc mặc bộ đồ xanh thẫm. Tuy nhiên kiểu nó cổ lỗ quá, người ta sẽ dễ nhận ra nó tại San Francisco. Bởi vậy nên hắn mặc quần jeans xanh và áo sơmi bằng nỉ mỏng có sọc ô vuông và đuôi dài. Hắn để áo lùng thùng ở ngoài quần. Hắn cài một con dao vào trong cạp quần jeans, phía sau lưng, giấu trong đuôi áo sơmi.
Sau bốn giờ lái xe, hai cha con tới San Francisco lúc 11 giờ sáng. Priest để xe ở một bãi đậu xe. Tại một tiệm thuốc hắn mua cho Flower một quyển sổ tạp ghi, gáy quấn lò xo. Rồi hắn dẫn con gái đến một tiệm cà phê. Trong lúc Flower uống sôđa, hắn nói:
– Con ngồi chờ ở đây, ba trở về ngay.
Priest đi về phía Union Square, để ý kiếm một người có khổ người giống hắn. Trên đường phố rất đông người qua lại. Có nhiều người da nâu chạc bốn chục tuổi, nhưng hầu hết đều nặng hơn hắn khoảng một hai chục ký.
Rồi dịp may đến với hắn: một người đàn ông khoảng 50 tuổi, đeo kính, người mảnh khảnh. Ông này mặc quần mầu xanh nước biển và áo sơmi polo mầu xanh lá cây, tay xách một cặp da cũ mầu nâu. Priest đoán chừng ông ta đang đi đến văn phòng để làm nốt một việc dở dang. Priest đi theo ông ta, vòng theo một góc phố, chờ cơ hội.
Người nọ quẹo vào một khu phố có nhiều tòa nhà văn phòng. Nơi đây vắng tanh. Priest rút dao ra, chạy tới người đó, khoa dao trước mặt y, và quát:
– Đưa ví tiền đây, không thì ông cắt cổ mày!
– Nó ở trong cặp này.
Priest giật lấy cái cặp da, lột mắt kính của người nọ, rồi chạy đi. Hắn liệng con dao vào một thùng rác rồi bình thản bước đi. Tới một góc phố hắn dừng lại cạnh bức tường của một tòa nhà lớn, và mở cặp da. Ở trong có một hộp bằng giấy cứng đựng hồ sơ, một sổ tạp ghi, mấy cây viết, và một ví da. Priest cầm lấy ví da và liệng cái cặp vào một thùng rác.
Priest đi trở về tiệm cà phê và ngồi với Flower. Hắn mở ví ra. Trong ví có tiền, thẻ tín dụng, một mớ danh thiếp, và một tấm thẻ như thẻ căn cước, có dán hình. Priest lấy ra một tấm danh thiếp, đưa cho Flower và nói:
– Danh thiếp của tôi đây, thưa bà.
– Ông là Peter Shoebury của hãng Watkins, Colefax, và Brown?
– Tôi là luật sư à?
– Có lẽ.
Priest quan sát hình trên thẻ căn cước. Nó không giống y, mà nó cũng chẳng thật giống Peter Shoebury. Tuy nhiên Priest có thể làm cho hắn giống tấm hình hơn một chút. Shoebury có tóc ngắn. Priest nói:
– Con cho ba mượn cái băng cột tóc của con.
Flower lấy cái băng cao su ở trên đầu xuống, và lắc lắc đầu cho tóc bung ra. Priest quấn tóc hắn thành một cái đuôi ngựa, và cột chắc nó lại bằng cái băng cao su, và đeo kính vào. Hắn đưa tấm hình cho Flower xem:
– Con trông ba có giống hình này không?
– Hừm…, ba có móc túi ai không?
– Gần như thế.
Priest thấy rõ là con gái nghĩ rằng ba nó muốn đùa dai với người ta thôi, chứ không có ác ý. Hắn nhìn đồng hồ trên tường: 11g45.
– Con sẵn sàng chưa?
– Rồi, ba.
Hai cha con đi dọc theo đường phố, và bước vào Tòa Nhà Liên Bang. Họ vào thang máy lên lầu của FBI, theo mũi tên chỉ đường đến phòng họp. Có một bàn trên có nhiều micro ở xa, phía trong phòng. Bốn người đứng gần cửa, người nào cũng to, cao, mặc đồ lớn, sơmi trắng, cà vạt xẫm mầu. Đây chắc là các nhân viên FBI.
Priest nghĩ rằng người lãnh đạo ở đây phải là ông nhiều tuổi hơn hết, với mớ tóc trắng, dầy. Ông này đang nói với một người đàn ông có bộ ria đen.
Một người đàn bà trẻ, tay cầm một tấm bảng kẹp một quyển sổ ở trên, tới gần Priest, nói:
– Chào ông. Ông cần chi?
Priest nói:
– Chào bà. Tôi tên là Peter Shoebury. Tôi là luật sư của nhóm Watkins, Colefax, và Brown. Con gái tôi đây, Florence, là chủ bút tờ báo của nhà trường. Nó nghe radio thấy nói có cuộc họp báo ở đây nên nó muốn đến nghe để về viết thuyết trình cho tờ báo của trường nó. Thưa có được không ạ?
Mọi người đều hướng mắt nhìn người có tóc trắng. Ông này chìa tay ra và nói:
– Tôi là đặc phái viên phụ trách ở đây, Brian Kincaid, Giám Đốc FBI San Francisco.
Priest bắt tay ông ta:
– Hân hạnh được gặp ông, thưa ông Kincaid.
– Ông có một thẻ căn cước nào không?
– Dạ có.
Priest mở cái ví đã cướp giật ra, và lấy ra tấm thẻ có dán hình của Peter Shoebury. Hắn nín thở, hồi hộp.
Kincaid nhìn tấm thẻ, rồi nhìn Priest, rồi đưa trả lại hắn. Priest thở ra.
Kincaid quay sang Flower:
– Cháu học trường nào, Florence?
– Ừm….
Flower ngập ngừng. Priest định trả lời thay cho nó, nhưng nó nói:
– Trung Học Eisenhower.
Priest thấy hãnh diện. Con bé được cái lanh trí, nó thật giống bố nó. Sợ Kincaid biết rõ các trường học ở San Francisco, hắn nói thêm:
– Trường ấy ở Oakland.
Kincaid hài lòng nói:
– Được. Chúng tôi vui lòng tiếp đón cháu ở đây.
– Cháu cảm ơn bác.
Các nhiếp ảnh viên, phóng viên, và hai toán của hai đài truyền hình, đang đến đầy phòng họp.
Kincaid nói:
– Florence, chúng tôi bắt đầu cuộc họp báo ngay bây giờ. Bác mong rằng cháu sẽ ở lại đây để nghe lời tuyên bố của chúng tôi.
– Dạ, thưa bác.
Các phái viên di chuyển đến cái bàn ở xa phía trong. Priest và Flower ngồi đàng sau cùng. Priest thấy an tâm vì hắn thấy các nhân viên FBI chẳng là thần thánh gì. Họ cũng giống như các cảnh sát viên thường mà thôi, nên hắn không sợ họ nhiều.
Kincaid đứng lên, tự giới thiệu, và nói:
– Tôi bắt đầu bằng một lời xác định rõ ràng sau đây: FBI không tin là trận động đất ngày hôm qua đã được gây ra bởi một bọn khủng bố. Dầu sao, chúng đã hăm dọa khủng bố nên chúng tôi phải tìm bắt cho được bọn chúng. Toán điều tra của chúng tôi được cầm đầu bởi đặc phái viên Marvin Hayes. Mời anh Marvin.
Hayes đứng lên:
– Nhóm FBI chúng tôi sáng nay có chất vấn 5 nhân viên của tổ chức tranh đấu Green California, và có tới thăm trụ sở của họ ở San Francisco……
Priest đã đánh lạc hướng được bọn FBI. Hắn rất thích thú thấy cuộc điều tra của họ cho tới nay đã chẳng đi tới đâu.
Sau rốt, Kincaid chấm dứt cuộc họp. Priest và Flower đi ra phía cửa, nhưng bị người đàn bà cầm tấm bảng chặn lại.
– Hai người chưa ký tên.
Bà nọ đưa cho Priest quyển sổ và cái bút bi:
– Xin ông ghi tên ông và cơ quan ông đại diện.
Priest than thầm “Bỏ mẹ, mình làm sao mà viết được”. Tuy nhiên hắn làm mặt lạnh, nói:
– Được.
Hắn cầm lấy quyển sổ và cái bút, rồi trao cho Flower:
– Tôi nghĩ Florence ký cho cả hai là được rồi. Cô ấy là một nhà báo.
Flower viết vào quyển sổ rồi trao lại cho bà kia. Bà này lại đưa quyển sổ cho Priest:
– Cả ông cũng phải ký. Xin ông cảm phiền.
Priest miễn cưỡng cầm lấy quyển sổ. Trong lúc đang chần chừ không biết làm gì thì hắn nghe thấy Kincaid nói:
– Florence, bác hy vọng là cháu đã chú ý đến cuộc họp báo này nhiều chứ?
– Thưa bác, cuộc họp báo này quan trọng lắm ạ.
Priest vẽ nguệch ngoạc vài nét vào quyển sổ, rồi gấp nó lại và trao cho người đàn bà.
Kincaid nói với Flower:
– Cháu nhớ gởi cho bác một bản sao tờ báo của nhà trường cháu nhé.
– Dạ, cháu xin nhớ.
Người đàn bà mở quyển sổ ra và nói:
– Ồ, chữ ký của ông không được rõ. Xin ông vui lòng viết rõ tên ông.
Kincaid nói với Flower:
– Đây là địa chỉ của bác.
Ông lấy một tấm danh thiếp ra từ túi áo trong của ông, và đưa cho Flower.
– Cháu cảm ơn bác.
Priest nhớ lại là Peter Shoebury có đem theo danh thiếp. Hắn mở ví đưa một tấm cho bà nọ, và nói:
– Chữ viết của tôi xấu lắm, bà dùng cái này vậy.
Priest bắt tay Kincaid:
– Tôi sẽ nhắc Florence gởi bản tường trình của nó cho ông.
Hai cha con rời phòng họp. Ra tới ngoài, Flower hỏi cha:
– Tại sao mình phải dùng tên giả?
– Tại vì ba không muốn cho bọn chó săn biết tên thật của ba.
Hắn nghĩ là con gái sẽ chấp nhận câu trả lời này vì nó vẫn biết cha mẹ nó không ưa gì cảnh sát. Nhưng nó nói:
– Con giận ba vì chuyện này.
Priest cau mày:
– Tại sao?
– Con không bao giờ tha thứ cho ba vì đã gọi con là Florence!
Priest trố mắt nhìn Flower một lúc, rồi cả hai bật cười ha hả.
Priest nói:
– Thôi, ta đi về, cưng.
 
Sáng thứ Bảy, Judy đi mua thức ăn ở chợ Gala Foods. Khi về nhà, Bố giúp nàng dỡ thức ăn, và nói:
– Bố có nghe chuyện Marvin Hayes đến khám xét trụ sở của Green California.
– Vụ ấy chẳng có lợi gì cho y hết. Bọn họ không làm gì bậy. Raja đã phỏng vấn họ hôm thứ Ba. Nếu họ là bọn khủng bố thì con là người cùi.
Chuông gọi cửa reo. Judy mở cửa. Đó là Simon Sparrow. Nàng ngạc nhiên, nhưng cũng mừng:
– Chào anh Simon. Vào đi.
Bố bắt tay Simon. Judy nói:
– Simon là nhà phân tích ngôn ngữ số một của FBI.
Simon đem theo một cuốn băng cassette và một phong bì mầu nâu. Hắn nói:
– Tôi đem cho cô xem bản phúc trình của tôi về cuốn băng của Búa Thiên Lôi.
Judy nói:
– Tôi không còn dính dáng gì đến vụ này nữa. Bây giờ là phận sự của Marvin Hayes.
– Tôi biết. Nhưng tôi nghĩ là cô vẫn còn để ý tới vụ này.
Simon trông thấy cái radio-cassette của Bố ở trên quầy bếp. Hắn lùa cuốn băng vào máy:
– Để tôi cho cô biết những gì tôi đã khám phá ra từ cuốn băng này.
Judy lắc đầu:
– Anh phải nói với Marvin trước đã.
– Phải. Nhưng Marvin là một thằng ngu. Cô cứ nghe có sao đâu. Tôi muốn biết ý kiến của cô.
Simon vặn lớn âm thanh và cho chạy băng. Giọng nói của người đàn bà: “Đây là Búa Thiên Lôi. Chúng tôi có một thông điệp cho ông Thống Đốc Mike Robson”.
Simon hỏi Bố:
– Bác mường tượng ra một người như thế nào khi bác nghe giọng nói này?
Bố cười:
– Tôi thấy một người đàn bà mập mạp, khêu gợi, vào khoảng 50 tuổi.
Simon gật đầu:
– Năng khiếu của bác có thể tin được đấy.
Chỉ nghe giọng nói của một người, chúng ta có thể đoán được nhiều về người ấy. Ta có thể đoán được tuổi tác và khổ người của người ấy. Đôi khi ta cũng đoán được tình trạng sức khỏe của y. Đó là vì giọng nói xuất phát từ thân thể của con người. Âm thanh cao, thấp, to, nhỏ, vang tiếng hay rè rè, đều do cơ thể con người. Người cao có đường dẫn thanh dài, người già có sương sụn cọt kẹt. Máy điện toán của tôi cũng bắt được các dấu hiệu ấy như người ta vậy, mà lại chính xác hơn.
Simon lấy từ trong phong bì ra một tờ phúc trình đánh máy:
– Người đàn bà này vào khoảng giữa 47 và 52 tuổi, thân hình cao, chừng một mét bẩy. Bà này nặng ký, nhưng không mập phì, có thể nói là đẫy đà, tròn trịa.
Bố nói:
– Chà! Tôi thích người đàn bà này. Máy điện toán của anh có nói là bà ấy có giỏi ở trên giường không?
Simon cười:
– Sở dĩ bác cho là bà ấy khêu gợi là vì giọng nói của bà ấy có pha một âm tiết thì thầm.
Bố nói:
– Làm sao mà anh có thể khám phá ra được nhiều thứ như thế, khi mới chỉ nghe có một câu nói của người ta thôi?
Simon cười khoái trá, nói:
– Xin bác nghe nữa đây: “Nó đã xẩy ra tại Owens Valley, sau hai giờ một chút”.
Một tiếng ồn nhỏ đàng sau nổi lên. Simon ấn nút PAUSE cho băng ngưng, và nói:
– Tôi đã làm cho tiếng ồn kỳ cục này nghe được rõ hơn.
Hắn nâng ngón tay khỏi nút PAUSE. Judy nghe thấy giọng một người đàn ông, có phần lạc đi nhiều vì tiếng rít nhiễu âm, nhưng cũng đủ nghe để hiểu được: “Chúng tôi không chấp nhận thẩm quyền của chính phủ Hoa-Kỳ”. Tiếng ồn phía sau lại trở lại như trước, và tiếng nói người đàn bà nhắc lại: “Chúng tôi không chấp nhận thẩm quyền của chính phủ Hoa-Kỳ”. Simon tắt máy.
Judy nói:
– Mụ này đang nói những câu mà thằng cha kia đã bảo mụ nói, rồi mụ quên vài chữ nên thằng cha nhắc mụ.
Bố nói:
– Anh có còn nhớ là bản thông cáo đầu tiên trên Internet đã được đọc bởi một thằng công nhân có thể mù chữ, và đánh máy bởi một người đàn bà có học?
Simon đáp:
– Dạ có. Nhưng mụ này là một người khác, già hơn.
Bố nói với Judy:
– Vậy là bây giờ con phải đương đầu với ba tên khủng bố.
Judy nói:
– Không. Con không đương đầu với ai hết. Con ra ngoài vụ rồi. Này, anh Simon, anh cũng biết như thế này là tôi có thể bị phiền phức thêm nữa. Xin anh trình tờ phúc trình của anh cho Marvin sớm đi.
Simon lấy cuộn băng ra khỏi máy:
– Được rồi. Dù sao tôi cũng đã cho cô biết những điểm quan trọng rồi.
Judy tiễn Simon ra cửa. Khi trở vào nàng nói với Bố:
– Bọn này có thể là một giáo phái, và người đàn ông kia phải là thằng trưởng giáo có quyền vạn năng đối với đàn bà. Nhưng có một điều con không hiểu. Tại sao chúng lại đòi ngưng việc xây các nhà máy điện mới. Phải là một bọn điên khùng mới đòi hỏi như vậy. Nếu không điên thì chúng phải có một lý do thực tế và ích kỷ để buộc người ta phải làm theo ý của chúng.
Bố nói:
– Có thể chúng quan tâm tới một nhà máy điện đặc biệt nào đấy. Thí dụ như nhà máy ấy có thể làm ô nhiễm con sông đầy cá salmon của chúng, hay cái gì khác.
– Như vậy có nghĩa là ngưng xây cất mọi nhà máy điện chỉ là một cái cớ để che đậy nguyên nhân chính của chúng. Chúng sợ nếu nói rõ nhà máy nào chúng muốn không cho xây thì ta sẽ tìm ra chúng.
Hai cha con vào phòng làm việc. Judy bật máy điện toán di động của nàng, và bấm mã số vào văn khố của báo San Francisco Chronicle, dò tìm những bản ghi chép về các nhà máy điện trong ba năm qua.
Judy nói:
– Đây rồi. Một dự án về một nhà máy điện hạt nhân tại Mojave Desert, một đập thủy điện tại Sierra County.
Bố nói:
– Sierra County? Cái tên này nghe quen nhỉ. Hình như nó đã được nhắc đến nhiều vì một chuyện gì đó.
Judy bấm máy để tìm hiểu thêm về vấn đề này, rồi nói:
– Người ta dự định đắp một cái đập trên con sông Silver River. Hình như ở chỗ đó có một nhóm Vigilante phải không bố?
– Phải, bọn đó tên là Los Alamos.
– Chúng nó được vũ trang đến tận răng, và chúng không thừa nhận chính phủ Hoa-Kỳ. Chúng còn dùng cả câu ấy trong cuốn băng của chúng. Bố à, con nghĩ là chúng ta đã tìm ra chúng rồi.
– Bây giờ con tính làm gì?
Judy thở dài:
– Nếu Kincaid biết là con vẫn còn lo về vụ này thì nó tức nổ ruột. Nhưng bọn Los Alamos cần phải được điều tra. Con nghĩ là con phải đến gặp nó mới được.
Bố nhún vai:
– Con không có lựa chọn nào khác sao?
Judy không thể để dân chúng bị chết chỉ vì nàng sợ không dám thú nhận việc nàng đã làm. Nàng nói:
– Không có, bố ạ.
Rồi nàng lên xe lái vào thành phố. Marvin sẽ phải tổ chức một cuộc ruồng xét trụ sở của bọn Los Alamos. Có thể có nhiều nguy hiểm. Bọn Vigilante rất hung hăng. Cần phải rất thận trọng trong việc này. Sở rất sợ gây ra một vụ Waco nữa.
Judy đi thẳng vào văn phòng của Kincaid. Ông lạnh nhạt chào nàng rồi nói:
– Cô cần tôi giúp việc gì, cô Judy?
– Simon Sparrow đem bản phúc trình của hắn cho tôi xem bởi vì hắn chưa biết tôi đã ra ngoài vụ. Tôi có bảo hắn trình cho Marvin xem, nhưng hắn có nói cho tôi biết những gì hắn đã khám phá ra. Tôi đoán rằng Búa Thiên Lôi là một giáo phái đang bị đe dọa bởi một dự án xây một nhà máy điện.
Kincaid tỏ vẻ chán ngán:
– Tôi sẽ cho Marvin biết.
– Hiện nay ở California có nhiều dự án xây nhà máy điện. Tôi đã kiểm tra. Một trong số đó là ở Silver River Valley. Nơi đó có một bọn Vigilante tên là Los Alamos. Tôi nghĩ Los Alamos là bọn Búa Thiên Lôi, và ta phải hành quân xét trụ sở của chúng một phen.
– Cô thật nghĩ như thế?
– Có gì sai trái?
– Có chứ. Sai ở chỗ cô không còn dính dáng gì trong vụ này nữa. Cô có hiểu không? Cô đi về nhà đi, và để vụ này cho Marvin và tôi lo.
– Thưa ông…
– Chào cô Judy. Chúc cô cuối tuần vui vẻ.
Judy trố mắt nhìn Kincaid và nuốt lại những lời giận dữ nàng định nói. Sau một hồi lặng yên nàng bước ra khỏi phòng.
 
Priest đậu xe Cuda bên lề đường, trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng sớm. Hắn cầm tay Melanie và dắt nàng đi vào rừng. Sau mấy phút hai người ra khỏi rừng và đứng trên một vách đá cao, đưa mắt nhìn bao quát cả chiều rộng của khu thung lũng Silver River Valley. Priest nói:
– Chỗ này là nơi họ định xây đập.
Lúc bấy giờ trời còn tối, hai người không nhìn thấy con sông, nhưng cũng đủ sáng để họ thấy cái cần trục và những máy xúc đất khổng lồ ở xa đưới chân họ, im lìm như những con khủng long đang ngủ.
Priest không còn hy vọng gì được ông thống đốc điều đình nữa. Bữa nay là ngày thứ hai sau trận động đất ở Owens Valley, và vẫn không có một tiếng nói nào ở phía chính quyền. Phải có một trận động đất nữa mới được.
Priest nói với Melanie:
– Người ta sẽ làm một hồ nước dài 15 cây số. Từ chỗ này ngược lên đầu nguồn, mọi vật em trông thấy bây giờ sẽ bị chìm dưới nước.
Melanie nói:
– Chắc cũng có người muốn ngăn chặn việc xây đập chứ?
Priest gật đầu:
– Đã có một cuộc tranh cãi lớn. Có vài ông tai to mặt lớn đã mướn luật sư, và các nhóm tranh đấu môi trường cũng đứng về phe dân chúng địa phương. Nhưng chẳng ăn thua gì.
– Sao vậy?
– Thống Đốc Robson chống lưng cho cái đập, và giao vụ này cho thằng cha Al Honeymoon. Nó đã làm thế nào mà tình thế xoay ngược hẳn lại, và báo chí lại nói là dân cư ở đây chỉ biết ích lợi riêng cho mình, thí dụ như họ nói rằng dân ở đây muốn chặn việc cung cấp điện cho các nhà thương và trường học ở California. Vì thế nên công ty Coastal Electric mới có được giấy phép xây đập. Người nào cũng được đền bù thiệt hại, chỉ riêng bọn mình không được, vì mình không có quyền sở hữu đất. Rượu của mình không kém gì rượu Napa và Bordeaux, mà mình không được gì hết. Chỉ ở chỗ này anh mới được sống yên ổn mà thôi. Ta phải giữ tình trạng nơi này y nguyên như lúc Trời đã làm ra từ trước tới nay.
Priest cầm tay Melanie và dẫn nàng luồn qua cây cối trở lại xe.
Lái xe dọc theo con đường hẹp ngược lên thung lũng, Priest nói:
– Bữa nay em có đi San Francisco đem bé Dusty về không?
– Có. Em sẽ đi sau khi ăn sáng.
Priest nghe một tiếng ồn lạ. Hắn nhìn lên qua cửa sổ xe và thấy một máy bay trực thăng. Hắn ngừng xe và nhẩy ra. Melanie cũng xuống xe, nói:
– Họ muốn tìm chúng ta chăng?
– Có lẽ họ là cảnh sát. Mẹ kiếp!
– Họ đến đây làm gì?
– Có lẽ họ đến kiếm bọn Los Alamos. Những thằng khùng này được tất cả các cơ quan bảo vệ luật pháp của cả nước biết tới. Khi Star gọi John Truth, anh có bảo bà ấy nói ra cái biểu ngữ của chúng nó: “Chúng tôi không công nhận thẩm quyền của chính phủ Hoa-Kỳ”.
– Vậy chúng ta có được an toàn không?
– Không. Sau khi họ chẳng thu thập được gì nơi bọn Los Alamos, cảnh sát sẽ tìm đến các người khác ở trong thung lũng. Họ sẽ thấy đồn điền nho từ trên trực thăng. Và sẽ đến thăm chúng ta. Vậy chúng ta phải đi bảo người của ta đề phòng mới được.
Priest trở lại xe. Sau khi Melanie đã ngồi yên chỗ, hắn đạp lút cần ga. Hắn không biết người nào của FBI đã ra lệnh cuộc hành quân này. Hôm qua Kincaid và Hayes có biết gì đến chỗ này đâu. Chắc là phải có người nào khác đã xen vào vụ này.
Khi đến gần khu vực của bọn Los Alamos, Priest vặn kính cửa sổ xuống để nghe xem có tiếng súng nổ không. Không có. Hắn lượn xe theo một đường cong thì thấy cái cổng năm gióng chặn lối vào đã bị gẫy vụn. Hắn đoán là FBI đã cho xe bọc sắt của họ chạy bừa qua không thèm đỗ lại.
Priest chạy xe chậm chậm, như một người qua đường tò mò, cho đến lúc ra khỏi tầm nhìn của người khác, rồi hắn mới nhận ga chạy thẳng.
Khi Priest về tới làng, hắn nói cho Star biết việc FBI xét trụ sở của bọn Los Alamos. Hắn nói:
– Họ có thể xét nhà của những người khác cư ngụ ở trong thung lũng. Chúng ta phải giữ vững cái vỏ ngoài của chúng ta. Nếu chúng ta là các công nhân làm theo mùa, không có ích lợi lâu dài trong thung lũng, thì không có lý do gì khiến chúng ta phải lo sợ về cái đập nước.
Vào khoảng giữa buổi sáng, hai nhân viên FBI đi xuống đồi. Người trẻ tuổi có thân hình cao, tóc vàng. Người lớn tuổi hơn là một người Á-đông. Priest không thấy hai người này có mặt trong buổi họp báo.
Phần đông các người lớn đều đang phun nước pha ớt trên các cây nho để ngừa những con nai khỏi ăn mầm nho mới mọc. Trẻ con thì ở cả trong đền, học lớp chủ nhật do Star dậy.
Tinh thần căng thẳng, Priest đi qua sườn đồi tới cánh đồng nho. Dale tiếp đón các nhân viên công lực như đã được hoạch định trước. Priest đổ nước pha ớt vào đầy một thùng rồi bắt đầu phun, đi dần tới phía Dale để nghe cuộc nói chuyện.
Người Á-đông nói, giọng thân thiện:
– Chúng tôi là phái viên FBI đi quan sát thường lệ trong xóm làng. Tôi là Bill Ho, và đây là John Aldritch. Ông là người chỉ huy ở đây?
Dale nói:
– Tôi là thợ cả. Các ông cần gì?
Aldritch nói:
– Các ông có sống thường xuyên ở đây không?
– Hầu hết chúng tôi đều là thợ làm việc theo mùa. Hãng Napa Bottling cung cấp tiện nghi, bởi vì chỗ này xa tất cả mọi nơi.
Họ đưa mắt nhìn chòm nhà ở phía xa, bên kia cánh đồng nho:
– Chúng tôi có thể đi thăm nơi ở của bà con không?
Dale nhún vai:
– Mời các ông.
Rồi y tiếp tục làm việc. Hai phái viên đi quanh các lều, ngó vào trong các nhà. Họ xem xét cái máy ép nho, những cái vựa để nho lên men, những thùng nho của năm trước. Họ đi dọc theo giòng suối, và hình như muốn lội qua suối, nhưng rồi họ lại thôi, dường như sợ bị ướt giầy, vì họ quay trở lại.
Sau rốt họ trở về đồng nho, và Aldritch nói với Dale:
– Nói là tạm bợ, nhưng có mấy căn lều được trang hoàng khá dễ coi đấy chứ.
– Vâng. Vài người chúng tôi vẫn trở lại đây hàng năm. Và có một ít anh em sống ở đây cả năm.
Aldritch nói:
– Tôi muốn có một danh sách của các người ở đây hay làm việc ở đây.
Ho nói thêm:
– Chúng tôi cũng muốn có cả tuổi và địa chỉ vĩnh viễn của họ nữa.
Dale lúng túng:
– Cái này thật là khó. Chắc là các ông phải đi hỏi từng người một. Tôi có biết ngày sanh của ai đâu.
Priest không thể để cho các người này hỏi từng người ở đây. Họ sẽ bị bại lộ hết. Hắn bước tới:
– Tôi có thể giúp hai ông. Tôi đã lui tới chỗ này mấy năm nay rồi. Tôi biết mỗi người ở đây, và biết họ bao nhiêu tuổi.
Dale nói, giọng sảng khoái:
– Tốt. Anh nói đi.
Priest nói với hai người FBI:
– Mời hai ông vào trong nhà bếp. Chắc các ông không chê mấy ly cà phê.
Ho cười, nói:
– Không đâu.
Priest dẫn họ đi len lỏi theo những hàng cây nho tới nhà bếp. Hắn đặt một ấm nước lên bếp lửa. Hai người FBI ngồi vào cái bàn dài bằng gỗ thông. Họ mở quyển sổ của họ ra.
Priest nói:
– Người thợ cả tên là Dale Arnold, 42 tuổi.
– Địa chỉ vĩnh viễn?
– Hắn ở đây. Mọi người đều ở đây.
– Tôi nghĩ các ông là công nhân làm theo mùa?
– Đúng vậy. Hầu hết chúng tôi ra đi vào tháng Mười Một, khi đã gặt hái xong, nhưng chúng tôi không phải là loại người có hai cái nhà.
– Vậy địa chỉ vĩnh viễn của mọi người là….
– Xưởng rượu Silver River Valley, thành phố Silver, California.
Priest rót cà phê cho hai người kia, vừa làm vừa khai tên từng người trong làng. Hắn nói chậm chậm, cố ý kéo dài thời gian. Họ gấp quyển sổ lại khi Priest nói:
– Các ông uống thêm cà phê nữa nhá?
– Thôi, cảm ơn. Khu đất này thuộc quyền sở hữu của Napa Bottling Company phải không?
– Không. Công ty chỉ làm rượu nho thôi. Tôi nghĩ rằng đất là của chính phủ.
– Vậy thì tên ghi trên hợp đồng thuê đất phải là Napa Bottling.
Priest ngần ngừ một chút rồi nói:
– Tôi nghĩ rằng tên trên hợp đồng có thể là Stella Higgins. Bà này là người khởi xướng ra cái vườn nho này mấy năm trước đây.
Priest cho FBI biết tên thật của Star vì hắn cho rằng tên này sẽ chẳng có công dụng gì cho họ.
Họ viết tên ấy vào sổ rồi nói:
– Thôi, đủ rồi.
 
Chiều Chủ Nhật, Judy và Bố đi uống cà phê ở một tiệm quen của Bố, một quán bia mà phần đông khách hàng là cảnh sát. Có một máy tivi ở trên quầy. Đài đang nói tin tức. Khi Judy xem đoạn hình thâu cuộc hành quân cảnh sát tại trụ sở Los Alamos, nàng mỉm cười chua chát. Kincaid đã chửi nàng vì đã xen vào chuyện của y, rồi y lại áp dụng kế hoạch của nàng. Phát ngôn viên nói không có người nào bị bắt. Bố nói:
– Không thấy nói gì đến cả vật chứng đã thu lượm được. Bố không biết câu chuyện ra sao nữa.
Judy nói:
– Rồi ta sẽ biết.
Hai cha con rời quán bia và ngồi vào xe. Judy cầm ống điện thoại trong xe, gọi Simon Sparrow:
– Anh nghe được những gì về cuộc hành quân?
– Một con số không to tướng. Chúng nó không có máy điện thoại. Bởi vậy nên khó mà tưởng tượng được chúng đã có thể đưa một thông điệp vào Internet. Không một người nào ở đấy có bằng đại học. Và chúng tỏ vẻ sung sướng được tiền bồi thường của Coastal Electric về khu đất của chúng.
Judy thừa biết người nêu ý kiến mở cuộc hành quân cảnh sát là nàng, nhưng nàng cũng hỏi:
– Cái ý kiến mở cuộc hành quân là của ai vậy?
– Trong buổi họp sáng nay, Marvin nói ý kiến ấy là của hắn. Kincaid sẽ đi gặp Honeymoon ở Sacramento chiều mai. Chắc là hắn chẳng có gì lạ để báo cáo.
Judy mỉm cười chua chát. Nàng không có thiện cảm với Kincaid, nhưng nàng không thể vui được khi cuộc hành quân bị thất bại. Như vậy có nghĩa là Búa Thiên Lôi vẫn còn ở đâu đây, đang toan tính làm một trận động đất nữa.
– Cảm ơn anh,
Simon. Nàng vừa đặt ống nghe xuống thì chuông reo liền. Đó là điện thoại viên của sở FBI:
– Một giáo sư tên Quercus gọi cô. Ông nói cần gặp cô gấp, có tin quan trọng muốn cho cô hay.
Judi bấm số điện thoại tại nhà của Michael. Khi Michael trả lời, nàng nói:
– Judy Maddox đây. Anh có tin gì mới?
– Cô đến được không? Tôi cần phải cho cô xem.
– Anh còn Cap�n Crunch không?
– Có lẽ còn một ít.
– Tôi sẽ tới chỗ anh trong vòng 15 hay 20 phút nữa.
Judy gác máy, nói với Bố:
– Con phải đi gặp điạ chấn gia. Bố muốn về nhà bằng xe buýt, hay muốn cùng đi với con đến Berkeley?
– Tại sao không. Bố muốn gặp thằng địa chấn gia đẹp trai của con.
Judy vòng chữ U quay trở lại, và lái xe chạy về phía Bay Bridge.
– Cái gì làm cho bố nghĩ là anh ấy đẹp trai?
– Cái cách con nói chuyện với nó. Nó có vợ chưa?
– Ly thân.
Hai người tới Berkeley và đậu xe ở Euclid Street. Có một xe Subaru mầu cam đang đậu ở chỗ Judy vẫn đậu xe của nàng.
Khi Michael mở cửa phòng, Judy nói:
– Chào anh Michael. Đây là cha tôi, Bố Maddox.
Michael nói cộc lốc:
– Mời vào.
Thái độ của chàng hình như đã thay đổi trong thời gian ngắn ngủi Judy lái xe tới đây. Khi mọi người vào trong phòng khách thì Judy hiểu tại sao. Dusty nằm trên sofa, vẻ người khổ sở. Mắt nó ướt nhẹp, nước mũi chẩy tèm lem, hơi thở khò khè.
Judy qùy gối cạnh nó:
– Tội nghiệp Dusty! Chuyện gì đã xẩy ra cho nó?
Michael nói:
– Nó vừa mới lên cơn dị ứng. Tôi vừa mới cho nó uống thuốc.
– Thuốc có tác động lẹ không?
– Thuốc đã tác động rồi, nhưng nó có thể phải như thế này mấy ngày nữa.
Judy nói với Dusty:
– Cô muốn làm được cái gì cho cháu.
Một giọng đàn bà cất lên:
– Tôi sẽ chăm sóc nó. Cảm ơn cô.
Judy đứng dậy và quay lại. Người đàn bà vừa mới bước vào có một gương mặt trái soan, da hơi tái, và tóc đỏ dài quá vai.
Michael nói:
– Đây là Melanie, mẹ của Dusty. Melanie, cô này là bạn của anh, Judy Maddox.
Melanie lạnh nhạt gật đầu chào Judy. Judy nghĩ: “Vậy đây là vợ của Michael”.
Nàng nói:
– Đây là cha tôi, Bố Maddox.
Melanie không để ý đến những câu xã giao lặt vặt. Nàng nói:
– Tôi phải đi đây.
Nàng xách một túi hành lý có in hình con vịt Donald bên sườn. Nàng nhìn xuống Dusty đang nằm trên sofa, và nói:
– Ở trên núi không bao giờ nó bị như thế này.
Michael đau khổ nói:
– Anh phải làm gì bây giờ, không được giữ nó lại với anh à?
– Nếu nó không ngủ ở nhà lạ thì nó không bị thế này.
– Anh biết. Để anh bế con ra xe của em.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.