Anh ta có vẻ bối rối. Carl nói:
– Hayes có một mớ giấy tờ trong văn phòng của hắn. Khi tôi nói tôi muốn xem các giấy tờ đó thì hắn nói bỏ đi, khỏi coi.
– Không sao. Anh đi với tôi.
Hai người đi ra ngoài và nhẩy lên xe của Judy. Xe chạy 15 phút thì tới Toà Nhà Liên Bang. Họ dùng thang máy lên trụ sở FBI.
Judy mở cửa phòng Bài Trừ Trọng Tội và bước vào. Carl theo sau.
Marvin đang nói điện thoại, cười hôhố vì một câu khôi hài.
Judy nghiêng người tựa vào bàn giấy của y và nói to:
– Tại sao ông cho anh Carl Theobald leo cây vậy?
Marvin nói vào điện thoại:
– Joe, có người vào phá đám. Lát nữa tôi sẽ gọi lại anh.
Marvin gác máy, nói với Judy: – Cô mắc chứng gì vậy? Tại sao cô muốn xét giấy tờ của tôi, làm như là tôi đã làm điều gì lầm lẫn?
– Tôi nghĩ là ông đã nói chuyện với tên hung thủ. Giấy tờ ghi chép của ông đâu?
Marvin nắn lại cà vạt:
– Tất cả giấy tờ tôi có chỉ là mấy tờ ghi chép trong buổi họp báo. Những việc ghi chép vặt ấy không có vô máy điện toán.
– Cho tôi xem.
Marvin chỉ tay về phía một hộp hồ sơ để cạnh tường:
– Cô tự đến lấy mà xem đi. Cô sẽ chẳng kiếm được gì đâu.
Judy lật từng tờ một xem. Có mấy tờ fax của báo chí, một danh sách khách, một tờ mẫu ghi tên các nhà báo đến dự, và tờ báo mà họ đại diện. Judy đưa mắt từ trên xuống dưới. Nàng chợt nói:
– Cái gì đây? Florence Shoebury, Trung học Eisenhower?
Marvin nói:
– Đó là một con bé muốn đến làm phóng sự buổi họp báo cho tờ báo của trường nó. Có cha nó đi với nó.
– Có một tấm danh thiếp cài vào đây, Peter Shoebury, thuộc nhóm Watkins, Colefax và Brown. Ông có kiểm tra tên này không?
Marvin ngập ngừng, thấy rằng mình đã làm sai:
– Không.
Judy đưa bản danh sách và tấm danh thiếp cho Carl:
– Anh gọi tên này ngay lập tức.
Carl ngồi vào bàn giấy gần đấy và nhấc điện thoại. Mấy phút sau Carl gác máy và nói:
– Peter Shoebury không bao giờ bước chân vào đây, và nó không có con gái. Nhưng nó đã bị uy hiếp sáng Thú Bảy và bị cướp đi cái ví tiền.
Judy thấy nóng mặt, nói với Marvin:
– Tôi đoán là nó không giống cái hình hồi nó ở Texas, do cảnh sát vẽ.
Marvin nói:
– Không giống chút nào. Không râu, không mũ. Nó đeo kính dâm lớn, và tóc dài tết đuôi ngựa.
– Khổ người nó thế nào? Tóc đen, mắt đen, chừng 50 tuổi?
– Phải, phải, phải.
Judy thấy ghét Marvin quá:
– Nó là thằng Richard Granger, đúng không?
Marvin cúi mặt nhìn xuống sàn nhà:
– Có lẽ cô nói đúng.
– Xin ông vui lòng làm cho tôi một điện hình mới của nó, được không?
Marvin gật đầu, nhưng vẫn không nhìn thẳng vào Judy, nói:
– Tôi chưa thấy một thằng khủng bố nào lại dắt theo một bé gái.
Judy nói:
– Thằng này phải là một người tàn nhẫn, vô lương tâm. Con bé trông ra sao?
– Khoảng 12, 13 tuổi. Tóc và mắt đen. Mảnh mai, xinh đẹp.
– Vậy thì ông nên làm một điện hình của con bé này nữa. Nó có thật là con của thằng ấy không?
– Có lẽ đúng là như vậy. Nó không có vẻ gì là bị ép buộc, nếu đó là ý nghĩ của cô.
– Được rồi. Tôi hãy tạm cho họ là cha con, trong lúc này.
Judy quay lại Carl:
– Ta đi thôi.
Tối hôm đó Judy xem tờ phát hành sớm nhất của báo San Francisco Chronicle, thấy có đăng hai tấm hình mới: một điện hình của Florence Shoebury và một điện hình mới của Richard Granger cải trang làm Peter Shoebury. Nhìn kỹ hai tấm hình Judy phải ngạc nhiên vì Granger và Florence rất giống nhau. Nàng nghĩ thầm hai người này nhất định phải là cha con, không biết rồi con bé sẽ ra sao nếu mình bỏ cha nó vào tù. Nàng che miệng ngáp. Đã đến giờ về. Toán trực đêm đã tới rồi.
Trên đường về nhà, Judy sực nhớ ra là Michael chưa fax cho nàng danh sách các địa điểm có thể xẩy ra động đất. Nàng bấm số của Michael trên máy điện thoại gắn trên xe, nhưng không có ai trả lời. Nàng bấm lại lần nữa. Lần này đường dây mắc bận. Nàng gọi phòng điện thoại trung ương của trụ sở FBI, nhờ họ kiểm tra sự thể với Pacific Bell. Điện thoại viên gọi lại nàng và nói rằng máy điện thoại tại nhà Michael đã bị bỏ ra ngoài ổ. Vậy có nghĩa là Michael có ở nhà nhưng không nhấc máy. Judy thấy không được an tâm.
Nàng xem giờ nơi đồng hồ gắn trên bàn máy của xe. Chưa đến 11 giờ. Nàng quay xe trở lại và lái về hướng Berkeley.
Judy đến đường Euclid vào lúc 11g15. Trong căn nhà của Michael có đèn sáng. Nàng đậu xe sau một chiếc Subaru cũ mầu vàng, và bấm chuông. Không có trả lời.
Judy hoảng sợ. Michael có nhiều tin tức quan trọng. Hôm nay chàng đã đột nhiên xóa bỏ cuộc hẹn với nàng. Bây giờ chàng lại bất khả liên lạc với bên ngoài. Nàng không biết phải làm sao. Có lẽ nàng phải gọi cảnh sát đến trợ lực để đột nhập. Chàng có thể đang bị trói ké hay đã bị chết không chừng.
Một người đàn bà trẻ tuổi đến gần toà nhà. Bà ta dừng lại trước cửa và lục trong xách tay để tìm chìa khóa.
Judy cho bà ấy xem thẻ hành sự của nàng, rồi nói:
– Chào bà. Tôi là Judy Maddox, đặc phái viên FBI. Tôi cần phải vào tòa nhà này.
Bà ta tỏ vẻ sợ hãi:
– Có gì không ổn?
– Tôi hy vọng là không có gì. Bà hãy vào nhà của bà và đóng chặt cửa lại.
Bà ta vào một căn nhà ở tầng trệt, và Judy leo cầu thang lên lầu. Nàng gõ cửa căn nhà của Michael. Không ai ra mở cửa. Nàng gõ ba tiếng nữa thật mạnh. Nàng áp tai vào cửa và nghe một tiếng hét.
Đúng là có chuyện chẳng lành rồi. Judy lùi một bước, hết sức đạp mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa bật mở tung. Nàng rút súng và la lớn:
– FBI! Bỏ vũ khí xuống và giơ hai tay lên!
Cửa phòng ngủ của Michael không đóng. Nàng bước vào phòng, hai tay cầm súng đưa thẳng về phía trước. Quang cảnh trước mắt làm nàng sững sờ.
Michael ở trên giường đang làm tình với vợ hắn. Cả hai bối rối nhìn nàng.
Judy cuống quít:
– Trời! Xin lỗi, xin lỗi!
Tờ mờ sáng ngày Thứ Tư, Priest đứng bên con sông Silver River, xem cảnh bầu trời buổi sớm phản chiếu trong giòng nước. Lúc đó thật tĩnh mịch, nhưng tâm hồn Priest chẳng được bình an chút nào.
Hạn chót chỉ còn hai ngày nữa thôi, mà thống đốc Robson chẳng nói gì cả. Priest sốt ruột muốn phát điên.
Giữa lúc đó Star xuất hiện. Nàng trút bỏ áo ngủ mầu hồng xuống đất và bước vào giòng nước lạnh để rửa ráy. Sau khi nàng đã lau khô mình, Priest nói:
– Ta đi mua một tờ báo. Anh muốn biết thống đốc Robson có nói gì tối qua không.
Sau khi Star mặc xong quần áo, hai người lái xe đến trạm xăng. Priest đổ xăng đầy thùng xe Cuda. Star mua tờ San Francisco Chronicle.
Nàng trở lại, mặt trắng bệch:
– Anh xem này.
Nàng mở tờ báo cho Priest xem hình một thiếu nữ in nơi trang nhất. Đó là Flower.
Giật mình, Priest cầm lấy tờ báo. Bên cạnh tấm hình do máy điện toán vẽ của Flower là hình của chính hắn vào lúc hắn xuất hiện tại cuộc họp báo của FBI.
Flower không được cải trang. Hình ghép trên máy điện toán đâu có được chính xác. Nó không đúng là hình của Flower nhưng cũng hao hao giống. Một tháng trước đây thì không có gì đáng ngại. Không có ai ở ngoài làng biết nó. Nhưng nó đã lẻn đi Silver City chơi để gặp bọn con trai. Nó đã bị cảnh sát bắt giữ một đêm. Người ta có nhận ra nó không?
Priest chăm chăm nhìn vào tờ báo trong khi Star đọc bản viết. Hắn hỏi:
– Có lời tuyên bố nào của thống đốc không?
– Không. Theo bài viết này thì có rất nhiều người nói rằng ông ấy phải nhượng bộ và điều đình, nhưng ông ta không nói gì hết.
Khi Judy thức giấc, nàng không hiểu làm sao mà nàng thấy mỏi mệt lạ thường. Rồi quang cảnh quỷ quái đêm qua chợt hiện lại thật nhanh trong đầu nàng. Đêm qua là một nhầm lẫn. Michael cũng là một nhầm lẫn. Nàng phải xếp bỏ tất cả vào một xó. Việc thực sự quan trọng bây giờ là nàng chỉ còn có hai ngày để ngăn chặn một vụ động đất.
Trên đường đến sở làm nàng gọi Michael:
– Tôi xin lỗi anh về chuyện cái cửa của anh. Tôi không hiểu tại sao anh không trả lời điện thoại, làm tôi lo lắng, nghĩ là anh đã gặp việc chẳng lành.
– Cái gì bắt cô đến chỗ tôi trong đêm khuya như vậy?
Nghe giọng nói thì chàng tò mò chứ không có vẻ giận dữ.
– Anh không gởi cho tôi danh sách các nơi có thể động đất.
– A, phải rồi! Nó ở trên bàn tôi đây. Tôi quên khuấy đi mất. Tôi fax cho cô ngay bây giờ.
– Cảm ơn anh.
Nàng gác máy. Lúc Judy tới câu lạc bộ sĩ quan, cái fax của Michael đang chờ nàng ở đó. Nàng đưa cho Carl xem, và nói:
– Ta cần đặt các toán canh chừng tại mỗi địa điểm ghi ở đây.
Carl cau mày:
– Được. Nhưng cô xem đây. Các nơi này đều quá rộng lớn. Một toán không thể quan sát một khu vực rộng hai cây số vuông. Ta cần phải có rất nhiều toán. Nếu không thì chuyên gia địa chấn phải khoanh hẹp các địa điểm này lại.
– Tôi thử hỏi ông ta xem.
Judy nhấc điện thoại gọi lại Michael, nói mấy lời cảm ơn chàng đã gởi fax, và trình bầy vấn đề khúc mắc cho chàng hay.
Michael nói:
– Tôi cần phải đích thân đi thăm các địa điểm ấy. Những vết tích do các trận động đất trước để lại sẽ giúp tôi nhận định chính xác hơn.
– Anh có thể đi ngay hôm nay không? Tôi có thể đưa anh đi thăm hết mọi địa điểm bằng trực thăng của FBI.
Sau một phút im lặng Michael nói:
– Được.
– Anh có biết đường đến câu lạc bộ sĩ quan trong khu Presidio không?
– Biết.
– Lúc anh tới đây thì trực thăng đã sẵn sàng đợi anh rồi.
– Tốt.
Hôm đó là một ngày thật dài. Judy, Michael, và Carl Theobald đã bay gần hai ngàn cây số trên chiếc trực thăng. Vào lúc sập tối họ đã đặt được năm toán canh gác toàn thời gian tại năm địa điểm do Michael chỉ định.
Ba người trở về Presidio. Sau khi trực thăng hạ cánh, Judy có phận sự phải đến phúc trình ngay với một vị cấp cao của FBI đến từ Hoa Thịnh Đốn. Nhưng trước hết nàng phải tiễn Michael ra xe của chàng đã.
Nàng hỏi Michael:
– Có cách nào cho tôi biết được ngay khi có một vụ đất rung chuyển nào xẩy ra ở California không?
– Có. Tôi có thể nối một đường giây tiếp nhận địa chấn vào ngay máy điện toán của phòng chỉ huy của cô nội ngày mai.
– Hay quá.
Judy nhìn thẳng mặt Michael nói:
– Anh Michael. Anh cho tôi cảm tưởng là anh đã thích tôi. Tại sao anh còn ngủ với vợ anh?
– Có lẽ tôi phải có lời giải thích với cô.
– Đúng vậy.
– Cho tới ngày hôm qua, tôi đã tưởng rằng tất cả đã dứt khoát rồi. Nhưng đêm qua cô ta đến nhắc lại mọi việc tốt trong cuộc tình của chúng tôi. Cô ta tỏ vẻ còn yêu tôi nhiều lắm, và muốn hàn gắn lại những gì đã đổ vỡ. Cô ta đã làm tôi quên hết giận hờn nên tôi nghĩ rằng chúng tôi nên hoà nhau vì lợi ích của Dusty.
– Tôi hài lòng vì anh đã nói với tôi như vậy. Chúc anh ngủ ngon.
Nói rồi Judy quay đi. Michael nói:
– Chúc cô ngủ ngon. Cô có giận tôi không?
Nàng quay đầu lại, nói qua vai:
– Không, không còn giận nữa.
Priest tính là Melanie sẽ trở về làng vào khoảng giữa buổi chiều. Hắn thật lo âu khi trời tối rồi mà nàng vẫn chưa về. Cái gì đã xẩy ra cho nàng? Nàng đã quyết định quay về với chồng? Nàng có thú thật mọi điều với chồng nàng không?
Priest cầm đèn bão đứng chờ ở bãi đậu xe. Sau rốt hắn thấy ánh đèn của chiếc Subaru tiến tới gần qua các thân cây.
Melanie xuống xe,và đóng mạnh cửa xe. Nàng nói với Priest:
– Tôi ghét anh quá. Tôi ghét anh vì anh đã bắt tôi làm chuyện này. Tôi có cảm tưởng như tôi là một con điếm.
Priest lặng yên một lúc, rồi hắn nói:
– Một con điếm làm việc vì tiền. Em làm vậy để cứu đứa con của em. Anh biết rằng em nghĩ em đã làm một việc xấu, nhưng em không phải là người xấu.
Hắn quàng hai tay quanh người nàng và ôm chặt nàng. Dần dần nàng lắng dịu.
Melanie nói:
– Anh đã nói đúng về bản danh sách. Cái con nhỏ FBI đã nhờ Michael tìm ra các địa điểm có thể gây động đất. Michael vừa làm xong thì em đến.
– Sau đó thì sao?
– Em nấu bữa ăn tối cho hắn. Sau đó, khi chuông điện thoại kêu, em bảo hắn đừng trả lời, rồi em bỏ điện thoại ra khỏi ổ. Thế mà con nhỏ ấy vẫn đến, và khi Michael không ra mở cửa, nó đạp cửa vào. Mẹ kiếp, không biết nó có bị choáng váng không. Nó đã bị một mẻ lúng túng gần chết.
– Michael có đưa cho nó tờ danh sách không?
– Lúc đó thì không. Nhưng sáng nay nó gọi Michael, và y đã fax tờ đó cho nó rồi.
– Thế em có lấy được tờ đó không?
– Lúc Michael đang tắm, em đã dùng máy điện toán của y để in một bản.
Melanie thò tay vào túi sau, lôi ra một tờ giấy gấp tư, và đưa cho Priest:
– Họ đang rình mình tại mỗi địa điểm để tìm bắt một địa-chấn-động-xa.
– Bây giờ em nghe kỹ đây. Em có thể xem các dữ kiện trong tờ này và tìm ra được 5 địa điểm tốt nhất không?
– Được.
– Ta có thể làm một vụ động đất tại một trong 5 chỗ đó không?
– Không chắc lắm, nhưng có nhiều triển vọng.
– Vậy thì chúng ta phải hành động. Ngày mai chúng ta sẽ đi xem các nơi ấy.
7 Lúc 5 giờ sáng, người gác dan tại cổng vào doanh trại của bọn Los Alamos mới dậy, còn đang ngồi ngáp vặt. Hắn chợt tỉnh hẳn khi trông thấy Melanie và Priest đậu xe bên ngoài cổng.
Priest xuống xe, đi vào cổng, nói:
– Khỏe không, anh bạn?
– Ông là ai? Ông muốn gì?
Priest đấm mạnh thẳng vào mặt người gác cổng, rồi khua chân đá vào hai cẳng dưới của y. Y ngã ngửa xuống đất, cây súng trường vượt tay y bay lên không. Priest bồi thêm mấy đá vào cạnh sườn y. Y đau quá, cong người lại như con tôm, khóc không ra tiếng.
Priest cúi xuống giật lấy khẩu súng lục dắt trong giây lưng của người gác dan. Đó là mục đích của Priest khi hắn đến đây. Bây giờ hắn đã có vũ khí.
Priest loại bỏ địa điểm thứ nhất mà Melanie đã dẫn hắn đến.
Đó là một thành phố nhỏ cạnh biển, cách San Francisco 75 cây số về phía bắc. Địa điểm này không ở gần xa lộ nên khó có đường rút chạy.
Hắn nói:
– Ta tìm một chỗ khác.
Melanie đưa hắn đi về phía nam đường I-280. Nàng nói:
– Ngay tại chỗ đường nứt San Andreas cắt ngang xa lộ 101 có một thành phố nhỏ tên là Felicitas.
Họ lái xe 20 phút. Con đường ra khỏi xa lộ để vào Felicitas dẫn đến một khoảnh đất cao trông xuống thành phố. Priest ngừng và xuống xe. Felicitas trải ra trước mắt hắn như một bức tranh. Đường phố chính chạy từ trái sang phải, hai bên đường có hai dẫy nhà vách ván làm cửa hàng hay văn phòng. Có một nhà thờ nhỏ bằng gỗ với một tháp chuông. Ở hai đầu thành phố con đường trở thành đường quê và lẩn vào trong cánh đồng. Ở xa xa có một đường rầy xe lửa. Phía sau Priest xa lộ chạy theo một cái cầu bắc ngang khe núi trên những nhịp cầu cao bằng bê-tông.
Sáu ống lớn mầu xanh trải dài từ trên đồi xuống dưới đồi. Priest hỏi:
– Cái gì vậy?
Melanie suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Có lẽ là những ống dẫn dầu.
Priest thở một hơi hài lòng:
– Chỗ này thật tuyệt.
Sau trận động đất Priest cần phải giấu cái chấn-động-xa. Càng ngày càng thấy khó lái nó chạy trên đường, nên hắn cần phải giấu nó ở một nơi mà từ đó hắn có thể, nếu cần, làm một trận động đất thứ ba mà không phải di chuyển xa.
Hai người chạy xe vào San Francisco. Melanie chỉ đường cho Priest lái xe đến đường số 3, một khu kỹ nghệ hết thời, có nhiều nhà máy tàng tu và kho hàng bỏ hoang.
Priest nói:
– Tốt quá. Khu này chỉ cách Felicitas có nửa giờ lái xe, và không ai để ý nhiều đến nơi này.
Bảng cho thuê được treo ở một vài tòa nhà. Melanie đóng vai thơ ký của Priest, gọi số điện thoại ghi trên một bảng, và hỏi họ có kho hàng nào cho thuê không.
Một tiếng đồng hồ sau, có một người trẻ tuổi chạy xe đến và dẫn hai người đi xem một kho hàng đổ nát. Trên cửa vào kho hàng có một tấm bảng vỡ còn lủng lẳng ở trên không. Melanie đọc to chữ ghi trên bảng đó: “Perpetua Diaries”. Có dư chỗ trống để đậu chiếc chấn-động-xa. Nơi đó còn có một phòng tắm còn xài được, và một văn phòng nhỏ với một bếp điện và một tivi cũ, lớn, hiệu Zenith, của người thuê trước để lại.
Priest trả trước cho ông nọ bốn tuần thuê nhà. Ông ta trao chìa khóa cho Melanie, bắt tay hai người, rồi rút lui thật lẹ.
Priest và Melanie lái xe trở về Silver River Valley.
Tối Thứ Năm
Judy Maddox đến trực ở câu lạc bộ sĩ quan lúc 10 giờ đêm. Bộ chỉ huy lúc bấy giờ thật im lặng, nhưng không khí thì căng thẳng.
Trong phòng khiêu vũ cũ lúc đó có hơn 100 người. Chỉ huy trưởng là Stuart Cleever, một nhân viên cao cấp đến từ Washington. Mặc dù có lệnh của Honeymoon, FBI không bao giờ để một phái viên cấp thấp phụ trách một vụ lớn cỡ vụ này. Chức của Judy là “Hành Quân Điều Tra Phối Trí Viên”. Chức vụ này cho nàng mọi quyền kiểm soát. Cạnh nàng có Charlie Marsh, trưởng toán đặc công. Giữa khu lãnh đạo và bàn giấy của tóan điều tra là bàn của Michael Quercus và một địa-chấn-gia trẻ tuổi khác phụ tá cho y. Hai người đang ngồi chăm chú trước màn hình để canh chừng mọi dấu hiệu của hoạt động địa chấn.
Chuông điện thoại trên bàn Judy reo vang. Nàng nhấc ống lên nghe:
– Maddox đây.
Điện thoại viên nói:
– Richard Granger muốn nói chuyện với cô.
– Dò đường giây ngay.
Nàng vẫy tay ra hiệu cho Cleever và Marsh để họ cùng nghe.
– Đây, Judy Maddox.
Một giọng đàn ông nói:
– Phái viên Maddox, cô giỏi lắm. Nhưng cô có đủ giỏi để thuyết phục ông thống đốc để ông ta biết điều hơn được không?
Giọng hắn có vẻ chua-chát, tức giận. Judy tưởng tượng ra một người đàn ông khoảng 50 tuổi đang bị chới với vì đời sống của hắn đang bị lung lay, lòng hắn chất đầy oán hận.
Nàng nói:
– Ông có phải là Richard Granger?
– Cô đã biết tôi là ai rồi mà. Tại sao người ta lại buộc tôi phải làm một trận động đất nữa?
– Buộc ông? Có phải ông đang muốn tự dối ông khi ông đổ lỗi cho người khác?
Câu này hình như đã làm hắn thêm tức giận. Hắn nói:
– Tôi đâu có dùng điện mỗi năm nhiều hơn đâu. Thực sự thì tôi không dùng điện.
– Ông không dùng điện? Vậy thì cái gì làm cho máy điện thoại của ông làm việc? Hơi nước chắc?
– Đừng có chọc giận tôi, cô Judy. Cô mới là người đang gặp rắc rối đấy.
Cạnh nàng, Charlie viết chữ lớn trên tập giấy tạp ghi của y: “Điện thoại công cộng, Oakland – I-980 & I-580 Texaco”.
Judy dịu giọng:
– Ông Granger, ông và tôi đều gặp rắc rối.
Granger nói:
– Giọng nói của cô hơi khác lúc nãy. Cái gì đã xẩy ra vậy?
Judy cần phải kéo dài cuộc nói chuyện để giữ Granger ở máy điện thoại. Nàng nói:
– Tôi chợt thấy rằng sẽ có một đại họa xẩy ra nếu ông và tôi không đạt được một thỏa hiệp.
– Cô đã dò được đường giây điện thoại của tôi rồi hả? Có phải cô đang muốn giữ tôi ở máy nói để toán đặc công của cô đến chộp tôi hả? Đừng có hòng! Tôi có 150 cách ra khỏi nơi đây.
– Nhưng ông chỉ có một cách để ra khỏi thế kẹt của ông hiện nay.
– Bây giờ đã quá nửa đêm rồi. Thì giờ của cô không còn nữa. Tôi sắp sửa làm một vụ động đất nữa, và cô không có cách nào để ngăn chặn tôi được.
Priest gác máy. Judy đặt mạnh ống nghe xuống:
– Anh Charlie, ta phải đi ngay.
Nàng giật tấm hình của Granger trên bảng và chạy ra ngoài. Máy bay trực thăng đã chờ sẵn trên bãi, cánh quạt đang quay tít. Nàng nhẩy vào trong trực thăng. Charlie theo liền sau.
Trong lúc trực thăng đang bay lên, Charlie nói:
– Tôi đã ra lệnh đóng hết các xa lộ chính trên một đường bán kính 40 cây số.
– Còn những đường khác thì sao?
– Nếu nó chạy ra khỏi xa lộ thì coi như ta không bắt được nó. Chỗ này là một mạng lưới đường xá đông xe cộ nhất California. Cô không thể phong tỏa hết mạng lưới này nếu cô không có toàn thể bộ binh của cả nước Mỹ.
Trên xa lộ I-80 Priest nghe tiếng phạch-phạch của một chiếc trực thăng ngay trên đầu hắn.
Priest nói:
– Chúng nó đã đi lùng bắt ta rồi sao?
Melanie nói:
– Chúng có thể dò đường giây điện thoại của ta tức thì. Mình có thể ra khỏi xa lộ được không?
– Có nhiều đường, nhưng toàn là đường chạy ngược hướng cả. Không có đường nào dẫn về nhà để cho mình lấy cái chấn-động-xa.
Priest chạy xe đến gần quầy thâu tiền qua cầu Carquinez, từ từ lấy tiền kên trong túi quần ra. Một cảnh sát xa lộ đang đứng ở trong quầy, sau lưng thâu ngân viên, nhìn chăm chăm vào Priest, nhưng không bật đèn xanh. Viên cảnh sát, có mặc áo chống đạn, bước ra, nói:
– Chào ông. Ông cho xe đậu bên lề phải.
Priest làm theo lời viên cảnh sát.
Một người cảnh sát khác, cũng có áo chống đạn, bước ra từ trong một xe tuần tra xa lộ.
Priest mở hộc đựng tất tay, lấy khẩu súng lục hắn mới cướp được hồi sáng nay, rồi từ từ bước ra khỏi xe.
° ° °
Judy chỉ mất vài phút là đã tới trạm xăng, nơi phát xuất cuộc gọi điện thoại của Priest. Cảnh sát đã hành động chớp nhoáng. Trên bãi đậu xe bốn chiếc tuần xa đã đậu tại bốn góc, đầu xe quay vào trong, đèn xanh lập lòe, đèn trước chiếu sáng trưng khoảng giữa bãi. Trực thăng xuống đậu ngay chỗ này.
Judy nhẩy ra. Một viên đội cảnh sát tiếp đón nàng. Judy nói:
– Ông đưa tôi vào chỗ máy điện thoại.
Viên cảnh sát dẫn nàng vào trong. Máy điện thoại ở trong một góc, gần nhà vệ sinh. Sau quầy là hai viên thư ký.
Judy hỏi người cảnh sát:
– Còn nhân chứng nào nữa không?
– Không. Có thể có mấy người khách hàng ở đây lúc đó, nhưng họ đã đi cả từ lâu rồi.
Charlie Marsh bước vội tới, điện thoại cầm tay áp vào tai. Anh nói với Judy:
– Granger đã được trông thấy. Hai anh tuần tra đã chặn nó tại chòi thâu tiền qua cầu Carquinez.
Judy hỏi:
– Có bắt được nó không?
Charlie nói:
– Không. Nó đã bắn vào đầu hai anh và chạy thoát.
– Mình có ghi được hiệu xe của nó không?
– Không. Người thâu tiền ở chòi đó không để ý.
– Còn hai anh cảnh sát tuần tra thì sao?
– Chết cả.
Viên đội cảnh sát tái mặt, thì thào: “Xin Chúa tiếp nhận linh hồn của họ”.
Judy quay đi, đau đớn. Nàng nói: “Và xin Chúa giúp chúng con bắt được thằng Richard Granger trước khi nó giết người nào khác nữa”.
Oaktree thật là giỏi trong công tác biến cái chấn-động-xa thành ra một cái diễu xa. Những tấm bửng sơn mầu đỏ và vàng tươi của xe Miệng Rồng đã che kín tấm thép nặng, cái máy rung to lớn, và cả một đám phức tạp thùng và van điều khiển máy. Trong lúc Priest lái nó chạy xuyên tiểu bang tới bờ biển bữa chiều ngày Thứ Sáu, mọi người lớn và trẻ con trong các xe khác đều cười và vui vẻ vẫy chào Priest.
Priest lái xe tải, Melanie ngồi cạnh. Star và Oaktree theo sau trong chiếc Cuda. Họ tới Felicitas vào lúc chập tối. Cửa sổ địa chấn sẽ mở sau bẩy giờ tối.
Priest ra khỏi xa lộ và ngừng xe. Ở chỗ cuối đường vòng dẫn ra ngoài xa lộ có một trạm xăng và một tiệm ăn tên Big Ribs, trong đó có nhiều gia đình đang ngồi ăn bữa tối. Priest còn trông thấy rõ một ngôi trường học và một nhà thờ nhỏ bằng gỗ trên con đường dẫn vào thành phố.
Melanie nói:
– Vết nứt chạy qua đúng đường Main Street.
Priest nói:
– Trong 20 phút nữa, một đại họa sẽ giáng xuống California.
Melanie, trong lòng hồi hộp, nói:
– Đúng!
Priest ngoẹo xe vào đường Main Street. Có một tiệm cà phê đứng ngay trên vết nứt. Priest lái xe vào sân, đậu ngay trước cửa tiệm. Hắn nói với Melanie:
– Em vào mua mấy cái bánh donut. Cứ tỉnh bơ như người bình thường vậy.
Melanie xuống xe và ung dung băng qua sân đi vào tiệm. Priest đẩy cần thắng tay và bật nút điện hạ cái búa lớn của máy rung địa chấn xuống đất. Hắn soát lại các đồng hồ của toàn thể cơ quan. Mọi nơi đều hiện mầu xanh.
Melanie trở lại. Priest nói:
– Em đến chỗ xe Cuda với các người kia. Anh sẽ đến sau.
Priest sửa soạn để cho máy rung làm việc khi nhận được lệnh của máy viễn khiển, rồi nhẩy ra khỏi xe, để máy tiếp tục chạy.
Priest ngồi vào xe Cuda, cạnh tài xế. Hắn nói với Oaktree:
– Anh lái xe trở lại cái đồi mà ta vừa ngưng ở đó.
Priest bật máy radio và điều chỉnh máy vào đài của John Truth. “Bẩy giờ hai mươi lăm phút, chiều Thứ Sáu, mà lời đe dọa động đất của Búa Thiên Lôi chưa thấy thực hiện”.
Priest quay lại Melanie:
– Em lấy điện thoại cầm tay của em gọi hắn đi.
Melanie bấm số:
– Máy nó đang bận.
– Thử nữa đi.
Oaktree ngừng xe trên ngọn đồi, và họ đang nhìn xuống thành phố.
Melanie nói:
– Gọi được rồi. Hello?…. Tôi muốn nói với John Truth. Tôi nói về vụ động đất. Tôi là…. Melinda… Ô! Nó rời máy rồi. Súyt nữa thì tôi cho nó biết tên tôi!
Priest nói:
– Đưa điện thoại cho anh.
Melanie trao máy cho Priest. Hắn áp máy vào tai. Bất chợt hắn nghe thấy tiếng nói: “Hello, Melinda. Cô đang ở trên chương trình trực tiếp truyền thanh John Truth”.
Priest nói:
– Đây không phải là Melinda. Đây là Búa Thiên Lôi.
Truth nói:
– Này ông bạn. Xin bạn đừng giỡn, bởi vì nếu bạn giỡn thì bạn sẽ vào tù đấy.
Priest nói:
– Tôi nghĩ là tôi sẽ vào tù nếu tôi không giỡn.
– Ông gọi tôi làm gì?
– Chúng tôi muốn mọi người biết là lần này chính chúng tôi đã gây nên động đất.
– Bao giờ thì nó xẩy ra?
– Trong vòng mấy phút nữa thôi.
– Tại đâu?
– Tôi chỉ có thể nói là nó sẽ xẩy ra trên đường 101.
Raja Khan nhẩy lên một cái bàn trong khu lãnh đạo:
– Mọi người yên lặng và nghe đây!
Tất cả đều nghe rõ âm tiết sợ hãi trong giọng nói của y, và cả phòng im phăng-phắc.
– Một thằng tự nhận là Búa Thiên Lôi đang ở trên đài trực tiếp John Truth.
Cả phòng lại ồn ào ngay. Judy đứng lên:
– Yên lặng, các bạn. Anh Raja, nó nói gì?
Carl, đang ngồi, tai áp vào loa của một máy radio xách tay, nói:
– Nó nói rằng trận động đất sắp tới sẽ xẩy ra trên đường 101 trong vòng vài phút nữa.
– Anh Carl vặn to âm thanh lên.
Judy xoay người:
– Michael, chỗ đó có đúng vào chỗ nào chúng ta đã đặt trạm kiểm soát không?
– Không đúng vào trạm nào hết.
– Vậy thì anh tính xem bọn chúng đang ở đâu?
Một tiếng chuông báo động reo trong máy điện toán của Michael.
Michael nói:
– Nó vừa mới hiện lên màn hình. Không phải một rung động tự nhiên, mà là do một địa chấn động cơ.
– Nó ở chỗ nào? Anh cho tôi địa điểm đi.
– Đây, toạ độ đây.
Judy và Charlie Marsh đến cạnh bản đồ lớn trên tường. Judy nói:
– Đây rồi. Trên đường 101, phía nam San Francisco. Một thành phố tên là Felicitas. Anh Charlie, lấy trực thăng cùng đi với tôi.
Michael nói:
– Cái chấn-động-cơ có thể ở cách xa tọa độ trong một đường bán kính một cây số rưỡi.
– Làm sao mà có thể thu hẹp địa điểm ấy lại?
– Nếu tôi xem địa hình, tôi có thể chỉ đúng đường nứt.
– Vậy thì mời anh cùng lên trực thăng. Anh lấy một áo chống đạn đem theo.
Priest hốt hoảng nói:
– Làm sao mà chẳng có hiệu quả gì thế này?
Melanie nói:
– Chúng ta phải di chuyển xe tải và thử lại. Em nghĩ là ở chỗ này đất mềm quá. Thành phố ở gần sông. Đất mềm, ướt, đã triệt tiêu các chấn động.
Priest quay nhìn nàng, giận dữ:
– Hôm qua em nói rằng động đất gây nhiều thiệt hại ở chỗ đất ướt.
– Em đã nói là các nhà ở trên đất ướt có thể bị tổn hại nhiều, còn như muốn truyền những làn sóng để phá đường nứt thì đá cứng là tốt hơn.
Priest hỏi:
– Bây giờ phải thử ở chỗ nào?
Melanie chỉ tay lên đồi:
– Chỗ chúng ta ra khỏi xa lộ không ở ngay trên đường nứt, nhưng đất ở đấy phải là đá cứng.
Priest hét:
– Oaktree! Lên xe, trở lại xe tải!
Oaktree phóng xe xuống đồi và ngừng trước tiệm cà phê. Priest nhẩy ra, leo lên xe tải, và lái xe đi, đạp lút cần ga.
Khi xe tải lên được lưng chừng đồi, một xe cảnh sát chạy ra khỏi xa lộ và phóng nhanh qua bọn Priest, tiến về phía Felicitas.
Sau rốt xe tải tới chỗ mà trước đó Priest đã đứng nhìn bao quát thành phố. Hắn ngừng xe ở bên đường, đối diện với tiệm ăn Big Ribs, và hạ tấm bửng của chấn-động-cơ xuống.
Priest thấy chiếc xe cảnh sát lúc nãy lại chạy ngược lên đồi. Ngước mắt nhìn lên trời hắn thấy một trực thăng ở đàng xa. Hắn không có thời giờ để ra khỏi xe tải và dùng máy viễn khiển nữa. Hắn phải ngồi tại chỗ để điều khiển cho máy làm việc.
Priest đưa tay nắm lấy cần điều khiển, do-dự một chút, rồi kéo mạnh.
Từ trên trực thăng nhìn xuống, Felicitas giống như một thành phố đang ngủ. Judy có thể trông thấy đường Main Street. Một người đàn bà đội mũ rơm đang đứng yên trên vỉa hè; hai bé trai, mỗi đứa một xe đạp, đẩy xe ngay giữa đường cái. Có xe cộ chạy trên xa lộ. Đường này chạy ra ngoài thành phố trên một cái cầu cao có nhiều nhịp. Hai xe cảnh sát đang chạy thật nhanh tới thành phố, có lẽ là do theo lời gọi cấp bách của Judy. Nhưng trong thành phố thì không có người qua lại.
Judy chú ý tìm cái chấn-động-xa. Nó ở đâu? Trực thăng bay thật thấp, nhưng nàng không trông thấy xe nào đủ lớn để chứa cái chấn-động-cơ được.
Judy nói với Michael qua máy nói đeo trên đầu:
– Đường nứt ở chỗ nào?
– Nó băng qua đường xe lửa, con sông, xa lộ, và ống dẫn dầu. Trời ơi, lần này sẽ có tổn hại lớn.
– Nhưng cái chấn-động-xa đâu?
– Cái gì trên sườn đồi kia?
Judy nhìn theo ngón tay của Michael. Bên trên thành phố, sát cạnh xa lộ, nàng trông thấy một tiệm ăn. Trên đường cái, gần tiệm ăn, có một xe hơi nhỏ mầu xám, một xe cảnh sát đậu sau xe ấy, và một xe tải lớn chung quanh sơn hình những con rồng mầu đỏ và vàng.
Judy nói:
– Đó là cái xe cộ hoa mà.
– Hay là một xe ngụy trang. Cái này có đúng kích thước của một chấn-động-xa.
– Thôi chết, đúng rồi! Anh Charlie, anh có nghe không?
Charlie Marsh đang ngồi cạnh phi công. Sáu nhân viên của tổ đặc công ngồi sau Judy và Michael, mỗi người thủ một súng tiểu liên MP-5.
Charlie nói:
– Tôi vẫn nghe. Phi công, anh có thể đậu trực thăng gần chiếc diễu xa trên đồi kia được không?
Phi công trả lời:
– Không an toàn. Tôi sẽ đậu trên bãi đậu xe của tiệm ăn kia.
– Xuống đi.
Trực thăng từ từ hạ xuống. Một người nhẩy ra khỏi xe tải. Judy thấy người này cao, mảnh khảnh, với bộ tóc đen dài. Nàng có cảm giác người này đúng là Granger.
Trực thăng chạm mặt đất đúng lúc có một tiếng nổ báo hiệu tận thế.
Tiếng nổ ấy là một tiếng sét. Nó át cả tiếng gầm của cái chấn-động-cơ và tiếng rào-rào của động cơ trực thăng.
Mặt đất như nổi lên và đánh vào người Priest thật mạnh. Hắn đang theo dõi chiếc trực thăng, nghĩ rằng mưu đồ của hắn đã bị thất bại. Liền sau đó hắn bị quật xuống đất. Hắn lăn đi mấy vòng, nghẹt thở, thấy cây cối chung quanh hắn uốn cong và chao-đảo như có một trận cuồng phong đang thổi qua.
Lúc đó hắn nhận ra là hắn đã thành công. Hắn đã làm được một trận động đất. Và hắn đang ở trung tâm trận động đất này.
Một tiếng như tiếng sấm rền vang trên không trung. Priest cố gượng nhỏm dậy, qùy trên hai đầu gối, nhưng mặt đất cứ chuyển động, và trong khi hắn cố đứng lên thì hắn lại bị quật ngã xuống. Priest lăn mình và cố ngồi dậy.
Ngôi nhà thờ nhỏ ở chỗ cuối đường đổ nghiêng. Các bức tường xập xuống trong một đám bụi mù, để lại cái bàn giảng cao bằng gỗ xến dầy đứng ngạo nghễ giữa đống đồ vật đổ nát.
Các cửa sổ của tiệm Big Ribs bị vỡ hết. Nhửng trẻ nhỏ khiếp sợ kêu khóc như ri. Một góc của mái nhà xệ xuống, rồi rơi đè lên một đám năm sáu thanh niên. Các thực khách khác xô nhau chạy ra ngoài để tránh phần lớn mái nhà còn lại đang kêu răng-rắc sắp rơi xuống đầu họ.
Bầu không khí tràn ngập mùi dầu xăng. Đất rung chuyển đã làm nứt các hầm chứa xăng của trạm xăng gần đấy. Priest trông thấy một làn sóng dầu xăng trào lên mặt đất. Một xe máy dầu chạy loạng-quạng trên đường cái. Người cưỡi xe máy ngã xuống đất, chiếc xe trôi từ ngoài đường vào sân trạm xăng. Sự cọ xát này làm lửa tóe lên và phụt bắt vào đám dầu xăng, rồi chỉ một giây sau là cả khu đó bị ngập trong biển lửa.
Sau khi chạm mặt đất, trực thăng lại bốc lên ngay. Judy thấy mặt đất lóng-lánh như một tảng thạch. Nàng trông thấy chiếc xe máy dầu đâm vào trạm xăng, và nàng bật kêu than khi thấy đám dầu xăng bốc cháy và biển lửa bao trùm người cưỡi xe máy dầu té nằm trên mặt đất.
Trong khi bốc lên, trực thăng lượn vòng ra phía khác, và quang cảnh trước mắt Judy đổi khác. Bây giờ nàng trông thấy một đoàn xe lửa chở hàng đang chạy qua cánh đồng. Đoàn xe chạy ra khỏi đường rầy, và các toa chất đầy hàng lật đổ dồn lên phía sau đầu máy.
Judy còn trông thấy thành phố. Dân chúng hốt hoảng chạy ra đường, mồm há to kêu gào, cố sức chạy mau ra khỏi những ngôi nhà đang sụp đổ. Con đường chính của thành phố, Main Street, hình như vừa bị cháy vừa bị lụt. Một ngọn lửa nháng như chớp, rồi một ngọn nữa. Judy đoán là các đường giây điện cao thế đang bị đứt.
Khi trực thăng bay lên cao hơn, xa lộ hiện ra trước mắt. Bất giác Judy đưa bàn tay lên bưng lấy miệng khi nàng thấy quang cảnh khủng khiếp của chiếc cầu cao bị bẻ oằn và gẫy rời. Một khúc xa lộ chìa ra lưng chừng trời như chiếc lưỡi của một con quái vật. Ít nhất cũng phải có mười chiếc xe hơi dồn cục ở mỗi bên của con đường bị đứt quãng. Một chiếc xe lớn đang theo đà chạy tới vực thẳm, rơi vào quãng không, rồi rớt xuống mái của một ngôi nhà ở phía dưới, và bốc cháy.
Một ngọn gió bất chợt thổi tan đám mây khói bao trùm trạm xăng, và Judy trông thấy người đàn ông mà nàng cho là Richard Granger. Hắn đang cố gắng đứng lên và chạy đến chỗ một chiếc xe nhỏ mầu nâu, miệng la, tay múa may chỉ chỏ với mấy người ngồi trong xe.
Xe cảnh sát ở ngay sau chiếc xe nhỏ đó, nhưng mấy người cảnh sát dường như không được lanh lẹ lắm. Judy thấy rõ là bọn khủng bố sắp sửa chạy thoát.
Judy kêu:
– Phi công. Xuống ngay. Bọn kia đã gây ra chuyện này, và chúng đang tẩu thoát!
Trực thăng sà xuống.
Priest la to với Oaktree qua cửa sổ mở của xe Cuda:
– Đi ngay!
Hắn chỏ tay về một phía:
– Con đường cũ này dẫn đến San Francisco.
Priest trông thấy hai người cảnh sát địa phương bước ra khỏi xe cảnh sát. Hắn nhẩy vào xe tải, nâng tấm bửng lên, và lái xe chạy đi. Oaktree lái xe Cuda vòng chữ U thật lẹ và chạy xuống đồi. Priest quay đầu xe tải chậm hơn.
Một trong hai người cảnh sát đang đứng giữa đường, chĩa súng về phía xe tải, quát:
– Cảnh sát đây. Đứng lại!
Priest phóng xe đâm vào viên cảnh sát. Anh này vội nhào ra khỏi hướng chạy của xe tải. Lúc đó trực thăng FBI vừa đậu xuống giữa đường, khoảng bốn trăm mét phía trước, chặn đầu hai chiếc xe đang định tẩu thoát. Priest thấy xe Cuda thắng xe kít-kít đỗ lại.