Priest nói:
– Nếu dễ dàng như thế thì tại sao chưa ai làm nên chuyện ấy?
– Tôi không nói đó là một việc dễ làm. Phải là một chuyên gia về địa-chấn-học thì mới biết được vết nứt bị yếu ở chỗ nào….
– Làm thế nào gây nên được một rung động trong vỏ quả đất?
– Cái đó thì tôi chưa biết.
Đi bộ trở về thành phố Shiloh, Priest suy nghĩ và thấy rằng giết chết Mario là phần dễ dàng. Cái khó là làm sao gạt được Lenny Petersen đây.
Trong khi đang suy tính về việc làm trong tương lai thì tâm trí Priest bị kéo giật về thực tế hiện tại bởi tiếng động của một chiếc xe hơi chạy từ đàng sau tới, hướng về thành phố.
Ở chỗ này không bao giờ có ai đi bộ hết. Priest cố tìm ra một lý lẽ để giải thích tại sao hắn lại phải đi bộ về thành phố vào lúc 6g30 sáng Thứ Bảy này.
Chiếc xe chạy chậm chậm qua Priest. Hắn thấy rõ người lái xe đang quan sát hắn trong kính chiếu hậu. Priest tự nhiên muốn chạy trốn.
Xe ngưng và chạy lui. Người lái xe hạ kính xuống. Đó là một người đàn ông Á châu trong một bộ đồ thương gia. Người này nói:
– Này ông bạn, có muốn quá giang không?
Priest nhìn xuống quần jeans dơ bẩn của mình, nói:
– Quần áo tôi bụi bặm quá.
– Ai mà không bị bụi bám ở cái xó này?
Priest ngồi vào trong xe. Hai tay hắn còn run. Hắn khóa dây an toàn là chỉ cốt làm một cái gì để che giấu sự bối rối của hắn.
Trong lúc xe chạy, người lái xe hỏi:
– Anh làm cái gì mà phải đi bộ trên đường trường thế này?
Priest đã nghĩ ra được một câu chuyện:
– Tôi đã đánh nhau với bà xã. Tôi ngưng xe, ra khỏi xe và vờ bỏ đi. Tôi đâu có ngờ bà ấy lại lái xe chạy luôn.
– Có phải một bà có gương mặt đẹp, tóc đen, trong một chiếc Honda mầu xanh dương tôi đã gặp cách đây ba chục cây số?
– Không phải người ấy. Bà xã của tôi lái xe pickup. Còn ông thì sao? Sao hôm nay là Thứ Bảy mà ông lại dậy sớm thế?
– Tôi không có đánh nhau với vợ. Tôi đi về với bà ấy đây. Tôi ở Laredo. Tôi đi làm quảng cáo cho một hãng đồ gốm tân tạo. Tôi muốn ghé Shiloh để ăn sáng. Ông có biết một tiệm ăn nào tốt không?
Priest mong rằng ông thương gia này sẽ đi qua thành phố mà không ghé đâu cả. Như vậy thì ông ta sẽ không có dịp kể với ai là đã gặp một gã râu xồm ở gần bãi rác, và đã cho gã quá giang. Dù sao Priest cũng phải nói:
– Có tiệm Lazy Susan ở đường Maine.
– Thức ăn có ngon không?
– Có món bắp nấu ăn được lắm. Qua đèn đỏ là tới.
Khi xe đã đậu vào bãi đậu xe của tiệm Susan, Priest cám ơn chủ xe và xuống xe. Hắn vừa đi vừa nói với lại:
– Chúc ông ăn ngon.
Từ tiệm Susan đi qua một ngã tư nữa là đến văn phòng địa phương của hãng dò tìm địa chấn Priest đang làm việc. Văn phòng là một toa xe lớn đậu trong một thửa đất trống. Chiếc địa-chấn-xa của Mario đang đậu trong bãi đậu xe, bên cạnh chiếc Pontiac Grand Am đỏ của Lenny.
Priest dừng lại và nhìn vào chiếc xe tải hồi lâu. Đó là một chiếc xe 10 bánh, những bánh xe thật lớn, với vỏ dầy và cứng như da khủng long. Dưới lớp bụi của Texas còn thấp thoáng mầu sơn xanh dương. Priest muốn nhẩy vào xe và lái đi ngay, nhưng làm vậy thì chỉ trong thoáng chốc là sẽ có một đoàn xe cảnh sát chạy theo hắn ngay.
Hắn đi vào toa xe. Văn phòng đang bận rộn. Một viên giám thị đang nói vào máy điện thoại, và cô thơ ký của Lenny, Diana, đang rà một danh sách.
Priest bước qua một cửa vẫn để ngỏ vào văn phòng phía trong. Lenny đang uống cà phê, một máy điện thoại đang áp vào tai. Sau một phút ông gác máy và nói:
– Ê, Ricky, anh có thấy thằng Mario ở đâu không? Đáng lẽ nó đã phải lên đường nửa giờ trước đây rồi.
– Có, tôi có thấy nó. Nó đã cho ông leo cây rồi. Nó nhớ vợ con nó quá nên nó đã lái xe pickup của nó đi rồi.
– Giỏi thiệt. Sao anh biết rõ thế?
– Xe nó chạy qua mặt tôi hồi sáng nay, hướng về phía El Paso.
– Tốt. Tôi mong là nó sẽ vượt biên và không ngừng xe cho đến khi nó lao xe xuống biển.
– Nó có một gia đình rất trẻ. Xin ông đừng cứng rắn với nó quá.
– Không cứng rắn với nó? Anh có rỡn không? Tôi sa thải nó ngay bây giờ.
– Nó rất cần việc làm này.
– Nhưng tôi lại cần một người lái xe tải của nó đi New Mexico.
Priest cố giữ cho giọng nói được tự nhiên:
– Tôi sẽ lái xe tải ấy đến Clovis nếu ông hứa sẽ để cho Mario làm việc trở lại.
– Anh có bằng lái xe thương mại, hạng B, không?
– Tôi có bằng lái xe ấy từ hồi tôi mới 21 tuổi.
Priest móc ví lấy bằng lái xe ra, để nó lên bàn giấy. Đó là bằng giả.
Ông Lenny xem xét bằng lái xe một lúc rồi nói:
– Trước anh nói là anh không muốn đi New Mexico mà.
– Được trả công 500 Đô thì tôi ngu gì mà không đi.
– 200 được không?
Priest ngần ngừ:
– 200 thì có vẻ quá ít cho 3 ngày làm việc.
– Chỉ mất hai ngày thôi, có thể là hai ngày rưỡi. Tôi trả anh 250.
– Thôi được. Mario là một người tốt. Tôi muốn giúp nó. Xin ông cứ trả tôi tùy theo sự xét đóan của ông về khả năng của tôi.
– Tốt. Vậy thì 300.
– Dạ được.
Ông Lenny mở một ngăn kéo, lấy ra một tờ giấy, nói:
– Anh hãy điền vào giấy này, thủ tục bảo hiểm.
Priest không biết đọc, cũng không biết viết. Hắn nhìn chăm chăm vào tờ giấy, tâm thần bối rối.
Lenny nói:
– Cầm lấy đi chứ, nó có phải là con rắn độc đâu.
Priest từ từ giơ tay ra cầm lấy cái mẫu đơn, nói:
– Để tôi điền nó ở ngoài kia.
Hắn đi trở ra, vào văn phòng chính, mắt nhìn vào tờ mẫu. Không thấy có những chữ X to để chỉ chỗ cho hắn ký tên. Priest có thể nguệch ngoạc viết được tên hắn, ngoài ra không viết được chữ nào khác nữa.
Hồi nhỏ Priest là đứa trẻ rất thông minh nên hắn không cần học đọc và viết. Hắn có thể làm tính nhẩm nhanh hơn ai hết, và trí nhớ của hắn thì không bao giờ bị sai lệch. Trong lớp học, hắn tìm đủ mọi cách để khỏi phải đọc lớn tiếng. Nếu được lệnh phải viết cái gì thì hắn nhờ một đứa bạn viết dùm cho.
Sau này hắn xoay xở làm được chủ một tiệm bán buôn rượu. Hắn không bao giờ viết thư. Mọi việc giao dịch hắn đều làm bằng điện thoại, hay đích thân đi. Hắn nhớ được hàng tá số điện thoại trong đầu. Hắn biết được đúng số tiền hắn có trong ngân hàng. Hắn đã có được một triệu đôla hồi hắn 21 tuổi. Hắn đã mất hết số tiền này lúc hắn gặp Star, không phải vì hắn mù chữ, nhưng là vì hắn đã lường gạt khách hàng, gian lận tiền thuế, và vay nợ của băng đảng.
Priest ngồi xuống trước bàn giấy của Diana, thơ ký của Lenny, mỉm cười với nàng, nói:
– Cô có vẻ mệt sáng nay?
Diana thở dài. Nàng có thân hình mụ mẫm, tóc vàng, khoảng 35 tuổi, chồng làm lao công cùng hãng. Nàng nói:
– Công việc bề bộn quá. Ước sao tôi có được hai cái đầu.
Priest tỏ vẻ thất vọng:
– Thật là xui xẻo. Tôi định nhờ cô giúp cho một việc.
Diana ngần ngừ, rồi miễn cưỡng mỉm cười:
– Việc gì vậy?
– Chữ tôi viết xấu quá. Tôi muốn nhờ cô điền hộ tôi tờ mẫu này. Tôi thật không muốn làm rộn cô trong lúc cô đang bận.
Nàng cười, chỏ tay về phía một đống thùng giấy cứng chất sát tường, nói:
– Không sao. Tôi giúp anh điền mẫu đơn này nếu anh giúp tôi chất những thùng hồ sơ kia vào trong xe van Chevy Astro mầu xanh đậu ngoài kia.
– Sẵn sàng.
Priest hể hả nói và trao mẫu đơn cho nàng. Diana cầm bút lên nói:
– Bây giờ anh cho tôi biết tên họ, ngày và nơi sanh của anh.
Priest khai cho nàng đầy đủ mọi chi tiết, và nàng điền vào chỗ trống trên tờ mẫu, rồi nàng vẽ một chữ X to cạnh chỗ có một hàng dấu chấm, và nói:
– Anh ký vào đây.
Priest cầm lấy bút của Diana, viết một cách chật vật. Chữ R cho Richard, rồi chữ G cho Granger. Sau R G hắn kéo dài một nét ngoằn ngoèo như con rắn. Trông không đẹp, nhưng người ta cũng chấp nhận được.
Hắn trao lại tờ mẫu cho Diana và nói:
– Cảm ơn cô đã giúp đỡ.
– Tôi sẽ lấy cho anh chìa khóa xe ở phòng ông Lenny khi nào ổng điện thoại xong.
Sau khi Priest đã chất tất cả đám thùng giấy vào xe Chevy, Diana cầm tờ mẫu đi vào văn phòng trong.
Khi trở ra, tay nàng cầm vòng chìa khóa xe địa chấn, và nàng trao nó cho Priest.
Giây phút này hắn đã mong ước từ lâu. Hắn nói:
– Cảm ơn cô. Chào mọi người. Hẹn gặp lại ở New Mexico.
Diana nói:
– Lái xe cẩn thận đấy, nghe không?
– Tôi sẽ rất cẩn thận. Cô cứ tin tôi đi.
Ra tới ngoài, hắn leo lên xe tải, bật công tắc máy. Hắn soát lại đồng hồ xăng. Chắc là Mario đã đổ đầy xăng tối hôm qua.
Priest cho xe chạy về phương bắc, theo con đường Star đã đi trong chiếc Honda. Khi xe chạy gần tới bãi rác, hắn thấy hồi hộp. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được ngay. Mario đâu phải là người đầu tiên hắn đã giết.
Jack Kassner là một cảnh sát viên. Nó đã ăn cắp tiền của mẹ Priest. Lúc Ricky được 15 tuổi, mẹ hắn là một gái điếm, cùng với ba người đàn bà khác thuê một căn phòng ở Los Angeles để làm ăn. Jack Kassner, hồi đó là phó trưởng toán trinh sát, mỗi tháng đến một lần để thu tiền hối lộ. Ngày hôm đó hắn trông thấy mẹ của Priest lấy tiền ở phòng trong. Đêm đến hắn ập tới xét nhà, và hắn quơ một ngàn rưỡi đôla của mẹ Priest. Kassner nghĩ ba con điếm và một thằng nhỏ mười lăm tuổi thì làm gì được nó. Nhưng tối hôm sau, trong phòng vệ sinh của một quán rượu tại Broadway, thằng nhỏ Richard Granger đã lụi một con dao lưỡi dài mười lăm phân vào lưng Kassner.
Priest lạnh lùng lái xe qua bãi rác và tiếp tục chạy về hướng bắc.
Trong lúc xe chạy bon bon trên đường trường, Priest miên man nhớ lại thôn xóm nhỏ mà hắn và Star đã tạo nên.
Khung cảnh nơi đó không bao giờ hắn quên được. Một rừng thông bao phủ lên mấy ngọn đồi, dầy như trên lưng con gấu. Qua làn không khí trong vắt của núi rừng, bầu trời xanh ngắt làm cho người ta chói mắt khi ngước nhìn lên. Cách đường cái mươi cây số, một con sông nước trong xanh chảy ngoằn ngoèo trong một thung lũng, giữa hai vách núi cao. Khách qua đường không ai biết được là đã có một nhóm người tới sinh sống ở nơi đây, và làm đất thành ra những nương nho.
Priest thấy xóm làng của hắn mới đẹp làm sao, và tim hắn như thắt lại.
Đàn ông, đàn bà, trẻ con, di chuyển chậm chạp trong rừng nho, chăm sóc từng cây nho. Đó là những người bạn của Priest, những người mà hắn yêu thương, là gia đình của hắn. Một người trong đám đàn bà cười khanh khách. Nàng có một thân hình cao, mập mạp, tóc đen dài, và Priest thấy rào rạt tình yêu đối với nàng. Trong lúc họ đang làm việc, vài người đàn ông qùy gối cầu xin các thần linh của thung lũng phù hộ cho họ có một mùa gặt nho tốt đẹp. Cạnh chân họ, mấy gốc cây to còn sót lại như nhắc họ nhớ đến những nỗi nhọc nhằn họ đã trải qua khi họ tới đây khai phá để lập nên thôn ấp này hai mươi lăm năm trước. Bên rìa nương nho có mấy căn nhà gỗ, mộc mạc nhưng chắc chắn. Khói lam uốn khúc bay trên một mái nhà.
Chỗ đó là thiên đường của nhóm Priest. Priest có giữ lại được thiên đường này không?
Rồi Priest lại nhớ đến đêm hôm lá thư tới. Đêm hôm ấy hắn đã nói với mọi người:
– Chúng ta phải làm việc ấy ngay đêm nay. Chúng ta sẽ nói cho ông thống đốc biết là sẽ có một trận động đất xẩy ra trong bốn tuần nữa, kể từ hôm nay.
Star còn phân vân, nói:
– Chúng ta chưa chắc là việc ấy có thể làm được hay không. Có lẽ mình phải làm cái gì khác đã, rồi sau mới gởi tối hậu thư.
Priest nói:
– Tình thế cấp bách rồi. Ta phải làm ngay.
Aneth nói:
– Nhưng một trận động đất sẽ làm chết nhiều người.
Priest nói:
– Chúng ta sẽ làm một trận động đất nhỏ, không gây thiệt hại gì, trên sa mạc, đủ để chứng tỏ cho họ thấy là chúng ta có khả năng làm những gì chúng ta nói. Rồi khi ta dọa một trận động đất thứ hai thì lão thống đốc sẽ phải điều đình.
Oaktree nói:
– Mình hăm họ bằng cách nào?
Priest nói:
– Một lá thư hay một cú điện thoại nặc danh là được chứ gì?
Melanie nói:
– Chúng ta có thể chưng nó lên bảng thông tin của mạng lưới Internet. Nếu chúng ta dùng máy điện toán xách tay và điện thoại di động của tôi thì không ai truy lùng tung tích của nó được.
Priest chưa hề thấy một máy điện toán cho đến khi Melanie tới nhập bọn. Hắn nói:
– Được lắm.
Star nói:
– Mình ký bức thông điệp thế nào? Mình phải có một tên chứ.
Song nói:
– Cái gì có thể tượng trưng cho một nhóm người yêu thái bình đang bị dồn vào đường cùng?
Priest nói:
– Tôi biết. Chúng ta sẽ tự xưng là “Búa Thiên Lôi”.
Lúc đó là gần nửa đêm ngày Một tháng Năm.
Tinh thần Priest trở nên căng thẳng khi hắn tới ngoại ô thành phố San Antonio. Theo kế hoạch nguyên thủy thì Mario đã phải lái xe tải tới tận phi trường, nhưng nay Priest chỉ có một mình lái xe vào mạng nhện xa lộ vây quanh thành phố. Hắn bắt đầu toát mồ hôi lạnh. Hắn không thể đọc được bản đồ, ngay cả các bảng chỉ đường cũng làm khó cho hắn.
Rốt cuộc, sau khi hỏi thăm đường, hắn cũng tìm được lối ra khỏi San Antonio. Vài phút sau, khi chạy qua một thành phố nhỏ, hắn thấy nhẹ người khi trông thấy chiếc Honda xanh đậu trước một tiệm Mc Donald.
Priest sung sướng ôm lấy Star. Nàng lo lắng hỏi:
– Việc gì đã xẩy ra vậy? Em đã chờ anh cả hai tiếng đồng hồ rồi.
Priest không muốn cho nàng biết hắn đã giết Mario, nên hắn nói:
– Anh đã bị lạc đường ở San Antonio.
– Em cũng nghĩ như vậy. Nhưng bây giờ anh đã đến đây rồi thì ta đi.
Hai người lại lên đường. Star lái xe tải. Họ dự định đi thẳng đến California, không ngừng ở đâu hết. Như vậy là sẽ mất hai ngày hai đêm. Một người ngủ trong khi người kia lái xe.
Họ bỏ lại chiếc Honda ở bãi đậu xe của Mc Donald. Khi xe chạy trên xa lộ, Star đưa cho Priest một túi giấy đựng một cái kéo và một con dao cạo chạy bằng pin, và nói:
– Bây giờ anh hãy cạo râu đi.
Priest quay kính chiếu hậu về phía mình và bắt đầu cắt bằng kéo. Mặt thật của hắn lộ ra khi hắn dùng dao cạo để kết thúc công việc. Sau rốt hắn bỏ mũ cao bồi ra và gỡ tung bím tóc.
Hắn nhìn vào gương. Tóc hắn xõa xuống quanh một khuôn mặt rắn rỏi. Sống mũi cao và nhọn như một lưỡi dao, hai má hóp, nhưng hắn có một cái miệng thật khêu gợi. Nhiều đàn bà đã nói với hắn như vậy. Nhưng đôi mắt của hắn mới thật đặc biệt, mầu nâu sẫm, gần như đen, đôi mắt có một thị lực mãnh liệt, nó nhìn xoáy vào tâm hồn người ta, nó sai khiến được người ta, nó muốn thôi miên người ta.
Star bật cười:
– Một con quỷ đẹp trai.
– Giỏi nữa chứ.
– Đúng, vì anh đã lấy được chiếc xe này.
Tại tòa Nhà Liên Bang, số 450 đường Golden Gate, San Francisco, sáng sớm Thứ Hai, Judy Maddox, phái viên FBI, ngồi đợi trong phòng xử án ở tầng lầu 15. Nàng thấy hơi lo. Phá một án đòi hỏi nhiều tháng, có khi nhiều năm làm việc. Nhưng người ta không thể nói chắc được kết quả ra làm sao khi vụ đó được đưa ra trước toà án. Hôm nay có bốn người được đưa ra xử: anh em nhà Phống và hai đồng lõa.
Bọn chúng liên tay với ba người nữa bên Hồng-Kông lập nên một mạng lưới để bí mật chuyển tiền của giới kỹ nghệ ma túy tại Bắc California. Judy đã phải mất một năm trời để biết được cách thức làm ăn của bọn chúng, và một năm nữa để chứng minh tội trạng của chúng.
Nàng có một điểm lợi khi theo dõi bọn lưu manh Á-châu. Cha của nàng là người Ái Nhĩ Lan, mắt xanh, nhưng nàng có nhiều nét giống người mẹ đã quá cố của nàng. Mẹ nàng là một người Việt Nam. Judy có thân hình nhỏ nhắn, tóc đen, cặp mắt xếch. Bọn người trong băng đảng Tàu mà nàng hỏi chuyện trong những lúc nàng làm công tác điều tra, không ai ngờ cô gái nhỏ xinh đẹp lai Á này lại xuất thân từ trường đại học luật khoa Stanford, và là một nhân viên ưu tú của FBI.
Nàng đang làm việc cùng với một viên phó biện lý tên Don Riley. Nàng đã sống chung với anh này một thời gian. Hai người mới chia tay nhau một năm trước. Anh ta cùng tuổi với nàng. Anh ta có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp, khôn lanh, và rất hăng say trong công việc. Nàng nghĩ rằng bọn nàng đã nắm chắc phần thắng trong vụ này, nhưng các bị cáo đã thuê được tổ hợp luật sư bậc nhất trong thành phố, và họ đã đưa ra những luận cứ chạy tội thật khéo léo và mạnh mẽ.
Judy có một lý do đặc biệt để phải lo ngại về vụ án này. Ông xếp trực tiếp của nàng, trưởng toán “Trọng Tội Á Châu”, sắp sửa về hưu. Nàng đã đệ đơn xin được thay thế ông. Giám Đốc FBI, văn phòng San Francisco, ủng hộ nàng. Nhưng nàng có một đối thủ: Marvin Hayes, một nhân viên có nhiều thâm niên cùng trong nhóm của nàng. Marvin lại là bạn rất thân của ông phó giám đốc. Ngay bây giờ cuộc đua tranh giữa Judy và Marvin Hayes đã đến hồi gay go.
Judy là một nhân viên giỏi. Nàng sẽ là một trưởng tổ ưu tú, và một ngày kia nàng sẽ có thể là một giám đốc bậc nhất của FBI San Francisco. Ông giám đốc đã tỏ ý là Judy xứng đáng hơn Marvin để giữ chức trưởng tổ, nếu nàng thắng vụ án ngày hôm nay.
Tại phiên tòa, hầu hết những người cộng tác với Judy trong vụ Phống đều có mặt. Nhưng nàng không hiểu tại sao cả ông giám đốc và ông phó giám đốc đều không đến. Vụ này là một vụ quan trọng. Nàng đoán là trong sở đã xẩy ra việc gì. Nàng toan bước ra ngoài phòng xử để gọi điện thoại về sở, nhưng viên thừa phát lại đã bước vào, và thông báo rằng bồi thẩm đoàn đang trở lại phiên tòa. Nàng ngồi xuống. Don bóp nhẹ vai nàng để khuyến khích nàng.
Bồi thẩm đoàn vào phòng xử. Vị thẩm phán từ trong phòng nghị án bước ra và ngồi xuống ghế chánh án. Judy bắt đầu làm dấu chữ thập bằng hai ngón tay của nàng ở dưới gầm bàn.
Chánh Án hỏi:
– Quý vị bồi thẩm, quý vị đã có kết quả chưa?
Đại diện bồi thẩm đoàn đứng dậy nói:
– Thưa đã có.
– Vậy các bị cáo có tội hay không có tội?
– Có tội.
Judy quay nhìn Don. Don toét miệng cười với nàng.
Chánh Án cảm ơn bồi thẩm đoàn, đình hoãn phiên tòa, và bước ra.
Thắng rồi, mình đã thắng rồi, Judy thầm nghĩ. Mình đã bỏ được bọn gian vào tù, và sự thăng chức của mình đã ở trong giỏ rồi. Trưởng Toán Judy Maddox, mới ba mươi sáu tuổi, một ngôi sao đang lên.
Nàng nói với Don:
– Công của anh lớn lắm đấy, anh Don. Cảm ơn anh.
Don ôm nàng:
– Em đã cho anh một vụ án thật lớn.
Judy quay qua các cộng sự viên, bắt tay từng người một để cảm ơn họ. Rồi hai luật sư bên bị tới. Người lớn tuổi nhất, ông David Fielding của tổ hợp luật sư Brooks Fielding, nói:
– Chúc mừng cô Maddox. Cô đã thắng được vụ kiện này. Xin bội phục.
Judy nói:
– Cảm ơn hai ông. Tôi đã mất hy vọng từ khi các ông nhận bênh vực cho các bị cáo.
David nghiêng đầu nhận lời nói nhún mình của Judy:
– Cô Judy, nếu bao giờ cô chán FBI thì xin cô gia nhập nhóm chúng tôi. Hồ sơ kiện của cô thật là tuyệt diệu. Trong tổ hợp của chúng tôi, lương của cô sẽ nhiều gấp ba lương hiện tại của cô.
– Lời đề nghị của ông thật đáng quý. Nhưng tôi thích bỏ những tên bất lương vào tù hơn là giữ chúng ở ngoài.
– Tôi ngưỡng mộ lý tưởng của cô.
David nói rồi quay qua nói chuyện với Don.
Judy xách cặp hồ sơ đi ra. Trụ sở FBI ở trong cùng một tòa nhà với tòa án, hai tầng thấp hơn.
Khi bước vào hành lang của văn phòng FBI, nàng vẫn còn thắc mắc về lý do vắng mặt của hai ông giám đốc và phó giám đốc tại phiên xử. Nàng tiến tới phòng ông giám đốc. Giám Đốc Milton Lestrange bao giờ cũng có cảm tình với nàng. Ông thường bênh vực nhân viên phái nữ. Ngay từ bước chân đầu tiên vào phòng ngoài của ông, nàng đã thấy có việc không hay xẩy ra rồi. Cô thư ký của ông đang khóc. Judy đến an ủi cô, nhưng cô xua tay và chỉ vào phòng trong.
Judy bước vào. Ngồi phía sau bàn giấy của ông giám đốc là ông phó giám đốc Brian Kincaid, áo vét treo trên mắc, cà vạt nới lỏng. Ông là một người to lớn, tóc trắng. Ông ngước mắt nhìn lên và nói:
– Vào đi, cô Judy.
Nàng nói:
– Việc gì đã xẩy ra vậy? Ông Giám Đốc đâu?
– Ổng ở trong nhà thương. Bịnh ung thư lá lách. Ông sẽ bị mổ để làm cái gì như là một vụ nối ruột, và ông phải vắng mặt ở đây một thời gian dài.
Judy ngồi xuống ghế:
– Thật tội nghiệp cho ông Giám Đốc.
– Tôi được ủy thác làm giám đốc trong khi ổng vắng mặt.
Judy nghĩ thế này là mình bị xui rồi, nhưng nàng cũng nói:
– Xin chúc mừng ông.
– Tôi chuyển cô sang toán “Khủng Bố Quốc Nội”.
Ông nhấc máy điện thoại, nói với cô thơ ký:
– Cô bảo Matt Peters sang gặp tôi ngay.
Peters là trưởng toán KBQN. Judy tức giận nói:
– Nhưng tôi mới thắng vụ án mà.
– Làm tốt lắm. Nhưng cái đó không thể thay đổi quyết định của tôi được.
– Khoan đã, thưa ông. Ông đã biết là tôi đã đệ đơn xin làm trưởng toán “Trọng Tội Á Châu” rồi mà.
– Tôi muốn để cô thu thập nhiều kinh nghiệm hơn nữa.
– Và ông cũng muốn để Marvin ngồi ở bàn giấy “Á Châu”?
– Đúng. Tôi tin rằng Marvin là người xứng đáng nhất để giữ chỗ đó.
Thật là một thằng khốn, Judy tức giận nghĩ thầm. Nó tự xoay xở để giật chức giám đốc. Nay nó lại ỷ vào chức giám đốc để thăng chức cho thằng bồ của nó.
Nàng nói:
– Ông không thể làm thế được. Tài sức chúng tôi ngang nhau. Tôi không thua kém gì Marvin hết.
– Marvin xứng đáng hơn cô.
– Tôi đã bỏ tù nhiều tội phạm hơn hắn.
Kincaid mỉm cười, lật con bài tẩy của ông:
– Nhưng hắn đã làm việc hai năm ở trung ương FBI tại Hoa Thịnh Đốn.
Thằng cha này nói đúng, Judy thất vọng nghĩ thầm. Nàng chưa bao giờ làm việc ở trung ương FBI, và kinh nghiệm thâu thập được ở trung ương là cần thiết cho một trưởng toán. Judy cố kìm cho nước mắt khỏi trào ra.
Matt Peters bước vào. Ông là một người to, tròn, đầu hói. Cũng giống như Marvin Hayes, ông là nhân viên thân tín của Kincaid. Judy cảm thấy là nàng đang bị bao vây tứ bề.
Peters nói với Judy:
– Chúc mừng cô đã thắng kiện. Tôi rất vui lòng có được cô trong toán của tôi.
– Cảm ơn ông.
Kincaid nói:
– Matt có một công tác mới cho cô.
Peters cắp một hồ sơ dưới cánh tay, và bây giờ ông trao cho Judy.
– Ông thống đốc có nhận được một lời hăm dọa của một bọn tự xưng là “Búa Thiên Lôi”.
Judy mở hồ sơ nói:
– Chúng muốn gì?
– Ngưng việc xây một nhà máy điện mới ở California. Chúng cho ta bốn tuần lễ để trả lời.
– Thế chúng dọa cái gì?
– Một trận động đất.
Từ xấp hồ sơ Judy ngước mắt nhìn lên:
– Vậy là ông trao cho tôi việc này. Không ai có thể làm được một trận động đất. Lời dọa này được truyền thông bằng cách nào?
– Nó xuất hiện trên bảng thông tin Internet ngày Một tháng Năm.
Judy nhìn Matt Peters:
– Hôm nay là ngày hai mươi lăm. Ông đã không nói gì về thông điệp ấy trong ba tuần rưỡi. Nay chỉ còn bốn ngày nữa là đến kỳ hạn thì ông mới lo?
– John Truth đã xem bảng thông tin. Nó nói về vụ hăm dọa này trong buổi phát thanh tối Thứ Sáu. Sau đó dân chúng tới tấp gọi điện thoại hỏi nó.
John Truth là người điều khiển chương trình radio đối thoại. Các buổi phát thanh của John đều được tất cả các đài radio khác tiếp vận trên toàn California.
– Tôi hiểu rồi. John Truth ép ông thống đốc phải có thái độ gì với lời dọa của bọn khủng bố, cho nên FBI phải điều tra về vụ này.
Matt nói:
– Đại khái là như vậy.
Judy nói với Kincaid:
– Các ông đã cố gắng rình bắt anh em nhà Phống trong suốt hai mươi năm qua. Nay tôi đã bỏ được bọn chúng vào tù. Bây giờ ông lại trao cho tôi một vụ vớ vẩn thế này à?
Với vẻ tự mãn Kincaid nói:
– Nếu cô muốn làm việc ở đây thì cô phải học chấp nhận cả cái khó lẫn cái dễ.
– Tôi đã học rồi, thưa ông. Mười năm trước đây, khi tôi mới vào làm, tôi đã nhận những vụ vớ vẩn như vụ này. Tôi đã vui vẻ làm tròn nhiệm vụ, và đã tỏ ra xứng đáng để được nhận những vụ thật sự quan trọng.
– Mười năm có là bao! Tôi đã ở đây hai chục năm rồi.
– Tại sao vậy? Ông vừa mới được giao trọng trách điều hành phòng này, mà công việc đầu tiên của ông lại là trao cho một nhân viên giỏi một vụ đáng lẽ chỉ để cho một lính mới làm.
– Phải. Tôi mới nhận chức vụ này mà cô đã muốn dậy tôi phải làm việc thế nào hả? Thôi, cô Maddox, đi làm việc đi. Cuộc họp đến đây là chấm rứt.
Giận sôi máu, Judy không chịu được nữa:
– Phải, chấm dứt. Chấm dứt cả công việc nữa. Tôi bỏ, không làm nữa.
Rồi nàng bước ra.
– Thật con đã nói thế hả? Cha của Judy hỏi.
– Vâng, con đã nói như thế, và con biết là bố không bằng lòng.
– Con làm như thế cũng đúng đấy chứ. Nhưng bố thấy hơi quá đấy. Bây giờ con có thấy ân hận không?
Hai cha con ngồi uống trà trong bếp. Cha của Judy là một điều tra viên của sở cảnh sát San Francisco. Ông hay mặc thường phục đi điều tra. Ông có sức mạnh, mắt xanh và tóc hoa râm bím đuôi ngựa. Ông đã gần đến tuổi hưu trí, nhưng ông rất sợ phải về hưu. Hỗ trợ luật pháp là đời sống của ông. Ông kinh ngạc thấy con gái nói tới giã từ công việc khi cô chưa đến lúc phải bỏ việc.
Cha mẹ của Judy đã gặp nhau ở Saigon, trong thời gian quân đội Mỹ ở đó được gọi là cố vấn quân sự. Mẹ nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu Việt Nam. Cha của Judy đưa vợ về Mỹ, và Judy ra đời ở San Francisco. Lúc còn nhỏ Judy gọi cha mẹ bằng tiếng Việt: Bố và Mẹ. Các cảnh sát viên trong sở thấy ngồ ngộ, cũng gọi cha của Judy là Bố Maddox.
Judy thương cha lắm. Mẹ nàng bị chết trong một tai nạn xe hơi lúc nàng được 13 tuổi. Sau khi chia tay với Don Riley năm trước, nàng dọn về ở với cha.
Judy thở dài:
– Con không hối tiếc chút nào cả. Con đã nói với Kincaid là con thôi việc thì con phải thôi việc. Thằng cha thật là ngu xuẩn.
– Nó ngu thật, vì nó đã để mất một nhân viên giỏi.
Ông nhấp một ngụm trà, rồi thủng thẳng nói tiếp:
– Nhưng con còn ngu hơn, vì con đã để mất một chỗ làm tốt.
– Người ta đã hứa cho con một chỗ làm tốt hơn ở tổ hợp luật sư Brooks Fielding. Họ sẽ trả con lương cao gấp ba lương của FBI.
Ông bực tức nói:
– Con muốn giúp cho bọn bất lương khỏi vào tù hả? Tại sao con không lấy thằng Don Riley rồi sanh con đẻ cái đi? Bố muốn có cháu bế lúc bố về hưu.
Judy thấy nhói trong tim. Nàng chưa cho bố biết là mối tình của nàng với Don đã tan vỡ. Lý do chỉ là vì Don có một bồ nhí khác. Don đã thú tội với nàng và xin lỗi. Nàng đã cố gắng tha thứ Don, nhưng cảm tình của nàng đối với Don không được như trước nữa. Bố không biết gì về chuyện này. Ông nghĩ rằng Don Riley sẽ là một người chồng hoàn mỹ: đẹp trai, thông minh, thành đạt trong công việc, và làm việc trong ngành bảo vệ luật pháp.
Ông đứng dậy:
– Bố phải đi đây. Toán của bố có một trận đánh đêm nay.
Ông mặc áo, hôn má con gái, rồi ra khỏi nhà. Judy mở tủ lạnh, tính tìm thức gì ăn, nhưng nàng không thấy đói. Nàng quyết định viết bản kê khai lý lịch. Nàng phải đến sở để viết bằng máy điện toán.
Nàng cầm súng lên, rồi lưỡng lự. Phái viên FBI đều coi như phải làm việc hai mươi bốn tiếng một ngày, và lúc nào cũng phải đeo súng, ngoại trừ những lúc ở tòa án, trong nhà tù hay trong phòng làm việc. Nhưng nếu mình không còn là phái viên nữa thì mình khỏi phải mang súng. Rồi nàng lại đổi ý. Nếu mình bắt gặp một vụ cướp mà mình lại phải lái xe chạy đi bởi vì mình không có súng, có lẽ lúc bấy giờ mình tự thấy mình là cù lần lắm nhỉ.
Đó là một khẩu súng thường được phát cho các phái viên FBI, khẩu súng ngắn SIG-Sauer P228. Judy còn có một khẩu súng trường Remington 870 nữa. Cũng như mọi phái viên khác, nàng phải tập bắn súng mỗi tháng một lần, và phải thi bắn bốn lần mỗi năm. Cũng như hầu hết các phái viên khác, nàng chưa thực sự dùng súng của mình bắn ai, ngoài những lúc bắn tập. Các phái viên FBI là những điều tra viên. Bởi vậy nên không có gì là lạ nếu có những phái viên làm việc suốt đời với cơ quan mà chưa bao giờ phải dùng đến súng.
Judy bỏ súng vào trong túi đeo vai. Nàng mặc áo dài Việt Nam. Nàng thích mặc áo dài những lúc nhàn rỗi, không làm việc ở sở, vì nàng thấy nàng mặc áo dài coi đẹp lắm.
Tối nay nàng mặc áo dài và quần dài bằng lụa trắng. Màu trắng của áo làm nổi bật làn tóc đen xõa chấm vai của nàng, và cái áo bó sát người làm lộ những đường cong của đôi vai và thân thể nàng.
Judy ra khỏi nhà. Xe Chevrolet Monte Carlo của nàng đậu sát vỉa hè. Đó là xe của sở.
Lúc đó là khoảng 8g30 tối. Xe cộ ngoài đường đã bớt nhiều nên chỉ trong mấy phút là nàng đã tới tòa Nhà Liên Bang. Nàng vào văn phòng Trọng tội Á châu. Không có ai trong phòng. Nàng bật đèn, ngồi vào bàn giấy của nàng, bật máy điện toán để viết bản kê khai lý lịch.
Nhưng trước hết nàng phải viết tờ đơn xin thôi việc đã. Nàng bấm ngày, tháng, rồi đánh chữ. Trên màn hình hiện ra những giòng chữ:
“Kính gởi Ông Giám Đốc. Tôi viết đơn này để xác nhận lời xin thôi việc của tôi.”
Nàng thấy lòng quặn đau. Nàng đã cho FBI mười năm son trẻ của nàng. Bao nhiêu người đàn bà khác đã có chồng rồi, sanh con rồi, hay đã có cơ sở làm ăn riêng rồi. Còn nàng, nàng đã tự nguyện phải trở nên một phái viên giỏi. Nay nàng đang vứt đi tất cả. Nghĩ đến đây tự nhiên nước mắt nàng trào ra.
Rồi Simon Sparrow bước vào. Cũng như Judy, chàng mặc thường phục. Chàng đã đậu bằng tiến sĩ ngữ học, và đã làm việc 5 năm trong khối khoa học tâm lý của trường FBI tại Quantico, Virginia. Công việc chuyên môn của chàng là phân tích các lời hăm dọa. Chàng có một hồ sơ trên tay. Chàng nói:
– Lời dọa động đất của cô thật là hấp dẫn. Tôi định để hồ sơ này lên bàn của cô, nhưng thật là may cho tôi đã gặp cô ở đây. Xin chúc mừng cô đã thắng kiện ngày hôm nay. Chắc cô hài lòng lắm.
– Đáng lẽ thì tôi rất hài lòng. Nhưng sau đó tôi đã cãi nhau với ông Kincaid một trận.
– Ồ, ông ấy hả? – Simon phẩy tay như xua ông chủ đi – Nếu cô xin lỗi ổng một câu thì ổng sẽ phải tha lỗi cho cô. Ổng không thể để mất cô đâu. Cô làm việc giỏi quá mà.
Hình như Simon đã biết hết mọi việc, nhưng nếu hắn biết là nàng đã xin thôi việc thì tại sao hắn lại đưa tờ báo cáo cho nàng.
Tò mò, nàng nói:
– Anh ngồi xuống đây và nói cho tôi biết việc phân tích của anh về lời hăm dọa này.
– Nó làm tôi muốn điên cái đầu, cô ơi.
Simon đưa cho nàng một bản in của tờ thông điệp như đã xuất hiện trên bảng thông tin Internet.
Judy đã xem thông điệp rồi. Nó ở trong hồ sơ Matt Peters đã trao cho nàng sáng nay.
Nàng đọc lại một lần nữa.
1/5
Gởi ông Thống Đốc tiểu bang
Chào ông!
Ông nói rằng ông ngăn cấm ô nhiễm và giữ gìn môi trường, nhưng ông đã không làm gì cho mục tiêu ấy; vậy nên chúng tôi buộc ông phải làm. Cái xã hội tiêu thụ này đang đầu độc trái đất bởi vì các ông tham lam quá, và các ông phải ngưng ngay bây giờ! Chúng tôi là “Búa Thiên Lôi”, một chi nhánh chính thống của tổ chức tranh đấu cho môi trường Green California. Chúng tôi buộc ông phải tuyên bố ngưng ngay việc xây các nhà máy phát điện. Không có nhà máy phát điện mới. Rõ chưa? Nếu không! Nếu không thì sao? Nếu không thì chúng tôi sẽ làm một trận động đất trong đúng bốn tuần nữa, kể từ ngày hôm nay, Một tháng Năm. Ông nên chú ý! Chúng tôi đã nói thì chúng tôi sẽ làm!
Búa Thiên Lôi
Simon nói:
– Cô nghĩ thế nào?
Judy suy nghĩ một phút:
– Tôi thấy một thằng sinh viên khùng ngồi trước máy điện toán hoang tưởng ra cách làm cho thiên hạ phải tuân theo ý mình.
Simon cười:
– Sai bét. Nó là một thằng thất học nghèo, từ bốn đến năm mươi tuổi.
– Sao anh biết?
– Người giầu và có học thường bắt đầu bức thư bằng “Thưa Ông” chứ không “Chào ông”.
Judy gật đầu:
– Rồi. Anh đang kiếm một thằng công nhân, bốn mươi lăm tuổi. Có vẻ đúng đấy. Anh còn thắc mắc gì nữa?
– Tôi thấy nhiều điểm trái ngược. Mấy yếu tố khác trong thông điệp làm tôi nghĩ tới một người đàn bà trẻ, bậc trung lưu. Trong câu đầu có một dấu chấm phẩy. Biết dùng dấu chấm phẩy phải là người có chút học vấn. Rồi còn nhiều dấu chấm than nữa. Chứng tỏ là một phái nữ.
– Sao anh biết là người trẻ tuổi?
– Biết dùng máy điện toán và Internet phải là một người trẻ và có học.
Judy chăm chú nhìn Simon. Có phải hắn đang muốn dụ nàng ở lại làm việc, đừng xin thôi nữa.
Nàng hỏi:
– Theo như anh nói thì tờ thông điệp này được viết bởi một người lưỡng thể?
– Không phải như vậy. Kết luận rất giản dị: Nó đã được viết bởi hai người, thằng đàn ông đọc, và con đàn bà gõ máy điện toán.
Simon nói tiếp:
– Tôi thắc mắc là tại sao nó lại đọc. Việc này thật bình thường đối với một vị giám đốc và một cô thư ký, nhưng thằng này là một thường dân. Không lẽ nó là một thằng mù chữ?
– Có thể nó chỉ là một thằng lười. Vậy là anh có một cô sinh viên xinh đẹp đang ở dưới quyền sai khiến của một thằng ma cà bông. Nhưng tôi thấy lời hăm dọa một trận động đất không thể tin đuợc.
Simon lắc đầu:
– Chúng ta không nên coi nhẹ vụ này.
– Tại sao?
– Bây giờ chúng ta thử nghĩ xem chúng muốn gì? Chúng đang mặc cả với mình hay chúng muốn được nổi tiếng? Tôi nói là chúng đang mặc cả. Nếu chúng muốn được nổi tiếng thì chúng đã bố cáo thông điệp của chúng trên tivi hay trên báo chí, chứ không trên bảng thông tin tối tăm của Internet. Tôi cho là chúng chỉ muốn liên lạc với ông Thống Đốc.
– Chúng thật ngây thơ nếu chúng tin chắc là ông Thống Đốc sẽ đọc thông điệp của chúng.
– Đồng ý. Bọn này cho ta thấy chúng có lẫn lộn cả sự hiểu biết tân kỳ với sự ngu đần, nhưng chúng không nói quàng xiên đâu.