Jack chạy lên cầu thang tới tòa nhà số ba mươi, quét huy hiệu ở cổng kiểm tra an ninh và đi thẳng đến Phòng điều hành đặc biệt.
Gordon Obie chặn anh ở ngay ngoài phòng điều hành.
– Jack, chờ đã! Anh có thể vào đó làm loạn mọi chuyện, họ sẽ tống anh ra ngoài. Hãy dành một phút mà bình tĩnh lại. Nếu không anh sẽ không giúp được vợ anh.
– Tôi muốn vợ tôi trở về ngay bây giờ.
– Mọi người đều muốn họ trở về! Chúng ta đang cố hết sức nhưng tình hình đã thay đổi. Cả trạm bị ô nhiễm. Hệ thống lọc không khí đã hỏng. Nhóm ra ngoài không gian không còn cơ hội sửa giàn năng lượng nữa, vì vậy họ vẫn đang trong tình trạng mất điện. Và giờ họ không còn nói chuyện với chúng ta.
– Gì cơ?
– Emma và Luther đã cắt đứt liên lạc. Chúng ta không biết trên đó có chuyện gì. Đó là lý do tại sao họ gọi anh về. – để giúp chúng tôi liên lạc với họ.
Jack nhìn lối đi mở rộng dẫn vào phòng Điều hành bay đặc biệt. Anh thấy những người đàn ông và phụ nữ ở các bảng điều khiển, thực hiện công việc của họ như thường lệ. Anh bỗng cảm thấy tức giận khi những người điều hành bay đó lại có thể bình tĩnh và làm việc hiệu quả như vậy. Anh tức giận vì cái chết của hai phi hành gia nữa dường như không thể thay đổi vẻ chuyên nghiệp lạnh lùng của họ. Cách hành xử lạnh lùng của tất cả mọi người trong phòng chỉ khiến cho nỗi buồn của anh, nỗi sợ hãi trong chính anh nhân lên.
Anh vào phòng điều hành. Hai nhân viên mặc quân phục của Lực lượng không quân đứng cạnh giám đốc điều hành bay Woody Ellis, người đang điều khiển hệ thống điện đàm. Họ là những kẻ nhắc nhở khó chịu rằng căn phòng này không còn chịu sự điều khiển của NASA. Khi Jack đi theo men hàng ghế cuối cùng để về phía bảng điều khiển của bác sĩ, vài nhân viên điều hành bay nhìn anh thông cảm. Anh không nói gì, và ngồi ngay xuống ghế bên cạnh Todd Cutler. Anh lập tức nhận ra sau anh là phòng quan sát. Ở đó các nhân viên khác của Lực lượng không quân đang theo dõi cả phòng.
– Anh đã nghe tin mới nhất chưa? – Todd khẽ hỏi.
Jack gật đầu. Không còn đường điện tâm đồ trên màn hình nữa. Diana đã chết. Griggs cũng vậy.
– Nửa trạm đã bị mất điện. Và giờ những quả trứng lơ lửng trong không khí.
Và cả máu nữa. Jack có thể tưởng tượng Trạm vũ trụ lúc này như thế nào. Ánh sáng lờ mờ. Những bức tường tung tóe máu. Các bộ lọc khí thuộc hệ thống điều khiển môi trường bị tắc nghẽn. Đó là những giờ bay trên quỹ đạo đầy hãi hùng.
– Chúng ta cần nói chuyện với cô ấy, Jack. Hãy làm cho cô ấy nói cho chúng ta biết có chuyện gì trên đó.
– Tại sao họ không liên lạc?
– Chúng tôi không biết. Có thể họ đã mất niềm tin với chúng ta. Họ có quyền như vậy. Có lẽ họ đã quá tuyệt vọng.
– Không, chắc chắn họ phải có lý do. – Jack nhìn màn hình phía trước đang chiếu đường đi của Trạm vũ trụ trên trái đất. Em đang nghĩ gì vậy, Emma? Anh đeo tai nghe lên và nói.
– Chỉ huy liên lạc, tôi là Jack McCallum đây. Tôi đã sẵn sàng.
– Đã rõ, thưa bác sĩ. Hãy chờ! Chúng tôi đang cố liên lạc lại.
Họ chờ đợi. Nhưng Trạm vũ trụ quốc tế không trả lời.
Ở dãy bảng điều khiển số ba, hai trong số các điều khiển viên đột nhiên ngoái về sau nhìn Giám đốc điều hành bay Ellis. Jack không nghe thấy gì trong điện đàm, nhưng anh thấy điều khiển viên Odin, người chịu trách nhiệm về các mạng dữ liệu trên Trạm vũ trụ rời khỏi ghế, cúi về phía trước và thì thầm với nhân viên điều khiển ở dãy bảng điều khiển số hai.
Lúc này nhân viên điều khiển ở hàng thứ ba tháo tai nghe ra, đứng lên vươn vai. Anh bắt đầu đi bộ lên phía trên hành lang rất thoải mái như thể đang chuẩn bị đi thư giãn trong nhà tắm. Khi anh đi qua bảng điều khiển của bác sĩ, anh ném một mẩu giấy lên đùi Todd Cutler, rồi tiếp tục ra khỏi phòng.
Todd mở tờ giấy ra và sửng sốt nhìn Jack.
– Trạm vũ trụ đã chuyển toàn bộ máy tính của họ sang chế độ Đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn. – Anh thì thầm. – Phi hành đoàn đã kịp kích hoạt các bước chuẩn bị di dời bằng phương tiện khẩn cấp.
Jack quay lại như không tin vào tai mình. Chế độ đảm bảo đưa đội trở về trái đất an toàn là cấu hình máy tính dùng để hỗ trợ việc di dời của phi hành đoàn. Anh lướt nhanh một lượt quanh phòng. Toàn bộ điều khiển viên không nói lời nào trên điện đàm. Tất cả những gì Jack thấy chỉ là các hàng vai vuông vức và ai cũng tập trung cao độ vào bảng điều khiển của họ. Anh liếc sang nhìn Woody Ellis. Ellis đứng im như tượng. Ngôn ngữ cử chỉ nói lên tất cả. Ông ấy biết chuyện gì đang xảy ra. Và ông cũng không nói lời nào.
Jack vã mồ hôi. Đây là lý do tại sao phi hành đoàn cắt đứt liên lạc với họ. Họ đã đưa ra quyết định của riêng mình và họ đang tiến hành nó. Lực lượng không quân sẽ nhanh chóng phát hiện ra. Bằng mạng lưới giám sát hàng không bao gồm các ra-đa và các máy cảm ứng hình ảnh, họ có thể theo dõi các vật thể nhỏ bằng quả bóng chày bay gần trái đất. Ngay khi phương tiện di dời khẩn cấp tách ra, khi nó bắt đầu tách khỏi quỹ đạo, nó sẽ bị trung tâm điều khiển thuộc Bộ tư lệnh hàng không trên Trạm không quân ở núi Cheyenne phát hiện. Câu hỏi trị giá hàng triệu đô lúc này là: họ có phản ứng không?
Anh cầu Chúa là em biết mình đang làm gì, Emma.
Sau khi chuẩn bị phương tiện di dời khẩn cấp, nó sẽ mất hai mươi lăm phút để được hướng dẫn và xác định các mục tiêu hạ cánh. Nó sẽ cần thêm mười lăm phút để chuẩn bị đốt nhiên liệu và tách khỏi quỹ đạo. Nó cần thêm một tiếng để hạ cánh. Bộ tư lệnh không quân Mỹ sẽ phát hiện ra và lần theo dấu vết của họ trước khi phương tiện di dời khẩn cấp có thể chạm đất.
Ở dãy số hai, nhân viên điều hành bay phụ trách kỹ thuật, bảo trì và các van khoá trên Trạm vũ trụ quốc tế giơ ngón tay cái lên. Bằng cử chỉ đó, anh đã ngầm thông báo: Phương tiện di dời khẩn cấp đã được tách ra. Dù thế nào thì phi hành đoàn đang trên đường về.
Giờ cuộc chơi đã bắt đầu.
Sự căng thẳng ngày càng cao trong phòng. Jack lo lắng nhìn hai nhân viên lực lượng hàng không nhưng có vẻ họ không biết gì về việc này, một trong số họ cứ nhìn đồng hồ treo tường như thể nôn nóng muốn đi chỗ khác.
Từng phút trôi qua, căn phòng im ắng lạ thường. Jack cúi về phía trước, tim đập mạnh, áo sơ mi của anh ướt đẫm mồ hôi, lúc này phương tiện di dời khẩn cấp đã trôi dạt ra ngoài tầm Trạm vũ trụ quốc tế. Mục tiêu hạ cánh của họ sẽ không xác định được. Hệ thống hướng dẫn của họ đã bị khoá trên các vệ tinh định vị toàn cầu.
Cố lên, cố lên, Jack nghĩ. Hãy đến khâu tách khỏi quỹ đạo ngay bây giờ đi!
Tiếng chuông điện thoại phá tan không khí im lặng. Jack nhìn sang hai bên và thấy một nhân viên giám sát của Lực lượng không quân nhận điện. Đột nhiên anh ta bất động và quay sang phía Woody Ellis.
– Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây thế?
Ellis không nói gì.
Nhân viên đó lập tức gõ lên bàn phím trên bảng điều khiển của ông và ngạc nhiên nhìn màn hình. Anh chộp lấy điện thoại.
– Vâng, thưa ngài, tôi e là việc đó có thật. Phương tiện di dời khẩn cấp đã được tách ra. Không, thưa ngài, tôi không biết làm thế nào việc đó… vâng, thưa ngài, chúng tôi đã giám sát mọi điện đàm, nhưng…. – nhân viên đó đỏ mặt tía tai và vã mồ hôi khi nghe thấy một tràng chỉ trích trên điện thoại.
– Đưa nó về! – Anh ta ra lệnh.
Woody Ellis trả lời không cần giấu giếm.
– Đó không phải là tàu con thoi Soyuz. Anh không thể ra lệnh cho nó quay về như một chiếc xe máy được.
– Vậy thì hãy ngăn không cho nó hạ cánh!
– Chúng tôi không làm được. Đó là chuyến đi một chiều về trái đất.
Ba nhân viên khác thuộc Lực lượng không quân bước nhanh vào phòng. Jack nhận ra tổng tư lệnh Gregorian thuộc bộ tư lệnh không quân Hoa Kỳ. – người bây giờ điều khiển toàn bộ hoạt động của NASA.
– Tình hình thế nào? – Gregorian hét lên.
– Phương tiện di dời khẩn cấp đã tách khỏi trạm nhưng vẫn chưa tách khỏi quỹ đạo. – nhân viên đỏ mặt lúc nãy trả lời.
– Họ sẽ chạm khí quyển trong bao lâu?
– À, tôi không biết, thưa ngài.
Gregorian quay về phía giám đốc điều hành bay.
– Bao lâu nữa thưa ngài Ellis?
– Còn tùy. Có vài khả năng.
– Đừng có lên mặt giảng giải về kỹ thuật ở đây với tôi! Tôi muốn câu trả lời. Tôi muốn con số.
– Được rồi. – Ellis đứng thẳng, nhìn chằm chằm vào mắt ông ta. – Trong bất cứ khoảng nào từ một đến tám tiếng. Điều đó phụ thuộc vào họ. Họ có thể ở lại tối đa trên quỹ đạo bốn tiếng. Hay họ có thể tách khỏi quỹ đạo ngay lúc này và tiếp đất trong vòng một giờ nữa.
Gregorian nhấc điện thoại.
– Thưa tổng thống, tôi e là không còn nhiều thời gian quyết định. Giờ họ có thể tách quỹ đạo bất cứ lúc nào. Vâng, thưa ngài, tôi biết đó là một quyết định khó khăn. Nhưng lời khuyên của tôi cũng tương tự như ngài Profitt.
Khuyên gì? Jack nghĩ và thấy hoảng loạn.
Một nhân viên Lực lượng không quân hét lên từ một trong các bảng điều khiển.
– Họ đã bắt đầu đốt nhiên liệu.
– Chúng ta không còn thời gian nữa, thưa ngài. – Gregorian nói. – Chúng tôi cần câu trả lời của ngài ngay bây giờ. – ông ta dừng lại rất lâu rồi gật đầu nhẹ nhõm. – Ngài đã có quyết định sáng suốt. Cảm ơn ngài. – ông ta gác máy và quay về phía các nhân viên thuộc Lực lượng không quân. – Hãy thực hiện phương án!
– Phương án gì? – Ellis nói. – Các người định làm gì?
Câu hỏi của ông bị lờ đi. Một nhân viên thuộc Lực lượng không quân nhấc chiếc máy và bình tĩnh ra lệnh.
– Hãy chuẩn bị EKV!
EKV là cái quái gì? Jack nghĩ. Anh nhìn thấy Todd và thấy anh ấy cũng chẳng hiểu gì về cụm từ viết tắt đó.
Điều khiển viên phụ trách đường bay Topo bước về trước bảng điều khiển của họ và nhanh chóng trả lời thắc mắc đó.
– Đó là phương tiện tiêu diệt vật thể ở tầm gần trái đất. – Anh thì thầm. – Họ sắp tiêu diệt tàu.
– Mục tiêu được bình thường hóa trước khi nó rơi vào khí quyển trái đất. – Gregorian nói.
Jack hốt hoảng đứng dậy.
– Không!
Gần như ngay lập tức, toàn bộ điều khiển viên khác rời ghế phản đối. Tiếng thét của họ át cả tiếng của Chỉ huy liên lạc, người đang hét đến mức có thể để người khác nghe thấy.
– Tôi đã liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế! Trạm đã trả lời!
Trạm vũ trụ quốc tế à? Họ vẫn ở trên trạm sao? Ai đó đã bị bỏ lại.
Jack ấn vào tai nghe và nghe giọng nói truyền về.
Đó là Emma.
– Houston, tôi là Watson trên Trạm vũ trụ quốc tế. Chuyên viên Ames không bị nhiễm bệnh. Tôi xin nhắc lại, anh ấy không bị nhiễm bệnh. Anh ấy là người duy nhất lên phương tiện di dời khẩn cấp. Tôi khẩn cấp yêu cầu các bạn cho phép anh ấy được hạ cánh an toàn.
– Rõ, Trạm vũ trụ quốc tế. – Chỉ huy liên lạc nói.
– Các vị thấy không? Chẳng có lý do gì để bắn hạ nó cả. – Ellis nói với Gregorian. – Hãy dừng việc bắn tên lửa tiêu diệt của các vị!
– Làm sao chúng tôi biết được cô Emma đó có nói thật không? – Gregorian phản đối.
– Chắc chắn cô ấy nói thật. Tại sao cô ấy phải ở lại? Cô ấy đã quên bản thân mình để kẹt lại ở đó. Phương tiện di dời khẩn cấp là chiếc thuyền cứu hộ duy nhất cô ấy có!
Những lời đó có tác động rất mạnh khiến Jack bất động. Cuộc tranh luận gay gắt giữa Ellis và Gregorian dường như bỗng biến mất. Jack không còn quan tâm đến số phận của phương tiện di dời khẩn cấp nữa. Anh chỉ nghĩ về Emma giờ đang cô độc, bị nhốt trên trạm và không có cách nào rời đó được. Cô ấy biết mình đã bị nhiễm bệnh. Cô ấy ở lại chịu chết.
Phương tiện di dời khẩn cấp đã đốt cháy xong nhiên liệu. Nó đang hạ xuống. Đường bay của nó đang hiện trên màn hình.
Chạy ngang bản đồ thế giới ở căn phòng phía trước là một đốm sáng ra-đa nhỏ. Đó chính là phương tiện di dời khẩn cấp và một người hành khách duy nhất trên đó. Giờ họ đã nghe thấy giọng nói của anh trên điện đàm.
– Đây là chuyên gia đặc vụ Luther Ames. Tôi đang tiến gần đến độ cao chuẩn bị vào trái đất, toàn bộ hệ thống hoạt động bình thường.
Nhân viên Lực lượng không quân nhìn Gregorian.
– Chúng tôi vẫn sẵn sàng phóng tên lửa tiêu diệt tầm xa.
– Các vị không cần làm vậy. – Woody Ellis nói. – Anh ấy không bị bệnh. Chúng tôi có thể đưa anh ấy về trái đất!
– Bản thân con tàu có thể đã bị nhiễm vi rút. – Gregorian nói.
– Ông không biết điều đó!
– Tôi không thể bỏ qua khả năng đó. Tôi không thể mạo hiểm với những sinh mạng trên trái đất.
– Khốn nạn, đây là một vụ giết người.
– Anh ta đã không tuân lệnh. Anh ta biết chúng ta sẽ phản ứng ra sao. – Gregorian gật đầu với nhân viên thuộc Lực lượng không quân.
– Các tên lửa tiêu diệt tầm xa đã được phóng, thưa ngài.
Cả phòng đột nhiên im lặng. Woody Ellis mặt tái xanh và run rẩy. Ông nhìn chằm chằm màn hình phía trước, nhìn đường bay nhiều tầng của tàu và nó đang chuẩn bị đến điểm vào khí quyển của trái đất.
Mỗi phút trôi qua đều im lặng đến rợn người. Ở căn phòng phía trước, một trong các nữ điều khiển viên bắt đầu sụt sịt khóc.
– Houston, tôi đang đến điểm chuyển giao. – Tất cả đều hoảng sợ khi nghe thấy giọng nói vui vẻ của Luther đột nhiên bị ngắt trên điện đàm. – Tôi sẽ rất vui nếu các bạn cử ai đó đến gặp tôi khi tôi tiếp đất, vì tôi cần ai đó giúp tôi ra khỏi bộ áo quần mặc khi phóng tên lửa này.
Không ai trả lời. Không ai dám trả lời.
– Houston? – Luther nói sau một phút im lặng. – Này, các bạn vẫn ở đó chứ?
Cuối cùng Chỉ huy liên lạc cố trả lời nhưng không thể rõ ràng được.
– Đã rõ, phương tiện di dời khẩn cấp. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một két bia chờ anh đây, anh Luther thân mến. Có cả mấy vũ công và cả nhóm làm việc…
– Tuyệt! Các bạn đã được thả lỏng kể từ lần cuối chúng ta được nói chuyện với nhau. Được rồi, có vẻ như tôi sắp mất tín hiệu rồi. Hãy giữ cho bia lạnh vào nhé, tôi…
Có tiếng điện nổ lớn. Rồi đường truyền bị cắt đứt hoàn toàn.
Tín hiệu ra-đa trên màn hình nổ tung thành các mảnh vụn sáng chói như ánh mặt trời, rồi tan vào các ảnh điểm bụi nhỏ bé.
Woody Ellis bám vào ghế, lấy tay ôm đầu.
Ngày 19 tháng 8
– Hãy duy trì liên lạc giữa vũ trụ và trái đất. – Chỉ huy liên lạc nói. – Hãy chờ, Trạm vũ trụ quốc tế.
Hãy nói chuyện với tôi, hãy nói chuyện với tôi!Emma thầm cầu xin khi cô bay trong bóng tối chập chờn ở khoang sinh hoạt. Các cánh quạt thông khí đã hỏng, giờ khoang này im lặng đến nỗi cô chỉ có thể nghe thấy tiếng mạch đập của chính mình và các chuyển động của không khí ra vào phổi cô.
Cô giật mình khi đột nhiên nghe thấy giọng nói của Chỉ huy liên lạc.
– Hãy giữ liên lạc giữa vũ trụ và mặt đất! Anh có thể chuyển tới phòng nói chuyện riêng của gia đình.
– Jack à? – cô hỏi.
– Anh ở đây, anh ở ngay đây, em yêu.
– Anh ấy không bị bệnh! Em đã nói với họ là anh ấy hoàn toàn khoẻ mạnh…
– Bọn anh đã cố ngăn việc đó lại! Đó là mệnh lệnh trực tiếp từ Nhà Trắng. Họ đã không cho chúng ta cơ hội.
– Đó là lỗi của em! – Sự mệt mỏi của cô đột nhiên biến thành nước mắt. Cô đơn độc, sợ hãi và bị ám ảnh bởi quyết định gây ra thảm họa lớn của mình. – Em nghĩ họ sẽ để anh ấy trở về. Em nghĩ đó là cơ hội tốt nhất để anh ấy sống sót trở về.
– Tại sao em ở lại, Emma?
– Em phải làm vậy. – cô hít một hơi thật sâu rồi nói. – Em đã bị nhiễm bệnh.
– Em đã tiếp xúc. Điều đó không có nghĩa là em đã bị bệnh.
– Em đã thử đo huyết áp, Jack. Nồng độ men amilaza của em đang tăng lên.
Anh không nói gì.
– Giờ em đã tiếp xúc với bệnh hơn tám tiếng. Em sẽ còn hai mươi bốn đến bốn mươi tám tiếng nữa trước khi… em không còn hoạt động được nữa. – giọng nói của cô đã bình tĩnh lại. Giờ nó có vẻ bình tĩnh lạ lùng, như thể cô đang nói vế cái chết của một bệnh nhân khác chứ không phải của chính mình. – Thời gian đó đủ để sắp xếp lại một số việc. Ném các thi thể ra ngoài. Thay đổi vài bộ lọc không khí và khiến mấy chiếc quạt hoạt động trở lại. Như vậy sẽ giúp phi hành đoàn tiếp theo dễ dọn dẹp hơn. Nếu có phi hành đoàn khác…
Jack vẫn không nói gì.
– Về những gì còn lại của em…. – giọng cô bình tĩnh đến mức nghe có vẻ lạnh nhạt, toàn bộ tình cảm đã bị nén xuống. – Khi thời cơ đến, em nghĩ điều tốt nhất em có thể làm vì Trạm vũ trụ quốc tế là đi bộ ra ngoài vũ trụ. Ở đó em sẽ không còn làm ô nhiễm bất cứ thứ gì khi em chết đi. Sau khi xác của em đã…. – cô dừng lại. – Em còn thuốc Valium và Narcotic trong tay, đủ để em chịu đựng thêm vài giờ. Em sẽ ngủ cho đến khi em hết khí thở. Anh biết không Jack, đó là cái chết không đến nỗi nào, lơ lửng bên ngoài, ngắm trái đất và những vì sao, và chỉ trôi dạt trong giấc ngủ…
Rồi cô nghe thấy tiếng anh. Anh đang khóc.
– Jack. – cô lại nói khẽ. – Em yêu anh. Em không hiểu tại sao chúng ta lại tan vỡ. Em biết chắc đó là lỗi của em.
Anh hít sâu.
– Emma, đừng nói như vậy!
– Thật ngu xuẩn khi em lại chờ đến lúc này mới nói với anh. Có lẽ anh đang nghĩ em nói bậy chỉ vì em sắp chết. Nhưng, Jack à, điều em thành tâm nhất với Chúa là…
– Em sẽ không chết. – Anh giận dữ nhắc lại điều đó.
– Em sẽ không chết.
– Anh đã nghe về kết quả của bác sĩ Roman rồi đấy. Không có cách nào hết.
– Phòng điều áp sẽ có tác dụng.
– Chắc chắn phải có cách nào đó, em phải tìm cách nào đó để tạo ra ảnh hưởng giống như phòng điều áp. Nó đã có tác dụng với những con chuột bị nhiễm bệnh. Nó giúp chúng sống sót, vì vậy nó sẽ có tác dụng gì đó. Chúng là những con duy nhất sống sót.
Không. Cô bỗng nhớ ra. Chúng không phải là những con duy nhất.
Cô từ từ quay lại, nhìn cánh cửa dẫn đến nút số 1.
Con chuột, cô nghĩ. Con chuột đó vẫn sống phải không?
– Emma?
– Chờ chút! Em sẽ kiểm tra một thứ trong phòng thí nghiệm.
Cô bay qua nút số một và vào phòng thí nghiệm của Mỹ. Mùi máu khô vẫn còn khá nặng ở trong này. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, cô vẫn thấy những vết máu bắn tung tóe trên tường. Cô bay đến khu dành cho động vật, kéo lồng chuột ra và bật đèn pin bên trong.
Ánh sáng đó chiếu rõ một cảnh tượng đáng thương. Con chuột bị phồng lên đang lên cơn quằn quại đau đớn. Chân nó duỗi thẳng, miệng ngáp ngáp hớp không khí.
Mày không thể chết được, cô nghĩ. Mày là kẻ sống sót, là trường hợp ngoại lệ chống lại quy luật đó. Mày là bằng chứng cho thấy tao vẫn còn hy vọng.
Con chuột co lại, cơ thể nó bật lên trong đau đớn. Một dòng máu cuốn quanh hai chân sau của nó và vỡ thành nhiều giọt máu cuộn tròn. Emma biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó: đó là lần giãy chết cuối cùng khi não bị biến dạng thành một hỗn hợp như bát canh dạm đã bị nghiền nát. Cô thấy một vệt máu mới ở phần lông trắng phía sau. Rồi cô thấy thứ gì đó màu hồng thò ra giữa hai chân.
Nó đang cử động.
Con chuột đang giãy giụa.
Vật màu hồng đó tìm đường ra, uốn éo và không có lông. Nó được nối ở phần bụng bằng một sợi dây lấp lánh duy nhất. Đó là dây rốn.
– Jack. – cô thì thầm. – Jack.
– Anh đây.
– Con chuột? Con cái…
– Có chuyện gì với nó?
– Trong ba tuần qua, nó đã tiếp xúc bệnh nhiều lần với Chimera mà vẫn không bị bệnh. Nó là con duy nhất còn sống.
– Nó còn sống à?
– Đúng vậy. Em nghĩ em biết lý do. Nó có chửa.
Con chuột bắt đầu quằn quại. Một con chuột khác lại chui ra và bọc trong màng máu và nước nhầy.
– Chắc chắn chuyện này đã xảy ra vào đêm Kenichi cho nó vào lồng của những con chuột đực. – cô nói. – Em đã không làm gì với nó. Em không nhận ra là…
– Tại sao có chửa lại tạo ra sự khác biệt ở đây? Tại sao nó lại miễn dịch?
Emma lơ lửng trong ánh sáng lờ mờ, cố tìm ra câu trả lời. Việc đi ra ngoài vũ trụ mới đây và cái chết của Luther khiến sức khỏe của cô đã kiệt quệ. Cô biết Jack cũng đã kiệt sức như mình. Hai bộ não mệt mỏi chống lại quả bom hẹn giờ chính là căn bệnh truyền nhiễm của cô.
– Được rồi. Hãy nghĩ về việc có chửa! – cô nói. – Đó là một tình hình sinh lý phức tạp. Nó không chỉ là sự lớn lên của bào thai. Đó là tình trạng quá trình trao đổi chất bị biến đổi.
– Các hooc-môn. Các con vật có chửa có lượng hooc-môn rất cao. Nếu chúng ta tái tạo hiện tượng đó, chúng ta có thể tái tạo việc đang diễn ra trong con chuột đó.
Liệu pháp hooc-môn. Cô nghĩ về tất cả các loại hooc-môn vận động trong cơ thể người phụ nữ mang thai. Đó là estrogen, hooc-môn giới tính duy trì thai, prolactin, chất kích dục màng đệm ở người.
– Các viên thuốc ngừa thai. – Jack nói. – Em có thể tái hiện tình trạng có thai bằng hooc-môn ngừa thai.
– Chúng ta không có thứ gì như vậy trên trạm. Nó không có trong bộ dụng cụ y tế.
– Em đã kiểm tra ngăn tủ cá nhân của Diana chưa?
– Cô ấy không thể có thuốc tránh thai mà em lại không biết. Em là nhân viên y tế. Em phải biết chứ.
– Dù sao thì cứ kiểm tra đi. Làm đi, Emma!
Cô lao ra ngoài phòng thí nghiệm. Trong khoang dịch vụ Nga, cô nhanh chóng mở các ngăn kéo tủ của Diana. Cô thấy hơi tội lỗi khi lục lọi ngăn đồ của người khác, dù người phụ nữ đó đã chết. Trong đống quần áo được gấp gọn gàng, cô tìm thấy một chỗ cất giấu kẹo an toàn. Cô không biết Diana lại thích kẹo, có nhiều điều về Diana mà cô không biết. Trong một ngăn kéo khác, cô thấy dầu gội đầu, kem đánh răng và băng vệ sinh. Không có thuốc ngừa thai.
Cô đóng sầm ngăn kéo lại.
– Trên trạm chẳng có gì em dùng được!
– Nếu bọn anh phóng tàu con thoi ngày mai, nếu bọn anh mang được hooc-môn đó cho em…
– Họ sẽ không phóng tàu! Dù anh có gửi lên cả đống thuốc thì ít nhất ba ngày mới đến chỗ em.
Trong ba ngày, cô đã gần chết rồi.
Cô bám vào ngăn tủ dính máu. Hơi thở nhanh và gấp gáp, mỗi thớ cơ của cô đều rã rời. Cô hoàn toàn tuyệt vọng.
– Vậy chúng ta sẽ giải quyết việc này theo cách khác. – Jack nói. – Emma, hãy ở bên anh trong lúc này! Anh cần em giúp anh suy nghĩ.
Cô thở mạnh.
– Em sẽ chẳng đi đâu đâu.
– Tại sao các chất hooc-môn lại có tác dụng? Cơ chế hoạt động của nó là gì? Chúng ta biết chúng là các tín hiệu hoá học. – đó là một hệ thống giao tiếp bên trong ở mức độ tế bào. Chúng hoạt động bằng cách kích thích hay hạn chế các biểu hiện của gen…. – Giờ anh suy nghĩ rất mạch lạc và để cho dòng suy luận của mình dẫn dắt anh tìm ra giải pháp. – Để hooc-môn hoạt động, nó phải được kết nối với một cơ quan cảm nhận nhất định ở tế bào nó hướng đến. Nó như một chiếc chìa khoá, đi tìm ổ khoá đúng để cắm vừa. Có thể nếu chúng ta nghiên cứu các dữ liệu của Ttrung tâm Khoa học biển, chúng ta có thể tìm ra các ADN khác mà bác sĩ Koenig đã ghép vào nhiễm sắc thể của sinh vật gốc thì chúng ta có thể tìm ra cách ngăn chặn sự sinh sản của Chimera.
– Anh biết gì về bác sĩ Helen Koenig? Cô ấy làm thí nghiệm về những vật gì khác? Đó có thể là chìa khoá cho vấn đề này.
– Bọn anh có sơ yếu lí lịch của cô ta. Bọn anh xem các bài báo đã được xuất bản của cô ta về Archaeon. Ngoài những điều đó thì cô ta vẫn là bí ẩn lớn với chúng ta. Và Ttrung tâm Khoa học biển cũng vậy. Bọn anh đang cố moi thêm thông tin.
Việc đó sẽ mất nhiều thời gian quý báu, cô nghĩ. Em không còn nhiều thời gian nữa.
Tay cô đau vì bám quá lâu vào ngăn tủ của Diana. Cô thả lỏng tay, trôi đi như thể bị cuốn đi trong đợt sóng biển vô vọng. Các vật thể trong ngăn kéo của Diana thoát ra, lơ lửng vây quanh cô trong không trung. Chúng là bằng chứng cho thấy Diana rất thích đồ ngọt. Đó là các thanh sô-cô-la hiệu M & M’s. Một gói giấy bóng kính kẹo gừng bọc đường. Đó là thứ cuối cùng Emma bỗng tập trung vào. Gừng bọc đường.
Các chất kết tinh.
– Jack. – cô nói. – Em có cách.
Tim cô đập nhanh khi cô bay khỏi khoang dịch vụ của Nga, về phía phòng thí nghiệm của Mỹ. Ở đó cô bật máy tính cho thấy các chuyến hàng được chuyển lên. Màn hình sáng màu hổ phách kỳ quái trong khoang tối tăm. Cô tìm tập dữ liệu hoạt động và nhấp vào biểu tượng có chữ ESA. Đó là Trung tâm vũ trụ châu Âu. Đây là các quá trình và nguyên liệu cần thiết để thực hiện các thí nghiệm được chuyển lên của Trung tâm vũ trụ châu Âu.
– Em đang nghĩ gì, Emma? – Jack nói trên điện đàm.
– Diana đã nghiên cứu về sự phát triển của các chất protein kết tinh, anh nhớ không? Đó là các nghiên cứu về y khoa.
– Loại protein nào? – Anh hỏi và cô biết chính xác anh đang nghĩ điều cô nghĩ.
– Em đang tra danh sách đó. Có hàng chục…
Tên của các chất protein chạy dọc màn hình lờ mờ. Con trỏ dừng lại ở mục cô đang tìm: “chất kính dục màng đệm ở người”.
– Jack. – cô nói khẽ. – Em nghĩ em đã mua thêm cho mình được chút thời gian.
– Em tìm được gì?
– Chất kích dục màng đệm ở người. Diana đang phát triển các chất kết tinh. Em phải vào phòng hạ áp suất để kiểm nghiệm nó. Chúng ở trong khoang của Trung tâm vũ trụ châu Âu, đó là khoang chân không. Nhưng nếu em bắt đầu hạ áp bây giờ, em có thể có được các chất kết tinh đó trong vòng bốn đến năm tiếng.
– Có bao nhiêu chất kích dục màng đệm ở người trên trạm?
– Em đang kiểm tra. – cô mở tập thí nghiệm và nhanh chóng xem qua các dữ liệu.
– Emma?
– Chờ đã! Chờ đã! Em có các khối chất thí nghiệm gần đây nhất. Em đang tìm chất kích dục màng đệm ở ngườibình thường khi có thai nghén.
– Anh có thể lấy thứ đó cho em.
– Không, em đã tìm ra. Được rồi, nếu em pha loãng khối chất kết tinh này vào muối thường… nhúng cả cơ thể nặng bốn mươn lăm cân của em vào đó…. – Cô gõ các con số vào. Cô đang thực hiện phép tính xấp xỉ. Cô không biết chất kích dục màng đệm ở người sẽ chuyển hoá nhanh đến mức nào hay chu kỳ nửa phân rã của nó ra sao. Câu trả lời cuối cùng xuất hiện trên màn hình.
– Còn bao nhiêu liều? – Jack hỏi.
Cô nhắm mắt. Nó sẽ không kéo dài bao lâu. Nó sẽ không cứu được em.
– Emma?
Cô thở nhẹ nhõm. Cô nói như khóc.
– Ba ngày.