Ours of opera…
Ngồi trong phòng làm việc của Kathryn Dance, và lúc này chỉ còn Jonathan Boling đang lục lọi trong chiếc máy tính của Travis Brigham, hối hả truy tìm ý nghĩa của mật mã ours of opera.
Anh đang cúi người ra phía trước, gõ bàn phím liên hồi, nghĩ thầm nếu Dance có mặt ở đây, người chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể trong cô hẳn đã rút ra được vài kết luận nhanh chóng từ tư thế cũng như vẻ tập trung của đôi mắt của mình: Anh như một chú chó đang đánh hơi con mồi.
Jon Boling đang lần ra một điều gì đó.
Hiện tại Dance và những người khác đã ra ngoài, thiết lập việc giám sát. Boling ở lại phòng làm việc của cô để lùng sục trong máy tính của cậu thiếu niên. Anh đã tìm ra một manh mối và bây giờ đang cố định vị thêm những dữ liệu cho phép mình lý giải ý nghĩa mật mã.
ours of opera…
Nó có nghĩa là gì?
Theo một khía cạnh lạ lùng thì máy tính là những cái hộp điên rồ bằng chất dẻo và kim loại, chứa đựng bên trong chúng các vết tích của dữ liệu đã bị xóa hoặc di dời. Một ổ đĩa cứng máy tính cũng giống như một mạng lưới những lối đi và hành lang bí mật, dẫn bạn ngày càng xa hơn vào trong cấu trúc bộ nhớ của máy tính. Hoàn toàn có thể – tuy rất khó khăn – xua tan những khoảng trống đó, loại bỏ chúng khỏi dấu tích của các dữ liệu trong quá khứ, song vì thông thường phần lớn các thông tin chúng ta đã tạo nên hay thu thập đã được vĩnh viễn lưu lại, vô hình và bị chia thành từng mảnh.
Boling lúc này đang lang thang trong một mê cung như thế, sử dụng một số chương trình từ đám sinh viên anh dạy để đọc những mảnh vụn dữ liệu bị kẹt lại trong những nơi tối tăm, tựa như những mảnh linh hồn vật vờ ám ảnh một ngôi nhà vậy.
Nghĩ về các bóng ma làm anh chợt nhớ tới đĩa DVD cậu con trai Kathryn Dance đã cho mình mượn tối qua. Bóng ma trong vỏ sò. Anh hồi tưởng lại quãng thời gian vui vẻ đã trải qua tại nhà cô, cũng như mình đã thích thú đến mức nào khi gặp bạn bè và gia đình Dance. Nhất là bọn trẻ. Maggie thật đáng yêu và vui vẻ, và nhiều khả năng, anh dám chắc không chút nghi ngờ rằng cô bé sẽ trở thành một phụ nữ cũng xuất sắc không kém gì mẹ mình. Wes có phần dễ tính hơn. Cậu bé thật dễ bắt chuyện và thông minh. Boling vẫn thường hình dung xem các con mình có thể sẽ thế nào nếu anh lập gia đình cùng Cassie.
Lúc này anh lại nghĩ đến cô, hy vọng cô đang hạnh phúc với cuộc sống mới của mình tại Trung Quốc.
Gạt những suy nghĩ về Cassandra sang một bên và tập trung vào cuộc săn ma trong chiếc máy tính. Anh đang tiến gần tới điều gì đó quan trọng trong chuỗi mã nhị phân được dịch sang các chữ cái tiếng Anh thành ours of opera.
Bộ óc thích giải quyết các câu đố hóc búa của Boling, thường đáng tin cậy trong việc đi tới những bước tiến kỳ lạ về suy luận và phỏng đoán, tự động kết luận rằng những từ đó là một phần của “hours of operation 1 “. Travis đã nhìn thấy những từ đó trên mạng ngay trước khi cậu ta biến mất. Ý nghĩa của phát hiện này có thể, chỉ là có thể, những từ đó liên quan tới một nơi cậu thiếu niên quan tâm đến.
Ngặt nỗi máy tính không lưu trữ các dữ liệu có liên quan với nhau ở cùng một chỗ. Phần mã của ours of opera có thể tìm thấy trong một ngăn tủ chật chội dưới tầng hầm, trong khi tên của nơi liên quan tới chúng đôi khi nằm đâu đó trên tầng áp mái. Một phần địa chỉ thực tế ở nơi này, phần còn lại ở nơi khác. Bộ óc của một máy tính liên tục đưa ra các quyết định về phân mảnh dữ liệu và lưu trữ các phân mảnh đó vào những chỗ hợp lý với nó song lại không thể hiểu nổi với người thường.
Và vậy là Boling lần theo dấu vết, mò mẫm qua những hành lang tối om đầy những hồn ma bóng quế.
Anh không nghĩ mình lại nhiệt tình tận tâm cho một dự án đến mức này từ nhiều tháng, thậm chí nhiều năm qua. Jonathan Boling ưa thích công việc ở trường đại học. Về bản chất anh là người tò mò và thích sự thách thức của nghiên cứu và viết lách, những cuộc trao đổi đầy phấn khích với các đồng nghiệp cùng trường và sinh viên, làm những con người trẻ tuổi đó có hứng thú để học hỏi. Nhìn thấy đôi mắt của một sinh viên đột nhiên sáng lên khi những chi tiết ngẫu nhiên ghép lại trong sự ngỡ ngàng thấu đáo với anh quả là một niềm vui khó tả.
Nhưng giờ đây, những thỏa mãn và thắng lợi đó dường như trở nên nhỏ bé. Hiện tại, anh đang tham gia vào một nhiệm vụ để cứu sống tính mạng con người. Không còn thứ gì khác quan trọng hơn ngoài giải mã bí ẩn này.
ours of opera…
Anh nhìn vào thêm một gian kho nữa trong căn nhà ma ám. Chẳng có gì ngoài những đống dữ liệu chồng lên nhau. Thêm một đầu mối sai nữa.
Thêm vài lần gõ phím.
Chẳng có gì.
Boling vươn vai, một khớp xương kêu răng rắc thật to. Thôi nào, Travis, tại sao cậu lại quan tâm đến nơi đó? Có gì ở nó thu hút cậu hả?
Và anh bạn vẫn còn mò đến đó chứ? Liệu có phải bạn cậu làm ở đó không? Hay anh bạn mua gì đó từ các giá hàng, tủ trưng bày của nó?
Thêm mười phút nữa.
Bỏ cuộc chăng?
Không đời nào.
Sau đó, anh lang thang vào một phần mới trong vùng phân mảng. Chớp mắt và bật cười. Cũng giống như ghép các mảnh của một bức tranh rời rạc lại với nhau, câu trả lời cho ours of opera dần định hình.
Trong khi nhìn chăm chăm vào tên của địa điểm, mối quan hệ của nó với Travis Brigham trở nên hiển nhiên tới mức lố bịch. Anh bực bội với chính mình vì đã không thể suy đoán ra nó cho dù không có đầu mối dữ liệu kỹ thuật số. Nhìn vào địa chỉ, anh lấy điện thoại ra và gọi cho Kathryn Dance. Chuông reo bốn lần rồi chuyển sang hộp thư thoại.
Boling định gửi tin nhắn, nhưng rồi nhìn lại ghi chú của mình. Địa điểm đó cũng không xa nơi anh đang ngồi là mấy. Không quá mười lăm phút.
Anh dập điện thoại với một tiếng động khẽ rồi đứng dậy, khoác áo khoác lên người.
Đưa mắt nhìn một cách vô thức về phía bức ảnh chụp Dance và các con cô cùng lũ chó thẳng góc ở giữa trung tâm khung hình, anh bước khỏi phòng làm việc và hướng ra cửa trước tòa nhà của CBI.
Ý thức được điều mình sắp làm có thể là một ý tưởng rất tệ hại, Jon Boling bỏ thế giới ảo lại sau lưng để tiếp tục cuộc tìm kiếm của anh trong thế giới thực.
° ° °
“Rõ ràng,” Rey Carraneo nói với Kathryn Dance khi anh này quay lại phòng khách, nơi cô đang ngồi cùng Donald và Lily Hawken. Khẩu súng ngắn của Dance đang nằm trong tay khi cô cảnh giác nhìn qua các khung cửa sổ và vào những căn phòng của ngôi nhà nhỏ.
Hai vợ chồng chủ nhà, choáng váng và không mỉm cười nổi, ngồi trên một chiếc ghế sô pha mới, vẫn còn được bọc trong lớp vỏ nilon của nhà sản xuất.
Dance cất khẩu Glock của mình đi. Cô không mong đợi cậu thiếu niên có mặt nơi đây – cậu ta nấp ngoài sân bên hông nhà và có vẻ đã kịp thời chạy trốn khi cảnh sát tới – song trình độ thành thạo của Travis trong trò chơi DimensionQuest cũng như kỹ năng chiến đấu của thằng nhóc khiến cô phải băn khoăn liệu có thể bằng cách nào đó nó đã làm ra vẻ bỏ chạy song kỳ thực lại lẩn vào trong.
Cửa mở, và Albert Stemple lực lưỡng ngó đầu vào. “Không thấy. Cậu ta biến rồi,” anh ta thở hổn hển, cả vì cuộc truy đuổi lẫn hậu quả còn lại từ loại hơi hít phải ở nhà Kelley Morgan. “Tôi đã cho người kiểm tra đầu phố và cuối phố. Chúng ta có thêm sáu xe nữa đang trên đường tới. Có người đã nhìn thấy một kẻ mặc áo nỉ có mũ trùm kín đầu đạp xe đạp lao qua các con hẻm về phía trung tâm. Tôi đã báo cáo. Nhưng…” Albert nhún vai. Sau đó, thám tử to con biến mất, đôi bốt nặng nề của anh ta nện xuống các bậc cầu thang trong lúc anh ta đi ra để gia nhập vào cuộc săn lùng.
Dance, Carraneo Stample và nhân viên của MCSO đã tới trước đó mười phút. Trong khi gặp gỡ với những người rất có thể đã là mục tiêu, Dance chợt nảy ra một suy nghĩ. Cô nhớ tới giả thiết của Jon Boling: Nghĩa là khi mở rộng diện mục tiêu của mình, rất có thể Travis sẽ nhắm tới cả những người đã được nhắc đến một cách tích cực trên blog, thậm chí dù những người này không hề viết gì.
Dance đã đăng nhập vào đó lần nữa và đọc qua trang chủ của blog.
Http://www.thechiltonreport.com
Một cái tên xuất hiện là Donald Hawken, người bạn cũ của James Chilton, được nhắc tới trong mục Trên sân nhà. Hawken có thể là nạn nhân Travis nhắm đến khi để lại cây thập tự trên đoạn đường lộng gió của Xa lộ 1.
Vậy là họ lái xe tới nhà Hawken với mục đích đưa ông và vợ tránh khỏi nguy hiểm, đồng thời thiết lập giám sát theo dõi tại ngôi nhà.
Nhưng khi tới nơi, Dance đã trông thấy một người đội mũ trùm đầu, có vẻ như cầm một khẩu súng, lần mò giữa các bụi cây bên hông ngôi nhà. Cô đã cử Albert Stemple cùng người nhân viên của MCSO đuổi theo kẻ xâm nhập, còn Rey Carraneo, với Dance bám theo sau, lao vào trong nhà, súng chĩa ra sẵn sàng, để bảo vệ Hawken và vợ ông ta.
Hai người họ vẫn còn run rẩy vì chấn động; họ đã tưởng Carraneo là tên sát nhân khi anh mặc thường phục xông vào qua cửa, súng giơ cao.
Chiếc Motorola của Dance rung lên, cô trả lời. Lại là Stemple. “Tôi đang ở ngoài sân sau. Tìm thấy một cây thập tự cắm vào vạt đất này, với những cánh hoa hồng rải xung quanh.”
“Đã nhận rõ, Al.”
Lily nhắm mắt lại, gục đầu tựa lên vai chồng cô.
Bốn hay năm phút, Dance thầm nghĩ. Nếu họ đến đây muộn thêm chừng ấy thời gian, cặp vợ chồng này hẳn đã chết.
“Sao lại là chúng tôi?” Hawken hỏi. “Chúng tôi chẳng làm gì cậu ta cả. Chúng tôi không hề đăng bài. Thậm chí chúng tôi còn chẳng biết cậu ta.”
Dance giải thích về chuyện cậu thiếu niên đang mở rộng đối tượng mục tiêu.
“Ý cô là bất cứ ai từng được nhắc đến trên blog đều đang gặp nguy hiểm?”
“Có vẻ là vậy.”
Rất nhiều cảnh sát đã đổ về khu vực này chỉ trong vòng vài phút, song những cuộc gọi báo cáo về đều nói rõ không thấy Travis đâu.
Bằng cách quái quỷ nào một cậu nhóc đi xe đạp có thể chuồn được chứ? Dance thầm nghĩ đầy thất vọng. Chỉ đơn giản là cậu ta biến mất. Nhưng đến đâu chứ? Tầng hầm nhà ai đó chăng? Hay một công trường xây dựng bỏ hoang?
Bên ngoài, những chiếc xe đầu tiên của giới báo chí bắt đầu mò đến nơi, những chiếc bán tải với chảo vệ tinh gắn trên nóc, các tay máy quay bắt đầu khởi động thiết bị của bọn họ. Chuẩn bị để hâm nóng hơn nữa cơn hoảng loạn trong thành phố.
Và cũng có thêm cảnh sát xuất hiện, trong đó có vài nhân viên tuần cảnh đi xe đạp.
Lúc này Dance hỏi Hawken, “Ông vẫn còn giữ ngôi nhà của mình ở vùng San Diego chứ?”
Lily đáp, “Nó đang được rao bán. Vẫn chưa ai mua.”
“Tôi muốn hai người quay trở lại đó.”
“À,” người chồng nói, “ở đó không còn đồ đạc gì nữa. Nó đã được niêm phong.”
“Ông bà quen ai có thể ở nhờ không?”
“Bố mẹ chồng tôi. Các con của Donald hiện vẫn đang sống cùng họ.”
“Vậy hãy quay lại đó cho tới khi chúng tôi tìm thấy Travis.”
“Tôi đoán là chúng tôi có thể,” Lily nói.
“Em hãy đến đó,” Hawken nói với vợ. “Anh không thể bỏ rơi Jim.”
“Ông không thể làm gì để giúp Jim được đâu,” Dance nói.
“Chắc chắn là có đấy. Tôi có thể động viên tinh thần cho anh ấy. Hiện tại là một thời điểm kinh khủng. Anh ấy cần những người bạn.”
Dance nói tiếp. “Tôi tin chắc ông ấy đánh giá cao tình bạn chân thành này, nhưng hãy nhìn vào những gì vừa xảy ra. Cậu thiếu niên đó biết ông sống ở đâu và rõ ràng muốn làm tổn thương các vị.”
“Cô có thể bắt được cậu ta sau nửa giờ nữa.”
“Cũng có thể là không. Tôi thực sự cần yêu cầu ông, Hawken.”
Người đàn ông thể hiện ra một chút chất thép của một doanh nhân. “Tôi sẽ không bỏ mặc anh ấy,” vẻ gay gắt biến mất khỏi giọng của Hawken khi ông ta nói thêm, “Tôi cần phải giải thích một chuyện.” Một cái liếc mắt thật nhanh về phía người vợ. Một chút ngập ngừng, “Người vợ đầu của tôi, Sarah, qua đời hai năm trước.”
“Tôi rất tiếc.”
Một cái nhún vai cho qua mà Dance hiểu quá rõ.
“Jim bỏ hết mọi thứ; chỉ trong vòng một giờ anh ấy đã có mặt trước cửa nhà tôi. Anh ấy ở bên tôi và bọn trẻ suốt một tuần. Giúp chúng tôi và gia đình Sarah trong mọi việc. Đồ ăn, thu xếp tang lễ. Thậm chí còn làm việc nhà và giặt đồ. Lúc ấy tôi hoàn toàn bị tê liệt. Tôi không thể làm được gì. Tôi nghĩ hồi ấy có lẽ anh ấy đã cứu cả tính mạng mình. Và chắc chắn anh ấy đã cứu vớt sự tỉnh táo của tôi.”
Thêm một lần nữa, Dance không thể dẹp sang bên hồi ức về những tháng đầu tiên sau cái chết của chính chồng cô – khi Martine Christensen, cũng giống như Chilton, đã có mặt bên cô. Dance sẽ không bao giờ làm hại chính mình, cô không thể khi vẫn còn các con, nhưng đã có rất nhiều lúc, phải, cô đã nghĩ có thể mình sắp hóa điên.
Nữ đặc vụ hiểu rõ sự trung thành của Donald Hawken.
“Tôi sẽ không rời đi,” người đàn ông kiên quyết nhắc lại. “Có đòi hỏi thêm cũng vô ích.” Sau đó ông ôm lấy vợ. “Nhưng em hãy quay lại đó. Anh muốn em đi.”
Không một chút chần chừ, Lily nói, “Không, em ở lại với anh.”
Dance để ý thấy cái nhìn đó. Tôn thờ, hài lòng, quyết tâm… Chính tim cô đập rộn lên trong lúc thầm nghĩ, ông ta đã mất người vợ đầu tiên, đã hồi phục lại được và thêm lần nữa tìm thấy tình yêu.
Chuyện đó có thể xảy ra, Dance nghĩ. Thấy chưa?
Rồi cô tạm đóng cánh cửa cuộc sống riêng tư lại.
“Được thôi,” cô miễn cưỡng đồng ý. “Nhưng hai người cần rời khỏi đây ngay bây giờ. Tìm lấy một khách sạn và ở yên đó, tránh lộ mặt. Chúng tôi sẽ cử một người đến bảo vệ hai ông bà.”
“Được đấy.”
Đúng lúc ấy một chiếc xe phanh kít dừng lại trước ngôi nhà, một giọng nói lớn tiếng vang lên hoảng hốt. Dance và Carraneo bước vội ra cửa.
“Không sao đâu,” Albert Stemple nói, giọng uể oải kéo dài ra, chỉ thiếu mỗi khẩu âm miền Nam. “Chỉ là Chilton thôi.”
Ông chủ Bản tin có vẻ vừa biết tin và đã hối hả tìm đến. Ông ta vội vã bước lên các bậc cấp. “Có chuyện gì xảy ra vậy?” Dance ngạc nhiên khi nghe thấy vẻ hốt hoảng trong giọng nói của ông. Trước đây cô từng phát hiện thấy sự tức giận, nhỏ nhen và cả ngạo mạn, song âm thanh này thì chưa bao giờ. “Họ ổn cả chứ?”
“Ổn cả,” cô nói. “Travis đã ở đây, song Donald vẫn ổn. Cả vợ ông ấy cũng vậy.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” cổ áo khoác của ông ta xộc xệch lệch hẳn sang một bên.
Hawken và Lily bước ra ngoài. “Jim!”
Chilton chạy tới ôm lấy người bạn của ông. “Anh không sao chứ?”
“Không sao. Cảnh sát đã đến kịp lúc.”
“Các vị đã bắt được cậu ta chưa?” Chilton hỏi.
“Chưa,” Dance nói, trông đợi Chilton tuôn ra một tràng chỉ trích họ vì không bắt được cậu thiếu niên. Nhưng ông ta chỉ cầm lấy tay cô và nắm chặt. “Cảm ơn, cảm ơn mọi người. Các vị đã cứu sống họ. Cảm ơn.”
Cô lúng túng gật đầu và buông tay ông ta ra. Sau đó Chilton quay sang Lily với một nụ cười tò mò.
Dance đoán hai người chưa bao giờ gặp nhau trực tiếp trước đây. Hawken lúc này giới thiệu họ với nhau, và Chilton vồn vã ôm hôn Lily. “Tôi rất xin lỗi về chuyện này. Tôi không bao giờ nghĩ nó lại có thể ảnh hưởng đến hai người.”
“Ai có thể lường được chứ?” Hawken hỏi.
Vừa cười buồn, Chilton vừa nói với bạn mình, “Bằng một màn chào đón tới Bán đảo Monterey như thế này, hẳn vợ anh chẳng muốn ở lại. Chắc cô ấy sẽ chuyển đi ngay ngày mai mất thôi.”
Cuối cùng Lily cũng dè dặt mỉm cười. “Tôi cũng muốn lắm. Có điều chúng tôi đã mua rèm cửa rồi,” cô hướng đầu về phía ngôi nhà.
Chilton bật cười. “Bà nhà thật vui tính đấy, Don. Sao cô ấy không ở lại còn anh quay về San Diego nhỉ?”
“E là anh bị mắc kẹt với cả hai chúng tôi rồi.”
Sau đó Chilton trở nên nghiêm túc. “Hai người cần rời khỏi đây cho tới khi chuyện này kết thúc.”
Dance giải thích. “Tôi cũng đã cố thuyết phục họ làm vậy.”
“Chúng tôi sẽ không đi.”
“Don…” Chilton bắt đầu nói.
Nhưng Hawken bật cười, gật đầu về phía Dance. “Tôi được cảnh sát cho phép rồi. Cô này đã đồng ý. Chúng tôi sẽ đến ẩn náu ở một khách sạn. Giống như Bonnie và Clyde vậy.”
“Nhưng…”
“Không nhưng gì hết, ông bạn. Chúng tôi ở đây rồi. Anh không thể tống khứ chúng tôi đi được đâu.”
Chilton định mở miệng phản đối, nhưng rồi nhận thấy nụ cười gượng gạo của Lily. Cô nhẹ nhàng, “Tôi e anh sẽ không thể khuyên bảo cô gái này những gì nên làm đâu, Jim.”
Ông ta lại bật cười. “Quả vậy. Cảm ơn các bạn. Hãy chuyển tới một khách sạn. Ở yên tại đó. Sau một hay hai ngày nữa tất cả chuyện này sẽ kết thúc. Mọi thứ sẽ trở lại bình thường.”
Hawken nói, “Tôi vẫn chưa gặp lại Pat và các cậu bé kể từ khi chuyển đi. Cũng đã hơn ba năm rồi.”
Dance đưa mắt nhìn Chilton. Còn một điều nữa ở ông ta cũng khác hẳn. Cô có ấn tượng mình đang nhìn thấy mặt nhân bản của con người này lần đầu tiên, như thể biến cố thiếu chút nữa đã trở thành bi kịch vừa ban nãy đã đẩy ông ta rời xa hơn khỏi thế giới ảo để trở về với thực tại.
Cuộc thánh chiến lúc này hoàn toàn vắng bóng, cho dù là tạm thời.
Cô để những người bạn cũ ở lại hàn huyên cùng nhau và đi vòng ra đằng sau. Một giọng nói vang lên từ trong bụi cây làm cô giật mình. “Xin chào.”
Cô ngoái lại đằng sau và thấy người cảnh sát trẻ đã giúp đỡ họ, David Reinhold.
“Chào cậu.”
Anh ta mỉm cười. “Cứ gọi tôi là David. Tôi nghe nói Travis đã ở đây. Thiếu chút nữa mọi người đã tóm được.”
“Chúng tôi đã ở rất gần. Nhưng vẫn chưa đủ.”
Người nhân viên điều tra mang theo mấy cái va li kim loại đã cũ và trầy xước, bên cạnh có ghi MCSO – CSU 2. “Xin lỗi vì tôi không thể nói được gì chắc chắn về mấy cành cây ở sân sau nhà bà, cây thập tự đó.”
“Cả tôi cũng vậy. Có thể chỉ là tình cờ thôi. Nếu tôi cắt tỉa cây cối đúng như đáng ra phải làm, chuyện đó hẳn đã chẳng bao giờ xảy ra.”
Đôi mắt cậu cảnh sát trẻ sáng lên nhìn về phía cô. “Bà có ngôi nhà đẹp lắm.”
“Cảm ơn cậu. Bất chấp phần sân sau luộm thuộm.”
“Không. Trông nó thực sự rất dễ chịu.”
Cô hỏi người nhân viên điều tra, “Còn cậu thì sao, David? Cậu sống ở Monterey à?”
“Trước đây thì đúng thế. Tôi có bạn cùng phòng, nhưng cậu ấy rời đi, vậy là tôi buộc phải chuyển tới Marina.”
“À, rất cảm ơn nỗ lực của cậu. Tôi sẽ nói vài lời với Michael O’Neil.”
“Thật chứ, Kathryn? Thế thì hay quá,” cả khuôn mặt cậu ta sáng bừng.
Reinhold quay đi và bắt đầu phong tỏa khu sân sau lại. Dance nhìn chằm chằm vào thứ nằm ở giữa một khoảng hình thang được quây lại bằng dải băng vàng: Cây thập tự cắm sâu xuống đất với những cánh hoa nằm rải rác.
Từ chỗ đó, đôi mắt cô ngước lên nhìn theo sườn dốc thoai thoải của những ngọn đồi tại Monterey xuống dưới vịnh, nơi có thể nhìn thấy một mảng mặt nước.
Một tầm nhìn bao quát thật đẹp.
Song hôm nay dường như trông nó cũng đầy đe dọa chẳng kém gì cái mặt nạ khủng khiếp của Qetzal, con quỷ trongDimensionQuest.
Cậu đang ở đâu đó ngoài kia, Travis.
Nhưng ở đâu, ở đâu?
——————————–
1 Thời gian hoạt động.
2 Sở Cảnh sát Monterey – Đội điều tra hiện trường.