Cây Thập Tự Ven Đường

CHƯƠNG 35



Kathryn Dance đã quay lại trụ sở của CBI. Cô thất vọng khi được biết Jonathan Boling đã về Santa Cruz. Nhưng vì anh đã tìm ra khám phá quan trọng nhất của mình – Stryker, à phải, Jason – nên lúc này cũng không có gì nhiều nữa để anh làm.
Rey Carraneo gọi về với vài tin đáng quan tâm. Anh chàng cho hay Clint Avery đã rời khỏi công ty của ông ta trước đó mười phút. Đặc vụ đã bám theo ông ta dọc các con đường lộng gió của những Đồng cỏ Nhà trời, cái tên huyền thoại đậm chất văn học mà John Steinbeck đã đặt cho vùng đất nông nghiệp tươi tốt phì nhiêu này. Trên chuyến hành trình ông ta dừng lại hai lần bên vệ đường. Cả hai lần, ông chủ thầu xây dựng đều gặp ai đó. Lần thứ nhất, hai người đàn ông bộ dạng lầm lì – ăn mặc như cao bồi – đi một chiếc bán tải kỳ cục. Lần thứ hai, một người đàn ông tóc bạc mặc một bộ vest kiểu cách, ngồi sau tay lái chiếc Cadillac. Những cuộc gặp gỡ dường như có vẻ đáng ngờ khiến Avery tỏ ra bồn chồn thấy rõ. Carraneo đã ghi lại biển số xe và cho tìm kiếm thông tin liên quan.
Lúc này Avery đang đi về phía Carmel, Carraneo đang bám ngay sau ông ta.
Dance cảm thấy nản. Cô đã hy vọng cuộc gặp của mình với Avery sẽ đánh động ông chủ thầu xây dựng – ép ông ta vội vàng lao tới một ngôi nhà an toàn nào đó, nơi cất giấu bằng chứng – và có thể cả Travis nữa.
Nhưng thực tế đã không diễn ra như thế.
Dẫu vậy, những người Avery đã gặp hoàn toàn có thể là những tay đâm thuê chém mướn đứng đằng sau mấy vụ giết người. Các thông tin về đăng ký xe sẽ có thể cung cấp cho cô vài manh mối, nếu không phải câu trả lời.
TJ tựa đầu vào khung cửa phòng cô. “Này, sếp, sếp vẫn quan tâm đến Hamilton Royce chứ?”
Người nhiều khả năng trong lúc này cũng đang ngẫm nghĩ xem nên làm thế nào để hủy hoại tan tành sự nghiệp của cô. “Cho tôi précis 1 một phút nhé.”
“Cái gì?” TJ hỏi.
“Khái quát. Tóm tắt. Tiêu hóa.”
“‘Précis’ là một từ à? Quả là ngày nào cũng học được điều mới… Được rồi. Royce là một cựu luật sư. Rời bỏ công việc hành nghề một cách bí ẩn và nhanh chóng. Ông ta là một tay rất cứng cựa. Làm việc chủ yếu với sáu hay bảy cơ quan khác nhau của tiểu bang. Danh nghĩa chính thức của ông ấy là thanh tra. Một cách không chính thức ông ta là chuyên gia chỉnh đốn. Cô xem phim Michael Clayton rồi chứ?”
“Có Geogre Clooney đóng, có chứ. Hai lần.”
“Hai lần?”
“George Clooney.”
“À. Thế này nhé, đó chính là việc Royce làm. Gần đây ông ta đã làm rất nhiều việc cho các nhân vật cao cấp tại văn phòng phó thống đốc, Ủy ban Năng lượng tiểu bang, EPA 2 và Ủy ban Tài chính Quốc hội. Nếu nơi nào có vấn đề, ông ta sẽ xuất hiện ở đó.”
“Kiểu vấn đề gì vậy?”
“Những bất đồng giữa các ủy ban, những vụ bê bối, quan hệ công chúng, tham nhũng, tranh chấp về hợp đồng. Tôi vẫn đang chờ để được hồi đáp thêm chi tiết.”
“Hãy cho tôi biết nếu có thứ gì có thể sử dụng,” cô lựa chọn một trong những động từ ưa thích của ông ta.
“Sử dụng? Để làm gì?”
“Giữa Royce và tôi, chúng tôi có chút xung đột.”
“Vậy là sếp muốn đe dọa ông ta?”
“Nói thế to tát quá. Hãy nói đơn giản là tôi muốn giữ chỗ làm của mình.”
“Tôi cũng muốn cô giữ được chỗ làm, thưa sếp. Sếp giúp tôi thoát tội giết người. À, còn với Avery thì sao rồi?”
“Rey đang làm cái đuôi của ông ta.”
“Cách nói hay đấy. Nghe cũng ngang với ‘làm cái bóng’.”
“Thế còn tiến trình điều tra theo danh sách đối tượng tình nghi của Chilton đến đâu rồi?”
TJ cho biết việc lần theo dấu vết những người này đang diễn ra rất chậm chạp. Nhiều người đã chuyển nhà, không có địa chỉ, hoặc không có nhà, rồi nhiều cái tên đã thay đổi.
“Hãy chuyển cho tôi một nửa,” cô yêu cầu. “Tôi cũng sẽ tham gia tìm kiếm.”
Người đặc vụ trẻ đưa cho cô một tờ giấy. “Tôi sẽ cho sếp bản danh sách ngắn,” anh ta nói, “vì cô là sếp ưa thích của tôi.”
Dance nhìn qua những cái tên, tự hỏi tốt nhất nên tiến hành điều tra như thế nào. Trong tâm trí cô chợt vang lên những lời nói của Jon Boling. Chúng ta để lộ ra quá nhiều thông tin về bản thân trên mạng. Quá quá nhiều.
Kathryn Dance quyết định sẽ tìm hiểu sau từ các cơ sở dữ liệu chính thống – Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia, Chương trình Theo dõi Tội phạm Bạo lực, Cơ sở dữ liệu mở về các lệnh bắt giam ở California cũng như cơ sở dữ liệu được cập nhật rất đầy đủ về hồ sơ đăng ký phương tiện giao thông.
Trong lúc này, cô sẽ bám lấy Google đã.
 
° ° °
 
Greg Schaeffer quan sát James Chilton, người đang ngồi trước mặt y, vô cùng sợ hãi và bê bết máu.
Schaeffer đã dùng cái tên giả Greg Ashton để tiếp cận Chilton mà không gây ra sự nghi ngờ.
Vì cái tên “Schaeffer” rất có thể sẽ khiến ông chủ blog cảnh giác. Nhưng cũng hoàn toàn có thể là không; Schaeffer sẽ không thấy ngạc nhiên chút nào nếu Chilton thường xuyên quên đi những nạn nhân đã phải chịu khổ sở vì blog của ông ta.
Ý nghĩ này càng làm Schaeffer nổi điên hơn, và khi Chilton bắt đầu lúng búng, “Tại sao…?” y lại nện ông ta lần nữa.
Đầu bị hất ngược ra sau, đập vào phần trên lưng ghế làm ông ta rên lên. Rất tuyệt, nhưng vẫn còn chưa có vẻ kinh hoàng đến mức khiến Schaeffer thấy thỏa mãn.
“Ashton! Sao ông lại làm chuyện này?”
Schaeffer cúi người ra trước, túm chặt lấy cổ áo Chilton. Y thì thào, “Mày sẽ đọc một bản tuyên bố. Nếu những điều mày nói nghe không có vẻ chân thành, không có vẻ hối hận, vợ mày sẽ chết. Các con mày cũng thế. Tao biết chúng nó sắp từ trại hè quay về nhà. Tao đã theo dõi chúng. Tao biết rất rõ thời gian biểu.”
Y quay sang vợ Chilton. “Và tao biết ông anh mày đang đi cùng chúng nó. Hắn là một gã đô con đấy, nhưng cũng không phải là áo chống đạn.”
“Ôi Chúa ơi, không!” Patrizia kêu lên thảng thốt, rồi òa khóc. “Làm ơn đừng!”
Và đến lúc này, cuối cùng nỗi sợ hãi thực sự cũng hiện lên trên mặt Chilton. “Không, đừng làm hại gia đình tôi! Làm ơn, làm ơn… Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn. Chỉ cần đừng làm hại họ.”
“Hãy đọc bản tuyên bố và làm sao để có vẻ thực sự mày có ý đó,” Schaeffer cảnh cáo, “Rồi tao sẽ để bọn họ được yên. Tao sẽ cho mày hay, Chilton, với họ tao chỉ có sự thông cảm. Họ xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn so với việc phải dính dáng với một bãi phân thối tha như mày.”
“Tôi sẽ đọc,” Chilton nói. “Nhưng ông là ai? Sao ông lại làm việc này? Ông nợ tôi một câu trả lời.”
Schaeffer lập tức nổi khùng. “Nợ mày?” y gầm lên, “Nợ mày ư? Đồ đê tiện ngạo mạn!” Y nện thẳng nắm đấm vào má Chilton một lần nữa, làm ông ta choáng váng. “Tao chẳng nợ mày gì hết,” kẻ tấn công cúi người ra và gằn giọng. “Tao là ai, tao là ai ư? Mày có biết ai đã bị mày hủy hoại cuộc đời không hả? Không, tất nhiên là không rồi. Vì mày ngồi trong cái ghế mắc dịch đó, cách cuộc sống thực cả một triệu dặm, và ba hoa bất cứ cái gì mày muốn nói. Mày gõ mấy chữ thối tha trên bàn phím của mày, gửi vung vãi đi khắp thế giới và rồi mày lại nhắm vào thứ khác. Liệu khái niệm hậu quả có ý nghĩa gì với mày không hả? Hay trách nhiệm?”
“Tôi cố gắng tỏ ra chính xác. Nếu tôi làm sai gì đó…”
Schaeffer nổi xung. “Mày là đồ mù quáng chết tiệt. Mày không hiểu rằng mình có vẻ đúng nhưng lại vẫn sai. Liệu mày có nhất thiết phải phanh phui hết mọi bí mật trên thế giới này ra không hả? Hay mày nhất thiết phải hủy hoại cuộc đời người khác chẳng vì lý do nào – ngoại trừ kết quả bình chọn xếp hạng cho mày?”
“Làm ơn!”
“Liệu cái tên Anthony Schaeffer có ý nghĩa gì với mày không hả?”
Đôi mắt Chilton nhắm lại trong khoảnh khắc. “Ôi!”
Khi ông ta mở mắt ra, trong đó tràn ngập sáng tỏ, và có lẽ cả ân hận. Song điều đó chẳng hề làm Schaeffer mảy may xúc động.
Ít nhất Chilton còn nhớ người ông ta đã hủy hoại.
Patrizia hỏi, “Ai vậy? Ông ta muốn nhắc đến ai vậy, Jim?”
“Hãy nói cho vợ mày biết đi, Chilton.”
Ông ta thở dài. “Đó là một người đồng tính đã tự sát sau khi bị anh vạch trần mấy năm trước. Và ông ấy là…?”
“Anh trai tao,” giọng của kẻ tấn công lạc đi.
“Tôi xin lỗi.”
“Xin lỗi,” Schaeffer mỉa mai.
“Tôi xin lỗi vì những gì đã xảy ra. Tôi không bao giờ muốn ông ấy phải chết! Ông cần phải biết thế. Tôi đã cảm thấy thật kinh khủng.”
Schaeffer quay sang Patrizia, “Chồng bà, tiếng nói của đạo đức và công lý toàn cầu, không muốn một mục sư trong nhà thờ lại đồng thời là một người đồng tính.”
Chilton phản đối, “Đó không phải là lý do. Hắn dẫn đầu một chiến dịch phản đối hôn nhân đồng tính nam rất rầm rộ ở California. Tôi tấn công vào sự đạo đức giả của hắn chứ không phải xu hướng tình dục. Và cả thói vô đạo đức của hắn nữa. Mặc dù đã kết hôn, có con… nhưng khi đi công chuyện, hắn lại gọi trai bao tới phục vụ mình. Hắn lừa dối vợ mình, đôi lúc với ba người đàn ông khác trong một đêm!”
Vẻ thách thức của Jim đã quay trở lại, và Schaeffer muốn nện ông ta lần nữa, rồi là y lại làm thế, thật nặng tay và nhanh chóng.
“Tony đã tranh đấu để tìm ra con đường của Chúa. Anh ấy đã trượt ngã vài lần. Và mày viết về chuyện đó như thể anh ấy là một con quái vật vậy! Mày thậm chí chưa bao giờ cho anh ấy một cơ hội để giải thích. Chúa đã giúp anh ấy tìm ra con đường.”
“À, Chúa đã không làm được tốt cho lắm. Không phải là…”
Nắm đấm lại nện xuống.
“Jim, đừng đôi co với gã nữa. Làm ơn!”
Chilton cúi đầu xuống. Cuối cùng trông ông ta có vẻ tuyệt vọng và tràn ngập phiền muộn, sợ hãi.
Schaeffer khoan khoái cảm nhận nỗi tuyệt vọng của ông ta.
“Hãy đọc bản tuyên bố đi.”
“Được thôi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn. Tôi sẽ đọc. Nhưng gia đình tôi… làm ơn,” vẻ thống khổ tột cùng trên khuôn mặt Chilton chẳng khác gì hương vị của rượu vang hảo hạng với Schaeffer.
“Tao hứa với mày điều đó,” y nói ra câu này một cách chân thành, cho dù đang nghĩ Patrizia chắc sẽ không sống lâu hơn chồng bà quá hai giây – mà nói cho cùng đây cũng là một hành động nhân đạo. Bà sẽ không muốn tiếp tục sống một mình. Hơn nữa, người phụ nữ này còn là nhân chứng.
Về phần lũ trẻ, y sẽ không giết chúng. Thứ nhất, theo dự kiến phải gần một giờ đồng hồ nữa chúng mới về đến nhà, lúc ấy y đã chuồn từ lâu. Bên cạnh đó, y muốn có sự đồng cảm của thế giới. Giết tay chủ blog và vợ hắn là một chuyện, lũ trẻ lại là chuyện khác.
Phía dưới máy quay, Schaeffer dã dán một mảnh giấy có ghi bản tuyên bố y đã viết sáng hôm đó. Một lời tuyên bố đầy xúc động – được soạn thảo theo cách như để đảm bảo sẽ không ai có thể liên hệ giữa tội ác và y.
Chilton hắng giọng rồi nhìn xuống. Ông bắt đầu đọc. “Đây là một lời tuyên bố…” giọng ông ta đứt quãng.
“Tuyệt vời!” Schaeffer tiếp tục cho máy quay hoạt động.
Chilton bắt đầu lại, “Đây là một lời tuyên bố gửi tới những ai từng đọc blog của tôi, Bản tin Chilton, trong những năm qua. Không có gì trên thế gian này quý giá hơn danh tiếng của một con người, còn tôi đã dành cuộc đời mình để hủy hoại một cách vô ích và ngẫu nhiên danh tiếng của nhiều công dân đàng hoàng, chính trực.”
Ông ta đã làm thực sự tốt.
“Thật dễ để mua một cái máy tính rẻ tiền, một trang web và một phần mềm tạo blog nào đó, vậy là chỉ trong năm phút bạn đã có một không gian để bày tỏ quan điểm cá nhân của mình – một nơi sẽ được hàng triệu người trên khắp thế giới biết đến. Điều này dẫn tới một cảm giác thật mê người về quyền lực. Nhưng đó không phải là một quyền lực có được một cách chính đáng. Đó là một thứ quyền lực bị đánh cắp.”
“Tôi đã viết nhiều điều về người khác mà thực ra những lời lẽ đó chỉ đơn thuần là những tin đồn. Những tin đồn này lan rộng, và rồi chúng được thừa nhận như sự thật, cho dù đó chỉ là những lời dối trá không hơn không kém. Vì blog của tôi mà cuộc sống của một thiếu niên… Travis Brigham… đã bị hủy hoại. Cậu thiếu niên đó chẳng còn gì để làm mục đích sống nữa. Và tôi cũng thế. Cậu ấy đã tìm kiếm công bằng với việc chống lại những ai đã công kích mình, những người đồng thời cũng là bạn tôi. Và giờ đây chàng trai trẻ tới tìm tôi để đòi lại công lý. Tôi là người phải chịu trách nhiệm tối hậu về cuộc đời bị hủy hoại của cậu ấy.”
Những giọt nước mắt lộng lẫy đang lăn xuống trên mặt Chilton. Schaeffer như bay bổng trên tận thiên đường.
“Giờ đây, tôi thừa nhận trách nhiệm về việc hủy hoại danh tiếng của Travis cũng như của những người đã bị tôi viết bài công kích một cách bất cẩn. Bản án lúc này Travis dành cho tôi sẽ là lời cảnh tỉnh cho những kẻ khác: Sự thật là thiêng liêng. Tin đồn không phải là sự thật… Và bây giờ, tạm biệt.”
Chilton hít thật sâu và đưa mắt nhìn người vợ.
Schaeffer thấy thỏa mãn. Người đàn ông kia đã làm rất tốt. Y dừng webcam lại và kiểm tra màn hình. Chỉ có hình ảnh của Chilton. Còn vợ ông ta thì không. Y không muốn hình ảnh cái chết của người phụ nữ, chỉ tay chủ blog là đủ. Y kéo lùi máy quay lại chút ít để toàn bộ cơ thể người đàn ông đều nằm trong khuôn hình.
Y sẽ bắn tay này một phát, vào đúng tim, và để hắn chết trước máy quay, sau đó tải đoạn phim đăng lên một số trang mạng xã hội và những blog khác. Schaeffer ước tính sẽ mất hai phút để đoạn video xuất hiện trên YouTube, và sẽ có vài triệu người xem qua nó trước khi công ty chủ quản gỡ đoạn phim xuống. Nhưng đến lúc ấy, những phần mềm lậu cho phép tải các đoạn video về máy hẳn đã tìm thấy nó, và đoạn phim hẳn đã lan rộng khắp thế giới như những tế bào ung thư.
“Người ta sẽ tìm thấy ông,” Chilton lẩm nhẩm. “Cảnh sát.”
“Nhưng chúng sẽ không tìm tao. Chúng sẽ tìm Travis Brigham. Và thành thực mà nói, tao không nghĩ lại có ai sẽ tìm kiếm quá ráo riết. Mày có vô khối kẻ thù, Chilton.”
Y chĩa súng ra.
“Không!” Patrizia cuống cuồng khóc lóc tuyệt vọng. Schaeffer cố cưỡng sự thôi thúc muốn bắn bà ta trước.
Y hiên ngang giơ súng nhằm vào mục tiêu của mình, nhận thấy vẻ cam chịu và dường như cả một nụ cười mỉa mai vừa thoáng lướt qua trên khuôn mặt Chilton.
Schaeffer bấm nút “Ghi” trên máy quay lần nữa và bắt đầu siết cò.
Đúng lúc đó y nghe thấy. “Đứng im!”
Giọng nói vọng vào từ khung cửa đang mở của phòng làm việc. “Ném vũ khí xuống. Ngay lập tức!”
Giật mình, Schaeffer liếc nhìn lại. Một người đàn ông La Tinh trẻ cao gầy mặc sơ mi trắng, hai tay áo xắn lên. Đang chĩa súng về phía y. Bên hông anh ta đeo phù hiệu cảnh sát.
Không! Làm thế nào bọn họ tìm ra y được?
Schaeffer giữ khẩu súng chĩa thẳng vào ngực ông ta và lên giọng quát người cảnh sát, “Mày bỏ súng xuống!”
“Hạ súng xuống,” người cảnh sát bình tĩnh đáp lại. “Đây là lần cảnh cáo duy nhất dành cho ông.”
Schaeffer gầm lên, “Nếu mày bắn tao, tao sẽ…”
Y nhìn thấy một chớp sáng vàng lóe lên, cảm thấy một cú va đập vào đầu mình, rồi sau đó tất cả trở nên tối đen.
——————————–
1 Chính xác (tiếng Pháp).
2 Enviromental Protection Agency: Cục Bảo vệ Môi trường Liên bang Mỹ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.