Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu
18. Cách mạng Mỹ
Tôi là người tin vào cái triết lý về năm cây xăng trên thế giới. Đúng thế: tôi tin rằng bạn có thể rút gọn các nền kinh tế thế giới ngày nay thành năm cây xăng khác nhau.
Trước hết là cây xăng Nhật Bản. Giá 5 đô-la một gallon. Bốn nhân viên mặc đồng phục và đeo găng tay trắng, hưởng biên chế suốt đời, phục vụ bạn. Họ bơm xăng vào xe của bạn. Họ thay dầu. Họ rửa kính xe, và họ vẫy theo bạn với những nụ cười, bạn ra đi thảnh thơi.
Cây xăng thứ hai nằm ở Mỹ. Giá xăng chỉ có 1 đôla một gallon, nhưng bạn phải tự bơm lấy xăng, tự rửa kính xe, tự bơm lốp xe. Và khi bạn lái xe ra khỏi đó thì có những kẻ vô gia cư sẽ nhăm nhăm để vặt nắp đậy bánh xe của bạn.
Cây xăng thứ ba ở Tây Âu. Giá xăng cũng là 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên ra phục vụ. Anh ta miễn cưỡng bơm xăng cho bạn, phụng phịu thay dầu, và cằn nhằn suốt buổi rằng nghiệp đoàn của anh ta nói anh chỉ làm có thế – bơm xăng và thay dầu. Anh ta không rửa kính xe. Anh ta chỉ làm có 35 giờ một tuần, mỗi ngày nghỉ ăn trưa một tiếng rưỡi, trong thời gian đó, cây xăng sẽ đóng cửa không phục vụ. Mỗi năm anh ta có sáu tuần nghỉ phép ở vùng phía nam nước Pháp. Bên kia đường là nơi ở của hai người anh và một ông cậu của anh ta, cả ba người không có công ăn việc làm suốt 10 năm vì chế độ bảo hiểm ở đây trả cho họ hậu hĩnh hơn là công việc trước kia họ có. Họ dành thời gian chơi bóng với nhau.
Cây xăng thứ tư ở một nước đang phát triển. Có 15 nhân viên phục vụ, tất cả bọn họ có quan hệ họ hàng với nhau. Khi bạn lái xe vào thì chẳng ai để ý đến bạn vì họ đang mải nói chuyện với nhau. Xăng có giá chỉ 35 xu đô-la một gallon vì được nhà nước trợ giá. Nhưng trong sáu vòi bơm chỉ thấy có một vòi hoạt động. Những vòi khác bị hỏng. Mọi người đang chờ linh kiện thay thế gửi từ châu Âu sang. Cây xăng có nhà xưởng xộc xệch vì người chủ sống ở Zurich và khi về đã mang theo toàn bộ doanh thu. Nhưng người chủ không biết rằng một nửa số nhân viên của ông ta đêm đến thì vào ngủ trong xưởng và dùng vòi nước rửa xe để tắm táp. Phần lớn những khách hàng ở các nước đang phát triển đi bằng xe Mercedes hoặc xe máy – không có thứ xe nào khác. Nhưng cây xăng vẫn là nơi bao giờ cũng bận rộn, vì có nhiều người đi xe đạp vào dùng bơm miễn phí để bơm săm xe đạp của họ.
Sau cùng là cây xăng trong một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp. Giá xăng ở mức 50 xu đô-la một gallon – nhưng không có xăng trong téc – vì bốn nhân viên ở đó đã đem xăng bán ở chợ đen với giá 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên có mặt làm việc, vì ba người kia đang làm nghề phụ ở đâu đó cũng để phục vụ cho nền kinh tế chợ đen. Mỗi tuần họ có mặt một lần để nhận lương.
Về đại thể, thì trong thời toàn cầu hóa, ai ai cũng bị lôi cuốn tới cái trạm xăng của Hoa Kỳ. Nếu bạn không phải là người Mỹ, không biết tự bơm xăng lấy, thì tôi gợi ý bạn nên sớm đi học cách bơm xăng. Sau Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa đang khoác chủ nghĩa tư bản phong cách Anglo-Mỹ và chiếc áo nịt nạm vàng lên toàn thế giới. Nó áp đặt lên toàn cầu thứ văn hóa và hình tượng văn hóa kiểu Mỹ. Nó áp đặt lên toàn cầu cả giá trị lẫn rác rưởi của Mỹ. Nó áp đặt cuộc Cách mạng Mỹ và cây xăng theo lối Mỹ.
Không phải ai cũng thích cây xăng của Mỹ và những điều nó tượng trưng, và bạn hiểu rõ lý do vì sao. Thể hiện trong những cây xăng Tây Âu, Nhật Bản.v.v… là những giao kèo xã hội rất khác của Mỹ, và những cách nhìn nhận rất khác nhau về cung cách hoạt động của thị trường, cũng như phương pháp kiểm soát thị trường. Người châu Âu và Nhật Bản tin vào việc nhà nước có quyền kiểm soát dân chúng và thị trường, trong khi người Mỹ thì tin rằng hãy để dân chúng nắm quyền và trả tự do cho thị trường tới mức nhất định, để cả hai tự phân định ra kẻ thắng người thua.
Do những người Nhật, Tây Âu v.v… không cảm thấy thoải mái trong các thị trường hoàn toàn tự do, với những lợi nhuận và trừng phạt sinh ra trong thị trường này, nên những cây xăng của họ được thiết kế để thể hiện những tấm đệm giữa những sự bất bình đẳng và để phân chia đồng đều các lợi nhuận. Các cây xăng cũng thể hiện truyền thống và giá trị riêng của những cộng đồng của họ. Người Tây Âu thể hiện bằng cách cắt giảm số nhân công, tuyển ít người đi nhưng trả lương cao hơn, thu nhiều thuế hơn, để có thể hỗ trợ cho giới thất nghiệp và làm từ thiện. Người Nhật Bản thể hiện điều đó bằng cách trả lương cho nhân viên ít đi nhưng đảm bảo biên chế cho họ suốt đời, rồi bảo hộ những công việc và phúc lợi thuộc về biên chế đó bằng cách hạn chế các đối thủ cạnh tranh người nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại cây xăng của người Mỹ là một nơi thuận tiện cho xe ra vào: khách hàng là thượng đế; cây xăng không phải là nơi bảo tồn các giá trị xã hội; trách nhiệm ở đó là cung cấp xăng với giá thấp nhất. Nếu có thể cho phép không có nhân viên phục vụ ở đó thì càng tốt. Thị trường linh hoạt có thể cho phép dân chúng tìm việc nơi khác. Bạn nói rằng như thế lạnh lùng quá? Cũng có thể. Nhưng dù muốn hay không muốn thì đó sẽ là mô hình mà toàn thế giới đang ngày càng bị buộc phải dùng.
Hoa Kỳ bị mọi người chỉ trích về điều đó vì, trong nhiều phương diện, toàn cầu hóa chính là Hoa Kỳ – hay ít nhất, đó là cách hiểu của dân chúng ở nhiều nơi trên thế giới. Ba cuộc dân chủ hóa phần lớn trưởng thành ở Mỹ. Chiếc áo nịt nạm vàng đã được dệt ở Mỹ và Anh. Bầy Thú Điện Tử do những con bò mộng phố Wall dẫn đầu. Lực lượng đang gây sức ép khiến các nước phải mở cửa cho phép thương mại và đầu tư tự do là Chú Sam, và lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ đang gìn giữ những thị trường tự do và những tuyến vận chuyển biển trong thời toàn cầu hóa hiện nay, tương tự như cách mà hải quân Anh đã từng làm trong thời toàn cầu hóa lần thứ nhất hồi thế kỷ 19.
Joseph Nye, Jr., Hiệu trưởng trường Kennedy của Đại học Harvard đã tóm tắt thực tế đó rất hay, khi ông ta chỉ ra: “Trong những thể hiện gần đây, dấu vết của toàn cầu hóa có thể được tìm thấy ở chiến lược của Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và nguyện ước tạo dựng một nền kinh tế quốc tế để ngăn chặn khả năng một cơn khủng hoảng khác, đồng thời đối trọng với Liên Xô và kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. Khuôn mẫu căn bản và những sức ép chính trị đòi mở cửa kinh tế là một sản phẩm của sức mạnh và chính sách của Hoa Kỳ. Chúng đã được tiếp sức bởi sự phát triển của công nghệ giao thông và viễn thông. Điều đó khiến cho những quốc gia muốn cưỡng lại sức mạnh thị trường sẽ ngày càng phải trả giá đắt hơn.” Nói cách khác, ngay trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế toàn cầu để phục vụ mục đích kinh tế và chiến lược của mình. Kết quả là khi cuộc cách mạng thông tin và ba trào lưu dân chủ hóa hợp lực hồi cuối những năm 80, đã xuất hiện một cơ cấu quyền lực có khả năng tiếp thụ những khuynh hướng và công nghệ đó và tiếp tục hỗ trợ cho chúng lan tràn trên khắp thế giới. Như đã nói trước đây, sự kết hợp giữa sức mạnh và những lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, kết hợp với Cách mạng Thông tin sản xuất tại Mỹ, đã tạo ra thời đại toàn cầu hóa thứ hai và gắn vào đó bộ mặt Hoa Kỳ.
Ngày nay toàn cầu hóa thường có cái tai của chuột Mickey, ăn McDonald’s, uống Coke hay Pepsi và sử dụng máy tính IBM PC, dùng hệ điều hành Windows 98, với bộ
vi xử lý Intel Pentium II trong một mạng nội bộ nối với Cisco Systems. Chính vì thế trong khi sự khác biệt giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa thường rất rõ với người Mỹ; không may thay lại chẳng rõ chút nào với những người khác trên thế giới. Trong phần lớn các xã hội, dân chúng không phân biệt giữa sức mạnh Mỹ, hàng Mỹ, những sự tấn công về văn hóa Mỹ, những sản phẩm văn hóa Mỹ với những yếu tố toàn cầu hóa đơn thuần. Chúng đang lẫn vào nhau. Tôi không phải là người muốn đánh đồng giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa – và chỉ muốn nói là những yếu tố đó bị nhiều người lẫn với nhau. Chẳng lạ gì báo Nhật Bản, tờ Nihon Keizai Shimbun đăng một hàng tít vào ngày 4/6/1999, về một hội nghị về toàn cầu hóa ở Tokyo, đã nói về một hiện tượng “toàn cầu hóa do Hoa Kỳ khởi đầu.” Khi dân chúng từ các nước đang phát triển nhìn vào hệ thống toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường thấy một tấm quảng cáo tuyển mộ mang nội dung: CHÚ SAM MUỐN BẠN (để đưa bạn đến với Bầy Thú Điện Tử).
Martin Indyk, Đại sứ Mỹ ở Israel đã kể cho tôi một câu chuyện minh họa rất hay cho điểm này. Là Đại sứ, ông ta được mời đến lễ khai trương một tiệm McDonald’s ở Jerusalem. Tôi hỏi ông ta rằng ông đã nói gì trong dịp đó, dịp McDonald’s được khai trương ở một thành phố đầy tín ngưỡng, và ông nói: “Thức ăn nhanh dành cho quốc gia phát triển nhanh.” Nhưng điểm hay nhất mà ông ta kể lại sau đó là McDonald’s đã tặng ông ta một chiếc mũ đánh bóng chày nhiều màu với logo của hãng, và mời ông tới ăn ở tiệm ăn được khai trương nọ. Truyền hình Israel đã tường thuật từng chi tiết của buổi lễ và phát trong bản tin tối của họ. Ở tiệm ăn hôm đó có đông đảo thanh
niên Israel. Khi ông Đại sứ chuẩn bị ăn món ăn đầu tiên của tiệm thì một thanh niên Israel bước qua đám đông đến bên ông ta. Thanh niên này mang theo cũng một chiếc mũ của McDonald’s, đưa cho ông và nói, “Ông là ông Đại sứ? Xin ông một chữ ký lưu niệm.”
Hơi ngượng nghịu, Đại sứ Indyk trả lời, “Được thôi. Chưa bao giờ có ai xin tôi chữ ký lưu niệm cả.”
Khi vị Đại sứ cầm lấy chiếc mũ và sắp ký lên đó, thanh niên này nói, “Cảm tưởng của ông khi làm Đại sứ cho McDonald’s ra sao? Ông được đi lại trên thế giới và khánh thành tiệm McDonald’s ở khắp mọi nơi?”
Ngạc nhiên quá đỗi, Đại sứ Indyk nhìn thanh niên này và nói, “Không, không. Tôi là Đại sứ của nước Mỹ – không phải là Đại sứ của hãng McDonald’s!”
Thanh niên Israel này bỗng tiu nghỉu. Đại sứ Indyk mô tả điều xảy ra sau đó: “Tôi nói với anh ta, “vậy có nghĩa là anh không muốn chữ ký lưu niệm của tôi nữa phải không?” Và thanh niên này nói: vâng, anh ta lấy lại chiếc mũ và bước đi chỗ khác.”
Quả thực là cái quan hệ lúc ghét – lúc thương giữa nước Mỹ và thế giới giờ đây đã trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Đối với một số người, Mỹ hóa-toàn cầu hóa dường như là một con đường hấp dẫn, rộng rãi thoải mái đưa họ tới một mức sống khá hơn. Với những người khác, Mỹ hóa-toàn cầu hóa đã hun đúc trong lòng họ một sự ganh tị và căm ghét đối với nước Mỹ – ganh tị khi Mỹ có vẻ giỏi giang trong việc điều khiển con hổ toàn cầu hóa, căm ghét là vì dường như trong cái trục Mỹ hóa-toàn cầu hóa, Hoa Kỳ đang ra roi quất lên các dân tộc khác, bắt họ phải chạy cho nhanh, nối mạng cho nhanh, cắt giảm biên chế cho nhanh để theo kịp nước Mỹ hội nhập vào Thế giới Đi nhanh. Tôi vẫn tin rằng có nhiều người yêu nước Mỹ hơn là ngược lại, nhưng trong chương này, tôi chỉ muốn nói về những người căm ghét nước Mỹ. Tôi muốn nói về một sự chống đối khác, nhằm vào toàn cầu hóa – sự căm ghét đang tăng lên nhằm vào Hoa Kỳ, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, kỷ nguyên được đánh dấu bằng những biểu tượng, thị trường và sức mạnh của nước Mỹ.
Nhà sử học Ronald Steel có lần đã nói: “Chúng ta tin rằng những định chế của chúng ta phải giam hãm những định chế khác vào đống tro tàn của lịch sử. Chúng ta định hướng cho một hệ thống kinh tế đã thực sự chiến thắng các mô hình sản xuất và phân phối khác – để lại đằng sau những tài sản lớn cũng như những đống rác không nhỏ. Thông điệp văn hóa mà chúng ta truyền đạt thông qua Hollywood và McDonald’s lan tràn trên thế giới đã trói buộc và tàn phá các xã hội khác. Không giống như những cuộc chinh phục trước đây, chúng ta không chỉ bắt người khác đầu hàng: Chúng ta khăng khăng buộc họ phải thay đổi, phải giống như chúng ta. Và dĩ nhiên làm như thế là để có lợi cho họ. Chúng ta là những nhà truyền giáo không ngừng nghỉ của thế giới. Thế giới phải trở nên dân chủ. Phải theo tư bản chủ nghĩa. Phải bị ràng buộc vào mạng điện toán toàn cầu. Chính vì thế có nhiều người đã cảm
thấy bị đe dọa bởi những gì chúng ta đại diện.”
Một chân dung nước Mỹ tiêu biểu được khắc họa trong bức tranh Mái vòm nước Mỹ của tác giả Grant Wood, trong đó đặc tả cảnh một cặp vợ chồng cầm trong tay gậy xỉa rơm, mặt mũi nghiêm trang, đứng trong một trang trại nhìn ra ngoài. Nhưng ngày nay đối với nhiều người, hình ảnh nước Mỹ sẽ là một cặp thanh niên khoảng ngoài 20 tuổi, kỹ sư phần mềm máy tính, tóc dài, đi dép xăng đan, cổ đeo chuỗi hạt, mũi xăm trổ, và chân dính sơn. Đó là hình ảnh của họ khi xuất hiện ở nước ngoài. Họ đến đạp cửa trước của nhà bạn, vào nhà thay đổi vị trí đồ đạc, nhồi vào miệng của bạn đầy một thứ bánh McDonald’s, nhồi sọ con cái của bạn những ý tưởng quái lạ, ném một thiết bị thu truyền hình cáp lên TV nhà bạn, gắn một thiết bị nối Internet vào máy vi tính của bạn và nói: “Truy cập hay là chết.”
Chúng ta là thế đó. Chúng ta, những người Mỹ, là những vị tông đồ của Thế giới Đi nhanh, là kẻ thù của các truyền thống, là những vị tiên tri của thị trường tự do và cha xứ truyền bá công nghệ cao. Chúng tôi muốn mở rộng những giá trị của bạn lẫn những tiệm bánh Pizza Huts của chúng tôi. Chúng tôi muốn thế giới đi theo sự dẫn đường của chúng tôi và trở nên dân chủ, gắn mạng Internet lên mỗi dụng cụ gia dụng, ai cũng phải uống Pepsi, mỗi máy tính đều phải có hệ điều hành Windows và trên hết – trên hết – ai ai, ai ai cũng phải biết tự bơm xăng vào xe hơi của mình.
Khi bước vào khách sạn Homa Hotel ở trung tâm Teheran, tháng 9/1996, đập ngay vào mắt tôi là một tấm biển. Trên tấm biển là dòng chữ “Đả đảo Mỹ.” Đó không phải là một biểu ngữ tạm thời. Đó không phải là một dòng chữ viết bậy. Đó là một tấm biển bằng đá, ốp lên tường.
Tôi tự nhủ, “Kỳ lạ chưa. Tấm biển được gắn trên tường. Dân chúng ở đây thực sự có vấn đề đối với Hoa Kỳ.”
Ngay sau đó tôi nhận thấy các bậc trưởng giáo Iran, những người rất quan tâm đến những bước thăng trầm của sức mạnh quân sự và văn hóa Mỹ, đã bắt đầu gọi nước Mỹ bằng cái tên khác, chứ không phải những danh hiệu thường thấy trước kia như “đại quỷ sa tăng” và thành trì của “đế quốc và chủ nghĩa Zion.” Người Iran đã bắt đầu gọi nước Mỹ là “thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu.” Tôi thấy cách gọi đó thể hiện ngấm ngầm một sự thay đổi. Lãnh đạo Iran dường như đã hiểu sự khác biệt giữa “sự ngạo mạn toàn cầu” và chủ nghĩa đế quốc. Đế quốc chủ nghĩa là khi bạn dùng vũ lực vào chiếm đóng dân tộc khác và ép buộc họ theo bạn. Sự ngạo mạn toàn cầu là khi văn hóa và kinh tế của bạn mạnh đến mức bạn hiểu là không cần phải xâm lăng nước khác mà người ta vẫn phải chịu ảnh hưởng của bạn. Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ, ông Shri Yashwant Sinha, có lần đã nói với tôi về quan hệ giữa Mỹ và thế giới ngày nay: “Không còn đối trọng, không còn sự cân bằng. Những gì các vị nói đã trở thành luật lệ.”
Và đó là điều ngày nay đang gia cố cho sự kết dính giữa Mỹ hóa và toàn cầu hóa.
Điều khiến nhiều người lo sợ về nước Mỹ ngày nay không phải là khả năng Mỹ có thể gửi quân đi mọi nơi, mà là Mỹ có thể truyền bá văn hóa, giá trị, kinh tế và công nghệ và lối sống đến mọi nơi – dù người Mỹ hay người khác muốn hay không muốn. “Mỹ là khác biệt,” Josef Joffe, chuyên gia về chính sách đối ngoại người Đức nhận xét năm 1997 trong tạp chí Foreign Affairs. “Nó làm mình làm mẩy và hay lấn lướt. Nhưng nó không đi xâm lược. Nó cố gắng kiểm soát và bẻ cong luật pháp. Nhưng nó không tuyên chiến để chiếm đất và hưởng vinh quang… Hoa Kỳ có một bộ máy quân sự tinh
vi nhất, dù không đông nhất. Nhưng rõ ràng là không ai bằng Hoa Kỳ trong những cuộc chơi ngoại giao. Trên bàn ngoại giao, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản, thậm chí Tây Âu không có nhiều tiền đặt cọc bằng Hoa Kỳ. Dân chúng liều chết vượt biển để sang Mỹ, chứ không sang Trung Quốc. Hiện không thấy thanh niên chen chân sang học thạc sĩ quản trị kinh doanh ở Đại học Moskva, hay lại đi ăn mặc hay nhảy đầm theo lối Nhật Bản. Tồi tệ hơn, ngày càng hiếm người muốn theo học tiếng Pháp hay tiếng Đức. Tiếng Anh, giọng Mỹ, đã trở thành thứ ngôn ngữ của thế giới. Một sức mạnh như thế – một thứ văn hóa đang lan tràn ra ngoài và một thứ thị trường theo lối vơ vào – lôi kéo chứ không xô đẩy; thuyết phục chứ không chinh phục. Tồi tệ hơn, một thứ quyền lực không thể bị thu phục, không thể đối trọng. Trong cuộc chơi ngày nay, tất cả các thế lực – châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga – không thể hợp lực trong cái mô hình liên minh thuở xưa để chống lại Mỹ. Tất cả các trường quay phim của họ không thể thoát khỏi cái vòng khống chế của Hollywood. Không có một tập hợp các trường đại học nào trong số họ có thể lật đổ được ngai vàng của Đại học Harvard… Điều đó giải thích vì sao “Quan hệ đối tác chiến lược” giữa Nga và Trung Quốc đã trở nên quá lỗi thời vào năm 1997. Họ sẽ làm gì được đối với Hoa Kỳ? Boris Yeltsin sẽ không bao giờ muốn thu thập các bí quyết làm ăn và máy vi tính ở Bắc Kinh. Và Trung Quốc sẽ không bao giờ đánh liều bỏ rơi thị trường hàng xuất khẩu quan trọng nhất của họ.”
Trong ngắn hạn, tình thế sẽ trở nên tồi tệ hơn vì hố ngăn cách về sức mạnh kinh tế giữa Mỹ và thế giới sẽ ngày càng rộng hơn, trước khi có thể bị thu nhỏ lại. Bạn chỉ cần nhìn vào không gian điện toán để hiểu điều đó. Có một sự tranh cướp đang xảy ra – tranh cướp xem ai chiếm được những trang web mang tính thương mại chiến lược và những đầu mối Internet chủ chốt trên toàn cầu. Chợ Internet là một nơi đấu giá hai chiều với hàng loạt các bên mua đấu giá mua các mặt hàng từ hàng loạt các bên bán. Chúng bắt đầu từ những thị trường lẻ tẻ – những điểm bán bớt các mặt hàng dư thừa như dầu thô, sắt thép, chip vi tính và những mặt hàng không được đảm bảo tiêu chuẩn. Rồi nhờ công nghệ điện toán, những thị trường lẻ tẻ đó sẽ nhanh chóng được mở rộng thành các siêu thị tinh vi hơn.
Điển hình của các thị trường trong không gian điện toán là trang đấu giá eBay – trong đó người ta có thể ngồi nhà mà mua bán. Nhưng hãy tưởng tượng, eBay được
thực hiện trong một loạt các ngành công nghiệp, trong đó hàng hóa và dịch vụ của những ngành đó cũng có thể được trao đi đổi lại giữa người mua và kẻ bán. Chẳng hạn, hiện nay ta có Metalsite.com nơi các hãng xây dựng trên thế giới sẽ hướng nhu cầu của họ tới các nhà cung cấp sắt thép với giá rẻ nhất. E-Chemicals.com và Chemdex.com đã xuất hiện để trao đổi hóa chất và sản phẩm khoa học ứng dụng. Và rồi sẽ có sớm những E-rubber [cao su], E-plastic [nhựa], E-cement [xi măng], E-paper [giấy], và E-Insurance [bảo hiểm].
Xưa kia một công ty đảm bảo có được một nguồn cung cấp nguyên liệu và phụ tùng đều đặn bằng cách lựa chọn kỹ càng các nhà cung cấp, xây dựng quan hệ lâu dài thông qua sự tín nhiệm, hiểu biết rõ các nhu cầu của nhau. Nhưng khi ngày càng nhiều lĩnh vực đã trở thành hàng hóa, một công ty như IBM chẳng hạn sẽ đưa các yêu cầu chi tiết của họ lên mạng điện toán, chẳng hạn chi tiết chip vi tính, giấy toilet, thậm chí nguồn năng lượng, … các nhà cung cấp sẽ lên mạng và theo đó đấu giá để nhận hợp đồng cung cấp cho IBM theo đúng yêu cầu. Trong một thế giới không còn rào cản, những trao đổi trên toàn cầu như vậy sẽ trở thành những yếu tố định hình cho luật lệ và các tiêu chuẩn trong đó hàng hóa và dịch vụ được mua bán và trao đổi ở mọi nơi. Và vì Hoa Kỳ dẫn đầu trong không gian điện toán, nhưng hệ thống trao đổi như trên hiện đang được các công ty Mỹ mở ra trên đất Mỹ.
“Hầu hết những điều đó chưa thực xảy ra trên quy mô lớn và mọi người chưa có khái niệm rõ ràng về chúng,” Joel Cawley, Giám đốc phụ trách Chiến lược Doanh nghiệp của hãng IBM giải thích cho tôi hồi đầu năm 2000. “Nhưng chúng đang dần có tầm quan trọng cao hơn. Người ta phỏng đoán những giao dịch điện tử như thế sẽ chiếm từ 30-40 phần trăm thương mại điện tử vào năm 2004. Một khi những giao dịch điện tử được thiết lập và vận hành được mọi người biết đến thì sẽ quá muộn cho những kẻ muốn bắt chước. Những kẻ thắng là những kẻ biết nhìn xa, có nền móng vững chắc. Lúc đó thì thật là khó và đắt đỏ nếu muốn thay đổi hay xây dựng mới các điểm giao dịch.
Hãy nhìn hiện tượng Enron (thật ra công ty này sau đó lâm vào tình trạng phá sản
– ND). Công ty này đã thiết lập một thị trường trên mạng trong đó các công ty trên thế giới có thể mua bán khí thiên nhiên, điện, than, nhựa, bột giấy, giấy và dầu mỏ – và sẽ có sản phẩm mới là băng thông. Băng thông là đường truyền điện tử trong đó giao thông Internet đi lại. Thông qua các tổng đài Internet của Enron – nơi những người mua và kẻ bán hợp đồng băng thông gặp gỡ nhau – một trường học có đường truyền rỗi rãi trong mùa nghỉ hè sẽ có thể bán lại quyền sử dụng trong thời gian đó cho một công ty có nhu cầu. Những hợp đồng như vậy thường phải mất hàng tháng mới ký được, nay có thể được dàn xếp trong vài giây đồng hồ.
“Chúng tôi là công ty đầu tiên đưa ra dịch vụ này để có thể bán khí đốt và điện,” Tổng giám đốc Kenneth Lay của Enron cho biết, “nhưng chúng tôi nghĩ thị trường
dịch vụ băng thông sẽ trở nên lớn nhất. Hiện nay có giá trị 30 tỷ đô-la, và trong khoảng ba năm tới nó sẽ lên tới 90-100 tỷ đô-la. Và nó sẽ có tầm vóc toàn cầu.”
Nền kinh tế Internet dựa trên băng thông, vậy nếu những tổng đài của Enron mà thành công thì sẽ có ý nghĩa như việc khám phá ra dầu mỏ trong không gian điện toán vậy – cho bản thân Enron và cho nước Mỹ.
“Có những lợi thế khi bạn trở thành người đi đầu trong những thị trường toàn cầu kiểu này,” Lay nói. “Khi bạn là người đi đầu, bạn nâng được quy mô rất nhanh chóng, và cùng với điều đó là khả năng kinh tế giúp cắt chi phí giao dịch và tăng khả năng thanh toán và khả năng mở ra những thương vụ tinh vi hơn cho bạn. Chúng tôi rồi cũng có các đối thủ, tôi chắc như vậy. Nhưng thời điểm này là lúc kẻ thắng sẽ được ăn cả. Vậy càng sớm đi đầu vào trong các thị trường thì càng có thể định hướng được thị trường. [Và] một khi có một thực thể đứng ra thiết lập một vị trí vững chắc trong loại thị trường toàn cầu đó thì sẽ rất khó có thể lật nhào được nó.”
Điều này cũng mang hàm ý địa-chính trị. Nếu bạn nghĩ rằng người Âu đã không thích thú gì cung cách làm ăn nào đó của người Mỹ, thì hãy đợi một hai năm, khi họ thức tỉnh và nhận ra rằng các công ty của Mỹ đã chiến thắng trong cuộc tranh chấp không gian điện toán, định hình luật lệ và tiêu chuẩn cho cả một hệ thống thị trường điện tử.
Đến lúc đó người Pháp sẽ gọi người Mỹ là gì nhỉ? Vào cuối thế kỷ 20 họ đã cho ra đời một thuật ngữ để gọi Hoa Kỳ. Mỹ không còn là một siêu cường. Người Pháp quyết định rằng Mỹ phải được đặt vào một thể loại riêng. Nước Mỹ, theo nhận xét của một nhà ngoại giao Pháp trong tổng hành dinh NATO nói với tôi, nay là một “quốc gia quá quắt.” Chẳng lấy làm ngạc nhiên, khi tôi qua lại trên thế giới, tôi đã nghe người Iran trực tiếp gọi Mỹ là “thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu,” nhưng, sau lưng người Mỹ thì dân chúng ở Pháp, Malaysia, Nga, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc và Đức – và tất cả các nơi khác, đều coi Mỹ cũng vậy. Tổng thống Saddam Hussein của Iraq, cũng như người Iran, thì bao giờ cũng nhạy cảm đối với những thay đổi, dù nhỏ nhất, trong vị thế quốc tế của Hoa Kỳ, đã có những thay đổi trong cách tuyên truyền để nâng bản thân của ông ta lên. Đầu những năm 90, trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam đã tự coi mình là Robin Hood của người Ả rập, đứng ra cướp của những người Ả rập giàu có để giúp người Ả rập nghèo khó. Trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh lần thứ hai vào cuối những năm 90, Saddam tự coi mình là Luke Skywalker [nhân vật anh hùng trong phim viễn tưởng Star Wars] đứng lên chống lại con Quỷ đế quốc Mỹ. Mỗi khi được phỏng vấn trên truyền hình, Ngoại trưởng Iraq phàn nàn rằng Hoa Kỳ cư xử như cái lối “ngày tàn của Đế quốc La mã”. Đó là nội dung chủ yếu của sự tuyên truyền của Iraq, từ trong chính phủ ra ngoài công chúng. Một hôm tôi xem truyền hình CNN và nghe họ phỏng vấn một “người dân trên đường phố Baghdad,” người này nói về nước Mỹ như “một con
quỷ khát máu đang hút máu của dân chúng trên toàn thế giới.”
OK, OK., vậy là cả thế giới nghĩ rằng những người Mỹ là những kẻ đi bắt nạt mà họ tức tối muốn đá đít. Thì đã sao? Như thế sẽ tác động gì đến quan hệ giữa Hoa Kỳ và những chính phủ khác? Câu trả lời ngắn gọn là quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia khác ngày nay đã trở nên phức tạp hơn. Có những nước ra sức vặn mỏ nước Mỹ; có quốc gia thì ngồi mát ăn bát vàng, tận dụng cơ hội – họ để cho nước Mỹ thành một thứ cảnh sát toàn cầu, chi trả những chi phí trong việc đối phó với Saddam Hussein và những nước bất trị khác, thủ lợi trong khi tiếp tục phàn nàn về nước Mỹ; có những nước thì tiếp tục căm ghét sự thống trị của Mỹ; và có những nước thì lặng lẽ thích nghi với điều đó.
Trong thực tế, quan hệ của Hoa Kỳ và thế giới trong thời gian bước sang thiên niên kỷ mới không khác gì mối quan hệ của Michael Jordan – trong khi anh ta còn nổi tiếng – với NBA. Mỗi cầu thủ hay đội bóng khác trong hiệp hội đều muốn vượt lên trên Jordan; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều căm ghét anh ta vì anh ta đã vạch trần những yếu kém của họ; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều so sánh bản thân với anh ta, và trong thâm tâm đều dùng anh ta làm điển hình; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều thường xuyên phàn nàn là trọng tài đã thiên vị, bỏ qua những lỗi lầm của Jordan. Nhưng dẫu có thế nhưng không có đội nào muốn Jordan bị thương hay về vườn cả. Vì mỗi lần đi thi đấu, ở đâu có Jordan thì người ta thường bán hết sạch vé. Anh ta là chiếc ống hút, quấy những cốc nước ngọt mà họ đang uống.
Hãy xem một số ví dụ liên quan đến hiện tượng đó: Khi Anatoly Chubais, một trong những công trình sư của chương trình tư hữu hóa của nước Nga, sang đàm phán để IMF tài trợ cứu giúp kinh tế Nga, IMF thường đưa ra những điều kiện ngặt nghèo hơn, và Chubais không có cách nào hơn là phải tuân thủ. Trong đỉnh điểm của những cuộc đàm phán, truyền hình Nga đưa lên chương trình Kukli, trong đó có những con rối ăn mặc như những lãnh tụ Nga, diễn câu chuyện phỏng theo tích “Cô bé quàng khăn đỏ.” Boris Yeltsin là nhân vật bà ngoại, trong khi Thủ tướng Nga lúc đó là Kiryenko là cô bé khăn đỏ. Kiryenko cố gắng đi trước những người khác, để vận động Yeltsin hãy gây ảnh hưởng đối với những kế hoạch cứu vãn về tài chính. Khi Kiryenko đến nhà bà ngoại Yeltsin thì thấy Chubais đã ở đó. Chubais trong vai nhân vật du hành không gian, trên áo đeo logo “IMF” và một lá cờ Mỹ. Chubais là một nhân vật đến từ hành tinh America để chỉ đạo người Nga. Khi Kiryenko nhìn thấy Chubais ở đó bên cạnh Yeltsin, anh ta đã quay ra nói với khán giả, “Chắc là tôi đến muộn quá rồi.”
Trong Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos 1999, Minoru Murofushi, Chủ tịch tập đoàn thương mại khổng lồ Itochu của Nhật Bản, ngồi cùng bàn chủ tọa với Thủ tướng Nga lúc đó là Yevgeny Primakov. Murofushi, trong khi đang bình luận về những cố gắng của Primakov chống khủng hoảng kinh tế, đã lỡ lời để lộ bản thân mình.
Thương gia người Nhật này nói, “Tôi biết là ông Primakov sẽ có cuộc gặp với ông Fischer của IBM – xin lỗi, ý tôi nói là IMF.” Ồ, IMF, IBM, khác nhau chỗ nào đâu – đều là của người Mỹ cả mà!
Yuan Ming, Giáo sư quan hệ quốc tế của Đại học Bắc Kinh là một trong những chuyên viên hàng đầu về Hoa Kỳ của Trung Quốc. Có lần bà này nói với tôi một câu chuyện có hàm ý cho rằng Trung Quốc có thể phản ứng đối với sự ngạo mạn của nước Mỹ bằng cách trưng ra sự ngạo mạn của chính mình: “Các lãnh đạo chính trị của chúng tôi khi phát biểu trước công chúng thường không dùng từ “toàn cầu hóa”, họ dùng từ “hiện đại hóa.” Có một lý do mang tính văn hóa trong đó. Một bài học lịch sử chưa phai mờ trong đầu óc người Trung Quốc là thời thế kỷ trước, đất nước của họ đã bị họng súng của các tàu chiến ép buộc hội nhập với cộng đồng quốc tế – vậy thì toàn cầu hóa không phải là điều người Trung Quốc đang theo đuổi, mà là điều Hoa Kỳ và phương Tây đang áp đặt. Mặt khác, hiện đại hóa là điều chúng tôi có thể kiểm soát được. Kênh truyền hình nhà nước hàng năm có một chương trình dành cho Tết nguyên đán. Đó là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong năm ở Trung Quốc. Gần một tỷ dân xem chương trình này. Thường thường trong chương trình có ca sĩ và những màn trào phúng. Nhưng cách đây ba năm, [1995] chương trình này có một tiểu phẩm trào phúng về hai bố mẹ ở một vùng thôn quê gọi cho con trai của họ đang theo học ở Mỹ. Họ hỏi con trai, “Hôm nay ngày tết, con khỏe không?” Cậu này nói rất khỏe và có kế hoạch sẽ về quê hương sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ của cậu ở Mỹ. Bố mẹ rất mừng khi nghe điều đó. Câu thoại mà tôi nhớ nhất là bố mẹ nói với cậu con trai rằng Trung Quốc giờ đây có nhiều điều cũng tốt đẹp như ở nước Mỹ vậy. Họ nói: “Con sang đó rửa bát cho người Mỹ. Giờ đây chúng ta nên có những người Mỹ sang đây rửa bát cho chúng ta.”
Ngày 14/12/1997 khi đang bay từ Nhật Bản về Mỹ, tôi đọc phần thư gửi tòa soạn trong tờ Japan Times số ngày hôm đó. Tôi rất thích mục này trên báo chí của bất cứ nước nào khi sang đó công cán, vì tôi bao giờ cũng tìm được những mẩu nhận xét rất lý thú. Lần này tôi thấy có thư của thính giả mang tựa đề “Sự xấc ngược của Mỹ,” thư này mang ý kiến chung của rất nhiều người. Nội dung viết là: “Không bút nào tả xiết về những chiến thuật ăn hiếp đang tiếp tục của Hoa Kỳ. Lần này, tôi đọc thấy Hoa Kỳ khước từ ký vào bất cứ hiệp định nào [tại Hội nghị về thay đổi khí hậu Kyoto], nếu ba “đòi hỏi” của họ không được đáp ứng… Tôi không bao giờ coi nhẹ thực tế trong lịch sử: Hoa Kỳ thường ra tay “giúp đỡ” nếu có thể – nhưng “đất nước vĩ đại nhất của thế giới” (họ tự xưng, không phải tôi đặt danh hiệu cho họ như thế) phải học hỏi về sự khiêm nhường. Những sự việc gần đây cho thấy nước Mỹ bước lên địa vị vinh quang chỉ là do những thất bại về chính trị và kinh tế của những đối thủ của nó. Nhưng lòng tự hào rồi sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Chính phủ Mỹ hãy nhớ điều đó.” Ký tên: Andrew Ogge. Tokyo.
Tôi đến Ấn Độ vào năm 1998 sau khi có cuộc thử nghiệm hạt nhân ở đó và Trung tướng Ấn Độ đã nghỉ hưu V.R. Raghavan, vốn là tư lệnh hành quân của Lục quân Ấn Độ, nay là nhà phân tích cho Nhóm Chính sách Delhi, kể với tôi rằng ông vừa tham gia một hội thảo quốc tế về vấn đề hạt nhân. Đến dự gồm đại diện người Anh, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ, cùng nhiều nước khác. “Vào một lúc giải lao chúng tôi đã đi thăm một ngôi làng nhỏ của Ấn Độ, tôi chỉ cho khách những cửa hiệu, nhà cửa và việc phân bò được sử dụng làm chất đốt,” Tướng Raghavan nói. “Nhưng lý thú nhất là khi chúng tôi đến thăm một ngôi trường ở giữa làng. Có khoảng ba chục cháu trên mười tuổi, một vài thầy giáo. Một số vị khách muốn bắt chuyên với họ. Chúng tôi bày bàn ghế và bắt đầu trò chuyện. Có một luật sư trong đám khách hỏi đám trẻ rằng họ nghĩ gì về Hoa Kỳ và Trung Quốc. Không cần chỉ dẫn, những đứa trẻ đó nói Trung Quốc là nước láng giềng vĩ đại nhất của chúng tôi, mặc dù có thời chiến tranh với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc bao giờ cũng đứng lên bênh vực kẻ yếu và chúng tôi không có trục trặc gì với Trung Quốc. “Thế còn Hoa Kỳ?” Vị khách hỏi tiếp. Lũ trẻ nói Hoa Kỳ là một kẻ hay ăn hiếp, bắt nạt mọi người và bao giờ cũng chỉ nghĩ cho riêng mình. “Các vị trong đám khách chịu không thể tin được rằng họ đã nghe được những điều đó.”
Năm 1997, tôi dự một hội nghị tại Ma rốc mang chủ đề “Toàn cầu hóa với thế giới
Ả rập.” Hầu hết các đại biểu Ả rập đều được đào tạo theo văn hóa Pháp, đến từ Bắc Phi và Pháp. (Một trí thức Ả rập cộng văn hóa Pháp thường là người có khả năng tồi nhất để hiểu biết về toàn cầu hóa. Tựa như hai lần bị thương vậy – hai thứ văn hóa Pháp và Ả rập đều chống lại toàn cầu hóa). Tôi được yêu cầu phát biểu khái quát về toàn cầu hóa, và tôi đã phát biểu. Sau tôi là một cựu Thủ tướng Algeria, đang sống lưu vong, người được mời phản biện phát biểu của tôi. Dùng tiếng Pháp, ông ta bác bỏ tất cả các luận điểm của tôi. Ông ta nói rằng “cái thứ toàn cầu hóa mà ông nói chẳng qua là một âm mưu của Hoa Kỳ nhằm tiếp tục dìm thế giới Ả rập xuống, không khác gì chủ nghĩa Zion và chủ nghĩa đế quốc.” Tôi lịch sự lắng nghe lập luận của ông ta, lập luận kéo dài theo hướng đó, và sau đó tôi đã phản bác lại một cách khiêu khích có chủ định với hy vọng sẽ khiến ông ta vỡ ra chút ít trong đầu. Tôi nói đại thể như sau (tôi đã cắt đi những lời gay gắt): “Thưa ngài Thủ tướng, ông nói toàn cầu hóa là một âm mưu của Mỹ nhằm phá hoại người như ông. Xin để tôi nói với ông một điều – toàn cầu hóa còn tồi tệ hơn. Tồi tệ hơn thế. Ông nghĩ là ở Washington người ta nghĩ đến ông và ngày đêm tính kế để phá hoại ông, gọi điện, dùng đòn bẩy để làm những điều đó. Tôi chỉ ước mong họ làm điều đó. Lạy Chúa, tôi những mong họ làm được điều đó. Vì nếu có người làm thế thì có người khác sẽ làm ngược lại và nâng ông lên. Nhưng sự thực là, chúng tôi hoàn toàn không quan tâm đến các vị. Không một phút nào. Chúng tôi hoàn toàn không mảy may đếm xỉa đến quý vị. Đó không phải là vì chúng tôi có ác ý. Đó là vì chúng tôi cũng đang bị giam trong cùng những áp lực
giống như quý vị, và chúng tôi cũng đang cố tiến cho được một bước đi tới trong cuộc cạnh tranh, cũng giống như điều quý vị đang làm, và cũng như quý vị, chúng tôi rất lo là những thị trường trái phiếu sẽ phản ứng ra sao trong thời gian sắp tới. Chính vì thế tôi ước rằng có thể xác nhận là có một âm mưu muốn làm hại ông. Nhưng tôi không thể… Giờ đây nếu muốn xây một chiếc cầu Hồi giáo đến với con tàu toàn cầu hóa, thì cứ việc. Nếu muốn xây chiếc cầu chủ nghĩa Mao đến với toàn cầu hóa, thì cứ việc. Cầu Jefferson, cứ việc. Nhưng xin hãy hứa một điều – là ông sẽ xây một chiếc cầu, cầu gì cũng được, nhưng phải là cầu. Và đoàn tàu toàn cầu hóa rồi sẽ không chờ quý vị đâu.”
Nhưng nếu có một người vùng Bắc Phi chống lại cái cụm Mỹ hóa – toàn cầu hóa thì sẽ có một người khác thích nghi và tận dụng nó. Khi tôi sang Casablanca năm 1997, thì tàu tên lửa USS Carr cũng vào thăm cảng nước này. Tổng lãnh sự Mỹ ở vùng này đã tổ chức chiêu đãi cho các quan chức địa phương và khách mời trên boong tàu, tôi cũng được mời. Trong khi vài cô gái địa phương chen chúc để được chụp ảnh của các thủy thủ và chủ cùng khách ngồi ăn cánh gà bên những lon bia Budweiser, thì tôi được gặp và trò chuyện với Thống đốc vùng Casablanca. Mặc một com lê kiểu cách, viên chức người Ma rốc này, bằng tiếng Pháp, giải thích một cách đầy tự hào về lý do vì sao ông ta gửi hai con của ông đến ngôi trường của người Mỹ ở trong vùng, chứ không đến trường Pháp, nơi xưa kia ông được đào tạo.
“Hai lý do,” ông ta nói. “Thứ nhất, trong thế giới tương lai nếu bạn không nói tiếng Anh, thì bạn là người thất học. Thứ hai, hệ thống của Pháp dạy cho bạn thành một người quản trị hành chính. Hệ thống của Mỹ lại dạy cho bạn cách tồn tại độc lập. Đó là điều tôi muốn con tôi phải hiểu.”
Mặc dù văn hóa và giáo dục của Pháp ăn sâu vào những thành phố lớn của Ma rốc từ năm 1912, hiện nay có ba trường của Mỹ được thành lập ở đó – học sinh nối đuôi nhau chờ để nhập học. Thật ra hiện nay đang có sự cạnh tranh thực sự về văn hóa giữa Pháp và Mỹ để chiếm con tim và khối óc của thế hệ mới ở Bắc và Tây Phi, vốn là vùng ảnh hưởng truyền thống của Pháp. Và trong sự cạnh tranh đó thì Mỹ đang dần thắng thế – mà cũng không cần cố sức cho lắm. Tất cả là do nhu cầu. “Giáo dục đại học của người Pháp chưa bắt kịp với giai đoạn cách mạng hiện nay,” Dominique Moisi, người trước đây dạy học ở trường đại học quản lý nhà nước nổi tiếng của Pháp, Trường ENA, và là một trong những chuyên viên về thời sự quốc tế của nước Pháp.
“Hệ thống của Pháp thưởng cho những người có khả năng tiếp bước vào những con đường đã được mở cho họ. Nó không khuyến khích người ta chống đối hay tự hình thành cá tính. Tâm lý ngày nay cho thấy những thay đổi trong những năm 90 như thế không phải là do Pháp tác động. Hoa Kỳ đã trở thành tấm gương phản chiếu những cảm giác phân vân trong chúng tôi. Nhìn Hoa Kỳ thì chúng tôi có thể thấy được những gì chúng tôi còn thiếu thốn.”
Một phản ứng đại chúng khác đối với Mỹ hóa-toàn cầu hóa ngày nay bắt nguồn từ những nước mà: một mặt thì phàn nàn cay đắng về chuyện Hoa Kỳ lộng hành, mặt khác thì họ ngồi mát ăn bát vàng – hưởng những thành quả mà sức mạnh của Hoa Kỳ mang lại. Người Nhật sẽ nói riêng với chúng tôi rằng Hoa Kỳ “là rất đúng” khi đòi hỏi Trung Quốc phải tuân thủ luật quốc tế về vấn đề bản quyền. Và họ cũng nói với Mỹ rằng các công ty Nhật, như Sony và Nintendo, cũng chịu thiệt thòi về nạn băng đĩa lậu như Disney và Microsoft phải chịu. Nhưng Nhật Bản sẽ không bao giờ đứng ra đối đầu với Bắc Kinh về vấn đề đó. Tokyo sẽ để cho Washington, siêu cường duy nhất ngày nay, làm điều đó trong khi tiếp tục bám áo Hoa Kỳ sang làm ăn với Trung Quốc càng nhiều càng tốt – tận dụng những thua thiệt của người Mỹ do hậu quả của cuộc đối đầu Washington-Bắc Kinh. Rốt cuộc, nếu Hoa Kỳ thắng cuộc trong việc ép Trung Quốc phải tuân thủ tác quyền, thì Nhật Bản cũng hưởng lợi luôn. Trong tiếng Nhật có thuật ngữ nào chỉ “sự ăn theo” không nhỉ?
Sau cùng có một khuynh hướng trong đó các nước tìm cơ hội làm rối loại chính sách đối ngoại và kiềm chế bớt sức mạnh của Hoa Kỳ, vì cả lý do địa-chính trị truyền thống lẫn để thuần túy tiêu khiển. Ví dụ Nga hoặc Pháp: khi họ càng khó thành đạt bước chân vào “Thế giới Đi nhanh”, thì họ quay sang tìm ảnh hưởng ở những nơi khác – bằng cách thách thức chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ ở Bosnia – chớp nhoáng chuyển quân Nga vào Kosovo trước khi quân Mỹ và NATO vào đó, hay đứng ra bênh vực Saddam Hussein ở Iraq. Trong thực tế nước Nga càng yếu đi thì nó càng mong muốn khai thác những khác biệt đối với Mỹ, và người Nga càng muốn chỉ mặt trêu chọc người Mỹ để tiêu khiển – để có cảm giác bình đẳng với người Mỹ. Bình luận viên người Nga Aleksei Pushkov có lần đã nói với tôi: “Thái độ phổ biến ở đây là nước này cần phải là một lực lượng đối trọng nhằm điều chỉnh những tình huống mà ở đó Hoa Kỳ trở nên si mê.” Theo tôi thì có thể nói điều đó theo một cách khác. Phương châm của Nga và nhiều nước khác ngày nay là: “Nếu bạn không thể dùng một cuộc chiến tranh để đánh lạc hướng, giảm đi những ưu phiền trong lòng xã hội của bạn thì ít nhất hãy đem người Mỹ ra làm bung xung cãi vã.”
Tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới vẫn không đảm bảo rằng Mỹ làm gì cũng được – nhưng nó đảm bảo được một điều: ở đâu Hoa Kỳ cũng bị chỉ trích. Một lần nữa hãy nghĩ đến NBA. Gary Payton là một hậu vệ ngôi sao của đội Seattle SuperSonics. Anh ta là cầu thủ danh tiếng, nhưng không phải là Michael Jordan và anh ta bù vào những khiếm khuyết của bản thân bằng cách bêu rếu các cầu thủ khác, đặc biệt là Michael Jordan. Trong tâm trí tôi, Pháp và Nga ngày nay cũng giống như Gary Payton trong phương diện địa-chính trị – những kẻ bêu rếu lớn nhất thế giới muốn bù trừ cho những gì họ còn khiếm khuyết, đặc biệt đối tượng bêu rếu của họ là Hoa Kỳ.
Trong bộ phim Duck Soup của anh em nhà Marx, có cảnh trong đó Chico và
Harpo trò chuyện với quỷ dữ, đánh giá về Trentino, vị nguyên thủ châu Âu và là đối thủ chính trị của Groucho. Trentino là người đã thuê Chico và Harpo làm điệp viên. Khi Chico và Harpo đến văn phòng của Trentino để báo cáo về điệp vụ của họ, cô thứ ký lúc đó bước vào văn phòng cầm trong ta một bức điện. Harpo giật bức điện trong tay người thư ký, nhìn ngó nó thật kỹ càng, sau đó xé nát bức điện thành từng mảnh nhỏ, ném xuống đất rồi lắc đầu. Sửng sốt và ngạc nhiên, Trentino quay sang nhìn Chico dò hỏi: “Vì sao hắn làm thế?” Và Chico đáp: “Hắn điên lên là vì mù chữ, hắn không biết đọc.”
Cảnh đó khiến tôi nhớ lại một khuynh hướng khác phản ứng lại trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa – một khuynh hướng thực sự nguy hiểm. Đó là sự phản ứng của những người đã không chấp nhận Mỹ hóa-toàn cầu hóa hoặc không chấp nhận điều đó vì những lý do chính trị, kinh tế hay văn hóa – họ chỉ muốn xé nát những gì thường xuyên được trưng ra trước mặt họ. Có những Harpo – nam có nữ có, chỉ muốn trắng đen rõ ràng. Họ không muốn quy phục nước Mỹ rồi lại nói xấu nước Mỹ đằng sau lưng. Họ chỉ muốn giữ lối đi cũ kỹ của riêng họ.
Xin phỏng theo lời của Ronald Steel có lần đã nói với tôi, những người trong cơn giận dữ đã coi Mỹ hóatoàn cầu hóa là một vị khách không mời mà đến: bạn cố đóng cửa vậy mà vị khách lại cứ chui vào qua đường cửa sổ. Bạn đóng cửa sổ nhưng họ lại vào qua đường cáp. Bạn cắt đứt đường dây cáp thì họ lại vào nhà qua đường điện thoại qua Internet. Bạn cắt dây điện thoại thì họ lại vào bằng đường vệ tinh vô tuyến. Bạn ném điện thoại di động đi thì họ vẫn còn đó trên những tấm bảng tin điện tử. Khi bạn gỡ những tấm bảng xuống thì hình ảnh của họ vẫn còn đó trong công sở và nhà máy của bạn. Và không những thế, Mỹ hóa-toàn cầu hóa còn vào tận trong phòng của bạn. Bạn hiện đang ăn nó vào người. Và khi lọt vào nhà của bạn, nó tạo ra một khoảng cách giữa bố và con trai, giữa mẹ và con gái, giữa ông bà và cháu chắt. Nó tạo ra một tình huống trong đó một thế hệ có cách nhìn thế giới khác hẳn với thế hệ khác, và chung quy đó là lỗi của nước Mỹ. Chẳng hạn, chủ đề mà nhà triệu phú người Xê út, một kẻ khủng bố, Osama bin Laden, thường tuyên truyền là: Mỹ cút khỏi bán đảo
Ả rập, và cút khỏi thế giới Ả rập nói chung, vì lối sống Mỹ làm bẩn “mái nhà của người Hồi giáo.”
Cựu Thủ tướng Ấn Độ I, K. Gujral không giống như bin Laden, không giống chút nào. Nhưng có một lần tôi trò chuyện với ông ta ở Delhi, ông ta giải thích về những sự khó chịu mà có những người cảm nhận từ việc Mỹ hóa-toàn cầu hóa xâm chiếm gia đình họ. “Tôi thấy có điều tương tự đang xảy ra ở Ấn Độ – sự thay đổi trong cách phục sức và thói quen ăn uống,” Gujral nói. “Đứa cháu tôi năm nay bốn tuổi. Vậy mà cháu thường xuyên nhắc đến kẹo cao su, không nhắc đến món ăn Ấn Độ, hay nó nói, “cháu không muốn uống Pepsi, cháu thích Coca.” Cháu nó thậm chí nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Ấn Độ. Có ngày tôi hỏi cháu tại sao không nói chuyện với tôi bằng
tiếng Ấn Độ, vậy mà nó đi mách mẹ nó là “có phải ông không biết nói tiếng Anh phải không?” Tôi quan sát ứng xử của cháu tôi, vì đó là một ví dụ nhãn tiền. Hôm trước cháu gái tôi nói nó muốn ăn bánh pizza. Vậy là bà nó hứa sẽ nướng cho nó một cái bánh pizza vào ngày hôm sau. Nhưng cháu tôi nói, ‘Không, không, cháu muốn ăn Pizza Hut cơ.’”
Ở Thượng Hải, tôi đã phỏng vấn Wang Gouliang, một viên chức hàng đầu của Ngân hàng Giao thông, một trong bốn ngân hàng lớn nhất Trung Quốc. Tôi hỏi đùa rằng ông ta hay thu thập tin tức thế giới từ đâu. Ông ta nói mỗi sáng thư ký của ông thường chuẩn bị một bản tin vắn lấy từ Internet và hãng tin Reuters, nhưng ông cũng thường nhận được nhiều thông tin từ con trai ông.
Và bỗng nhiên, ông ta trở nên hùng biện về mối quan hệ giữa bố và con rồi chuyển sang đả kích Internet.
“Con trai tôi là một tay sành sỏi về Internet. Mỗi khi hắn thấy có điều gì lý thú trên Internet thì hắn thường cho tôi xem,” viên chức Ngân hàng người Trung Quốc này nói. “Nhưng những bậc cha chú không nên để cho con cháu xỏ mũi. Con tôi thỉnh thoảng cũng đưa ra những gợi ý, nhưng tôi không thích thú gì với phần lớn những gợi
ý đó. Cha không nên nghe theo con cái. Vì như thế sẽ ảnh hưởng tới quyền lực người cha. Tôi nói nó bớt vào Internet đi, tập trung vào học hành.”
K. Gujral và Wang Guoliang là những người có học, họ không đến mức điên tiết về những việc đó. Nhưng những người khác thì không thế. Những kẻ giận dữ không tìm được những ý thức hệ thay thế cho Mỹ hóa-toàn cầu hóa. Họ giống như nhân vật Harpo. Họ chỉ muốn xé tan những thông điệp và ném chúng đi. Và không giống những chính phủ yếu đuối của họ, những chính phủ phàn nàn về Chú Sam nhưng vẫn “ngồi mát” – những kẻ giận dữ thường sẽ sử dụng vũ lực để phản kháng.
Và điều đó thật đáng sợ. Mỹ hóa-toàn cầu hóa khiến cho họ có thêm lý do để căm ghét nước Mỹ; nó cũng trang bị cho họ thêm sức lực, để trong tư cách cá nhân, họ nổ súng. Toàn cầu hóa đã tăng cường sức lực cho họ thông qua hai con đường:
Thứ nhất, trong cái thế giới đang được kết nối chặt chẽ đến mọi nơi mọi lúc – những kẻ khủng bố có thể tiêm nhiễm đầu óc của nhiều mảng dân chúng hơn. Hãy xem kỳ nghỉ đông của tôi vào tháng 12/1998: Tôi đi trượt tuyết ở vùng núi Rocky Mountain và tôi thấy bên trong hầu như mỗi chiếc thang trượt tuyết trên đỉnh núi, bao giờ cũng có du khách đang nói chuyện trên điện thoại di động. Một người bạn của tôi đi trượt tuyết nhưng vẫn mang theo một máy nhắn tin, trên máy có thông số giá trị chứng khoán trong các thị trường Dow Jones và những trị giá cổ phần của chính anh ta. Anh ta thường kiểm tra các thông số mỗi khi đi trong thang máy. Khi tôi đang gửi những chương bản thảo của cuốn sách này trong văn phòng hãng chuyển phát nhanh Federal Express sang một nơi khác, dự định đến nơi vào 10 giờ 30 sáng ngày hôm sau, tôi nhìn qua cửa và thấy David Stern, Chủ nhiệm NBA đang bước trên phố, nói máy
điện thoại di động, đàm phán để giải tỏa một lệnh phong tỏa NBA. Sau mỗi ngày đi trượt tuyết tôi sẽ về khách sạn, xem truyền hình cáp, dùng thẻ điện thoại AT&T gọi điện cho bè bạn ở Cairo và Jerusalem hoặc quay số AOL 800 để xem tin tức và kiểm tra xem tôi có email nào mới không. Vào đêm giao thừa năm đó sau khi ăn tối trong một nhà hàng, khi tôi ra nhận áo khoác nơi gửi quần áo, tôi nghe được đoạn đối thoại bực dọc sau đâu giữa một thực khách và hầu bàn: “Anh nói thế có nghĩa gì? Anh không nhận được đăng ký đặt bàn của tôi. Tôi gửi bằng email mấy tuần trước đây! Tên là Ashraf, đánh vần là A-s-h-r-a-f.” Trước khi đi ngủ tôi giở báo USA Today và tìm thấy bức ảnh mà bạn thấy ở chương 3 trong cuốn sách này. Trong bức ảnh là một người Do thái Hasidic gắn chiếc điện thoại di động vào bức tường thiêng liêng ở Jerusalem. Còn nhớ đoạn chú thích: “Shimon Biton áp chiếc điện thoại di động vào Bức Tường phía Tây để một người bà con của anh từ Pháp có thể cầu nguyện tại bức tường thiêng liêng.”
Tất cả những điều đó đã diễn ra khi tôi đang trong kỳ nghỉ trên núi!
Hãy tưởng tượng chuyện gì sẽ diễn ra nếu bạn đang ở nhà hay đang đi làm. Chúng ta ngày nay kết nối với nhau ngày càng nhiều. Ngày mỗi ngày có càng nhiều những người dân đón nhận thêm, hay có khả năng đón nhận thông tin về những sự kiện đang xảy ra trên khắp thế giới, sớm hơn vì với tốc độ nhanh hơn. Trong một thế giới như vậy thì chỉ cần một lượng nhỏ thuốc nổ hay vi trùng hay chất uranium đã được làm giàu thì có thể gây hoang mang và phá hoại cho hàng tỷ người cùng một lúc.
Toàn cầu hóa còn tạo điều kiện cho các phần tử khủng bố gây tiếng vang bằng một cách khác. Khi chip vi tính và công nghệ thu nhỏ khiến cho kích thước của thiết bị nhỏ và nhẹ hơn, mọi thứ trở nên nhỏ và nhẹ hơn. Sam Cohen, người sáng chế ra bom Neutron đã nhận xét trên báo The Washington Times (7/6/1998), rằng trong vòng 10 năm kể từ ngày vụ nổ thử nghiệm bom plutonium ở Alamogordo, Hoa Kỳ, các nhà chế tạo bom có thể thu nhỏ kích thước đầu đạn nhưng không thay đổi sức công phá 20 kiloton – xuống 100 đơn vị. Hoa Kỳ đã phát triển một loại đầu đạn cho NATO – một loại đầu đạn có thể được gắn trên súng bazoka, hai người điều khiển, có sức công phá 1/10 kiloton. Người Nga cũng làm được điều đó. Người Mỹ đã khám phá ra điều đó khi Alexander Lebed, cựu Cố vấn an ninh quốc gia Nga nói rằng có 100 vũ khí hạt nhân mini, được biết đến với cái tên “những trái bom trong cặp da,” bị đánh cắp từ kho vũ khí của lực lượng đặc biệt của Nga. Chính vì thế mà Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng của hãng vi tính Sun Microsystems có lần nói với tôi: “Điều tôi lo lắng nhiều nhất và đó không phải là điều nói quá, đó là toàn bộ hạ tầng cơ sở này rất dễ bị phá hoại, không những do nạn tin tặc mà có khi do có người nào đó vào được trong các tổng đài điện thoại. Trong thế giới ngày nay, những kẻ phá hoại có thể vào trong các tổng đài điện thoại phá phách, sau đó về ăn trưa rồi lại quay lại phá tiếp.”
Khi kết hợp những kẻ giận dữ mà trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa sinh ra, cùng với
khả năng toàn cầu hóa trang bị cho con người ta, bạn sẽ hiểu được điều tôi cho rằng là đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ trong thế kỷ 21: Những kẻ khùng điên được trang bị tối tân. Chính thế, chúng không đơn thuần là một thứ siêu cường bình thường đang đe dọa nước Mỹ trong phần cuối của thế kỷ 20. Đe dọa thực sự đối với nước Mỹ ngày nay là những kẻ điên khùng được trang bị tối tân: chúng căm ghét nước Mỹ hơn bao giờ hết vì lý do toàn cầu hóa và chính những kẻ đó có thể tự ý làm bất cứ điều rồ dại nào, cũng nhờ toàn cầu hóa.
Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, một kẻ điên khùng được trang bị cần phải kiểm soát cả một đất nước trước khi bước ra phá phách toàn bộ thế giới. Nhưng ngày nay, một kẻ điên khùng được trang bị tối tân, dù là đàn ông hay đàn bà, có thể dùng sức mạnh của toàn cầu hóa để, thậm chí, chống lại cả một siêu cường. Trong thời đế quốc La mã, có câu nói: Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome – bắc, nam, đông hay tây. Và cũng qua những ngả đường đó mà Caesar vươn dài quyền lực của ông ta. Đó là những con đường to và đẹp. Nhưng có điều buồn cười khi nói về đường sá. Chúng có hai chiều, và khi những kẻ theo Vandal và Visigoth quyết định tấn công Rome thì họ cũng dùng chính những con đường đó. Toàn cầu hóa cũng là tình huống như vậy.
Và những kẻ khùng điên trang vị tối tân thường thuộc nhiều dạng. Họ có thể rất tức giận nhưng không dùng bạo lực. Hoặc tới mức rất tức giận và cũng rất thích bạo lực. Ví dụ cho loại người tức giận nhưng ít dùng bạo lực đó là những tin tặc, những kẻ đã tấn công tờ báo của chúng tôi, The New York Times, một trụ cột của hệ thống nước Mỹ. Ngày 13/9/1998, tin tặc đã vào trang web của tờ báo. Lần đầu tiên tin tặc vào một trang web của một cơ quan thông tin lớn. Martin Nisenholtz, Chủ tịch của Công ty Truyền thông Điện tử New York Times kể lại cho tôi: “Chúng tôi vừa đăng bản báo cáo Kenneth Starr về Clinton trên trang web hôm thứ sáu, hôm đó là ngày chúng tôi rất vui. Trang web của chúng tôi là trang duy nhất đăng toàn văn báo cáo. Bạn chỉ cần nhấn nút là vào được báo cáo. Hôm đó chúng tôi đã đạt mức kỷ lục số lượng người vào trang web của chúng tôi. Tôi cảm thấy thực sự thỏa mãn với những gì chúng tôi đạt được và đã chấp nhận lời mời đến nói chuyện ở Diễn đàn Quốc tế Wharton ở Philadelphia. Vậy đêm hôm sau, thứ bẩy, tôi đi xuống Philadelphia. 7 giờ 45 sáng chủ nhật tôi nhận được điện thoại từ biên tập viên trang web, nói rằng chúng tôi bị tin tặc. Tin tặc đã xảy ra một lần trước đó khi một nhóm người đã gửi liên tiếp những yêu cầu làm tràn ngập máy chủ của chúng tôi. Nhưng lần này thì khác. Tin tặc đã vào chiếm giữ toàn bộ trang mạng của chúng tôi, từ đó chúng đăng những thông điệp riêng của chúng trong logo HFG, “Tin tặc cho gái.” Chúng đã ghép hình một cô gái khỏa thân vào logo HFG. Chúng tôi chiếm lại trang web và đăng bài đè lên những hình ảnh của chúng. Nhưng chúng sau đó đã chiếm lại và đăng bài đè lên nội dung của chúng tôi. Trong suốt hai tiếng, chúng tôi tranh giành trang mạng của chúng tôi! Bọn tin tặc đã vào chiếm giữ quyền điều khiển máy chủ và đã giữ đầu cầu vào đăng tin trên trang
của chúng tôi. Một khi vào được đó, chúng có quyền quản trị và vận hành không khác thẩm quyền của chúng tôi. Chúng tôi đã bàn đến chuyện loại bỏ hẳn trang mạng đó, nhưng tôi không đồng ý. Nhưng sau cùng thì xuất hiện những lý do buộc chúng tôi phải làm điều đó. Vậy là vào lúc 10 giờ 20 sáng, chúng tôi xóa bỏ trang web và cắt đứt những mối liên lạc đăng bài từ bên ngoài. Cung cách tin tặc lọt vào là do họ đã khai thác một con bọ kỹ thuật trong hệ điều hành Unix. Chúng tôi hủy bỏ trang chủ và xây dựng một trang mới từ những máy chủ trinh nguyên, vốn không nối kết với các điểm tiếp cận từ bên ngoài.”
Điều tôi thấy lý thú là những thông điệp bọn tin tặc đã đăng trên trang mạng của báo Times. Lời nhắn gửi đầu tiên là: “CHÚNG TAO NẮM VẬN MỆNH CỦA CHÚNG MÀY.” Một phần của lời nhắn được mã hóa bằng những kỹ thuật riêng của chúng. Lối viết tiếng Anh của “Hacking for girlies” được viết thành “H4CK1NG FOR G1RL3Z.” Có những âm được thay thế bằng số, như trong phần kết, chúng viết: “R3ST ASSUR3D, W3 WILL B3 BACK SOON.” [Chắc chắn sẽ còn gặp lại nhau].
Những tay tin tặc rõ ràng đã hí hửng, gần như Jesse James, trong cái cách cố chứng minh rằng chúng thông thái hơn cả một cơ cấu quyền lực toàn cầu – đại diện bởi The New York Times và trang web của nó. Lời nhắn của chúng có hàm ý rằng bạn có thể giàu có nhưng bạn không thể cạnh tranh với những bộ óc trong thế giới ngầm Internet, dẫu cho chúng không có nhiều quyền lực. Dường như chúng nói rằng những bộ óc của chúng cũng có giá trị ngang ngửa. Có lúc những tin tặc đã viết: “Chúng tao dùng toàn chữ hoa và không dùng thứ ngôn ngữ “thời thượng” không có nghĩa là chúng tao là trẻ con, hay cũng không có nghĩa là chúng tao không thể nắm giữ vận mệnh của chúng mày. Đối với những kẻ coi chúng tao là trẻ nhỏ, chứng tỏ có thêm một kẻ đánh giá thấp chúng tao. Hơn nữa, an ninh của chúng mày rồi giờ đây sẽ ra sao? Những “trẻ nhỏ” đã vượt qua được bức tường lửa trị giá 25.000 đô-la của chúng mày, vượt qua hệ thống quản trị mạng dày dạn kinh nghiệm và dày dạn văn bằng học hành trường lớp. Lêu lêu.”
Những kẻ tin tặc chỉ đòi hỏi một điều: đó là trả tự do cho Kevin D. Mitnick, một tin tặc khét tiếng đang bị cầm tù sau khi bị FBI bắt giữ vào tháng 2/ 1995. Mitnick, một thời bị truy lùng gắt gao trên toàn thế giới, đã bị buộc tội đã chiếm hữu hàng ngàn tập dữ liệu và ít nhất là 20.000 số thẻ tín dụng từ các máy vi tính trên toàn đất nước. Hoạt động trên một máy tính có modem nối với điện thoại di động của y, Mitnick đã bị bắt sau khi xâm nhập vào máy tính của Tsutomi Shimomura, một chuyên viên về an toàn máy tính nổi tiếng, nghiên cứu sinh trong Trung tâm Máy tính San Diego. Shimomura đã giúp đỡ cho một nhóm các kỹ thuật viên điện thoại và những nhà điều tra liên bang sử dụng thiết bị truy quét sóng điện thoại di động để truy tầm Mitnick.
Những tin tặc đó chẳng qua là những kẻ cực đoan trên Internet. Chúng có những tập tục riêng, tôn thờ những người hùng riêng, có ngôn ngữ riêng, có triết lý riêng và
có nguồn động viên tinh thần riêng. Nhưng chúng không có một ý thức hệ chính trị nhất quán để có thể hình thành một hệ thống mới cho thế giới. Chúng giống như nhân vật Harpo. Những kẻ có thái độ nhưng không có ý thức hệ. Họ chỉ muốn phá những trật tự quyền lực hiện có. Họ muốn chứng tỏ rằng cái trật tự đó không kiểm soát được họ, và ngược lại, chính họ lại có thể kiểm soát được trật tự đó.
Đi lên một bước thang bạn sẽ thấy có những kẻ điên khùng hơn một chút và ham thích bạo lực hơn một chút. Giống như những du kích con hổ Tamil đã tấn công tòa đại sứ Sri Lanka ở Washington hồi tháng 9/1998. Tờ Washington Post kể lại câu chuyện đó: “Sau khi tòa đại sứ Sri Lanka mở một địa chỉ email thì những con hổ Tamil đã tìm ra một thủ đoạn khủng bố mới. Họ gửi liên tiếp đến tòa đại sứ các email dọa giết và những loại email rác rưởi – đến mức các viên chức trong tòa đại sứ không thể dùng được địa chỉ đó để giao dịch công việc được nữa. Một nhà ngoại giao gọi đó là ‘khủng bố bằng email.’” Câu chuyện kể tiếp rằng vào năm ngoái, tòa đại sứ đã phải mời đến một chuyên gia máy tính để lập một chương trình sàng lọc các loại email, đặc biệt lọc ra những email của Những con hổ Giải phóng Tamil Eelam (LTTE). Chiến thuật của những con hổ đó báo cáo về khủng bố toàn cầu của Bộ Ngoại giao xem là một mối đe dọa mới. Báo cáo nói đến một nhóm tự xưng là Những con hổ đen Internet, đã tấn công hồi tháng 8/1997, dùng “vũ khí” email và đã làm tê liệt hệ thống thư tín điện tử của các tòa đại sứ. “Nhóm này tuyên truyền trên Internet rằng họ là bộ phận tinh hoa của LTTE, có chuyên môn về ‘bom cảm tử email,’” Bộ Ngoại giao cho biết. Nhóm này đã dùng cái gọi là “Tên lửa email chống máy chủ,” xác định một địa chỉ email và dùng các biện pháp làm gián đoạn hoạt động đến mức người có địa chỉ đó phải hủy bọ toàn bộ kết cấu thư điện tử của họ.
Sau cùng, có những kẻ chống đối không những điên khùng mà còn hết sức ham bạo lực, và chúng không chỉ dùng có email. Đó là những Harpo có súng. Họ cảm thấy trên thế giới có một hệ thống quản trị, một hệ thống không bao giờ kết nạp họ. Trong quan điểm của họ, Hoa Kỳ, IBM, The New York Times, phố Wall và nền kinh tế toàn cầu là những bộ phận của một khối quyền lực cần bị đánh đổ. Những kẻ điên khùng đó bao gồm giáo phái Aum Shinrikyo (Chân lý Tối thượng) ở Nhật Bản, nhóm Osama bin Laden ở Afghanistan, Kẻ đánh bom nặc danh ở Hoa Kỳ và nhóm Ramzi Yousef ở New York. Aum Shinrikyo là người đã răn dạy cho những môn đồ của hắn một hỗn hợp gồm Ấn Độ giáo, Phật giáo và rất nhiều những lý thuyết trên thế giới có dính dáng tới Hoa Kỳ, người Do Thái và những nhà tư bản toàn cầu. Giáo phái này đã giết 12 người, làm bị thương vài ngàn người hồi tháng 3/1995 khi cho xả chất ga sarin độc hại trong một ga tàu điện ngầm ở Tokyo. Tuy nhiên, theo tờ The Economist, Aum Shinrikyo đã quy tụ được khoảng một tỷ đô-la tài sản và đã mua được một loại trực thăng tối tân của Nga để có thể rải chất độc hủy diệt. Osama bin Laden, một triệu phú người Ả rập Xê út, vào tháng 8/1998 đã chi trả cho những vụ đánh bom vào các tòa
đại sứ của Mỹ ở Kenya và Tanzania, giết hơn 200 người. Hắn đã dùng điện thoại di động và trang mạng Jihad Online (JOL) để liên lạc với nhiều nơi trên thế giới. Tờ The New York Times đã đưa tin FBI đã tìm ra trong một máy vi tính cá nhân của Haroun Fazil, một trong những tay chân của bin Laden ở Kenya, một điện thư email trong đó mô tả người này theo dõi tình hình thế giới trên truyền hình CNN, dùng Internet để liên lạc với những thành viên khác trong mạng lưới của bin Laden. Trong email đó Fazil tự nhận là “phụ trách thông tin và truyền thông của khu vực Đông Phi.
Ramzi Yousef là kẻ cầm đầu vụ đánh bom tòa Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York ngày 26/2/1993, giết sáu người và làm bị thương hơn 1.000 người. Hắn có nguồn gốc từ một thế hệ những kẻ giận dữ trong thế giới thứ ba, những kẻ mong muốn làm những điều mà thế hệ cha chú của họ không làm được. Điều đó là đã hướng căm giận của họ vào phương Tây, trả thù cho những rối loạn mà phương Tây gây ra trong xã hội của họ. Họ làm điều đó bằng cách sử dụng công nghệ phương Tây trong khi không chấp nhận giá trị của phương Tây. Họ thích thú với ý tưởng sẽ hấp thụ toàn bộ kỹ nghệ mới, tiêu pha bằng thẻ tín dụng, trong khi tiếp tục giữ lối sống ẩn mình và khăn voan che mặt. Trong khi những kẻ cực đoan Internet chỉ dùng đến chuột máy tính và bọ vi tính làm vũ khí, thì Ramzi và đồng bọn sẵn sàng dùng thuốc nổ và xe tải để chở thuốc nổ. Nhưng họ cũng có một mục đích chung – nhổ vào bộ mặt Mỹ hóa-toàn cầu hóa và đạp đổ nó, sử dụng chính kỹ thuật của toàn cầu hóa để chống lại nó.
Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trao quyền tiêu biểu. Hãy xem xét về bản thân con người của hắn. Đường lối của hắn là gì? Ý thức hệ của hắn ra sao? Rốt cuộc thì hắn là người muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Liệu hắn có muốn thành lập một nhà nước Palestine ở Brooklyn hay không? Hay một nước cộng hòa Hồi giáo ở bang New Jersey? Không. Hắn chỉ muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất của Mỹ. Hắn nói trước phiên tòa Liên bang ở khu Manhattan là mục tiêu của hắn là sẽ làm cho một tòa nhà nổ tung, rồi sập sang làm đổ nốt tòa nhà thứ hai, hòng giết 250.000 dân thường. Thông điệp của Ramzi Yousef chính là ở chỗ hắn không có thông điệp nào cả, ngoại trừ việc xé bỏ những thông điệp của Hoa Kỳ. Báo The Economist đã đăng “một thời những kẻ khủng bố “muốn gây tai họa khiến cho nhiều người biết và ngưỡng mộ nhưng không muốn nhiều người chết.”” Thời đó qua rồi. Ngày nay, những kẻ khủng bố muốn rất nhiều người chết. Chúng không muốn thế giới thay đổi. Chúng biết rằng sẽ không làm được điều đó, vậy thì chúng muốn phá phách được bao nhiêu thì cứ phá.
Tuy nhiên trong câu chuyện về Ramzi tôi thích một chi tiết đó là Mohammed Salameh, một trong những đồng bọn của của Ramzi, sau vụ nổ ở trung tâm thương mại, đã quay lại công ty cho thuê xe tải, nơi hắn thuê chiếc xe chở chất nổ. Salameh trước đó đã trả 400 đôla đặt cọc để thuê chiếc xe, và nay hắn muốn lấy lại số tiền đó,
ngay cả khi chiếc xe đã bị hắn làm nổ tung. (Hắn giải thích với nhân viên ở đó là xe đã bị đánh cắp.) Đối với Salameh, thế giới có hai mảng khác biệt. Vào buổi sáng bạn có thể đánh bom trung tâm thương mại, giết được càng nhiều người càng tốt, đó là chân lý thiện thắng ác của bạn; đến chiều bạn đến đòi lại tiền, sử dụng những luật lệ của người Mỹ về vấn đề giao kèo. Đó là hình ảnh hay nhất cho thấy những kẻ điên khùng đã tận dụng công nghệ của thế giới hiện đại mà không cần phải chấp nhận giá trị của thế giới đó. Khi bị các công tố viên hỏi rằng vì sao Salameh đã quay lại đòi tiền đặt cọc – Ramzi Yousef trả lời cộc lốc: “Đồ ngu.” Quả thực Salameh đã giúp cảnh sát lần ra được Ramzi Yousef. Cảnh sát đã truy ra hắn ở Philippines. Họ vào căn hộ và tìm được chiếc máy tính xách tay Toshiba màu trắng của hắn bỏ lại và tìm được những kế hoạch mới của hắn trong ổ cứng của máy tính. Đó là vào tháng 1/1/995, trước khi hắn bị bắt giữ. Phần lớn trong bản án của chính phủ Mỹ dành cho Yousef là dựa trên những dữ liệu tìm thấy trong máy tính của hắn – bao gồm các lịch bay, giờ cho nổ và các tài liệu chứng minh danh tính trong đó có ảnh của một số đồng bọn. (ngoài việc gây nổ Trung tâm Thương mại Thế giới hồi năm 1993, hắn còn có kế hoạch đánh bom một loạt các hãng hàng không Mỹ ở Á châu vào năm 1995). Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân – một tay giữ thuốc nổ tay kia cầm ổ cứng máy vi tính.
Stephen P. Cohen, chuyên gia về Trung Đông, cho biết điều đáng quan tâm về Ramzi Yousef và những kẻ đang nổi giận trong thế giới Ả rập ngày nay là “họ khi xưa vốn tin rằng họ cần phải lật đổ chính phủ của họ và chiếm quyền, trước khi ra thách thức Hoa Kỳ. Ngày nay họ đứng khiêu chiến với Hoa Kỳ trong tư cách cá nhân.” Toàn cầu hóa không những cho phép những người đó đích thân chống Mỹ. Toàn cầu hóa giúp họ có lý do cũng như nghị lực để làm điều đó. Lý do là việc đất nước của họ không còn đại diện cho cơ cấu quyền lực thực sự nữa. Cơ cấu quyền lực ngày nay mang tính toàn cầu. Chúng nằm trong tay siêu cường Hoa Kỳ và những siêu thị tài chính – chúng đứng ra sai khiến các chính phủ khác. Do đó nếu muốn đánh đổ toàn bộ hệ thống thì bạn phải đánh vào siêu cường đó và các siêu thị đó; không cần động đến những chính phủ như ở Pakistan hay Ai Cập làm gì.
Những điều làm cho những kẻ Giận dữ được trang bị tối tân đó bực dọc không chỉ bao gồm thực tế cho thấy Hoa Kỳ có công nghệ tiên tiến, mà còn ở chỗ Hoa Kỳ tự nhận rằng họ có những hệ giá trị tiên tiến. Trong khi đó thì quan điểm của những kẻ điên khùng đó cho rằng giá trị của Hoa Kỳ chỉ là chủ nghĩa thực dụng lạnh lẽo và lòng ham muốn khôn cùng đối với công nghệ. Đoạn đối đáp sau đây diễn ra vào phần cuối của phiên tòa xử Ramzi Yousef, giữa chánh án Kevin Thomas Duffy và bị can. Một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân chống lại một siêu cường.
Ramzi Yousef: “Ông cứ nói mãi về sự trừng phạt tập thể và giết chóc dân thường… Bản thân các ông là người đi đầu trong việc giết những người vô tội, và các ông là
người đầu tiên reo rắc khủng bố vào lịch sử nhân loại khi ném một trái bom nguyên tử giết hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em ở Nhật Bản và khi dùng bom cháy giết hơn 100.000 người, phần lớn là dân thường, ở Tokyo. Các ông đã đốt họ đến chết. Và các ông đã dùng hóa chất, gọi là chất độc màu da cam, giết dân thường ở Việt Nam. Các ông đã giết dân dân thường và những người vô tội, không phải binh lính, trong mỗi cuộc chiến mà các ông tham gia. Mỹ tham chiến nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trong thế kỷ này, vậy mà giờ đây còn cả gan nói về chuyện giết chóc dân thường vô tội. Và giờ đây các ông đẻ sáng chế ra nhiều cách thức giết hại dân thường. Các ông có cái gọi là trừng phạt kinh tế, mà có thể giết chỉ trẻ em và người già. Ngoài Iraq, các ông đã áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Cuba và nhiều nước khác trên 35 năm nay. Công tố viên Chính phủ, trong phần mở đầu và kết thúc của bản án đã gọi tôi là một ‘kẻ khủng bố.’ Vâng, tôi là một kẻ khủng bố, và tôi tự hào về điều đó. Và tôi ủng hộ khủng bố khi mà điều đó chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Israel, vì các ông còn tồi tệ hơn những kẻ khủng bố; các ông là người đã phát minh ra khủng bố và sử dụng khủng bố hàng ngày. Các vị là những kẻ sát nhân, dối trá và đạo đức giả.”
Chánh án Kevin Thomas Duffy đã đáp lại – tựa như đã đòi hỏi Yousef hãy nuốt lấy những cơn giận của hắn: “Ramzi Yousef, anh tự nhận là một chiến binh Hồi giáo. Trong số những người bị giết hay bị hại trong vụ nổ bom Trung tâm Thương mại Thế giới, anh không chỉ ra được một ai trong số họ đã chống lại anh hay chống lại sứ mệnh của anh. Anh không quan tâm, miễn làm sao giết và làm bị thương càng nhiều người càng tốt. Ramzi Yousef, anh không đáng là một người dương ngọn cờ Hồi giáo. Đức chúa của anh là thần chết. Đức chúa của anh không phải là thánh Allah… Anh không phải là người truyền giáo. Điều duy nhất anh muốn làm là gây chết chóc. Đức chúa của anh không phải là thánh Allah. Anh tôn thờ cái chết và sự phá hoại. Những gì anh làm không phải vì đức Allah; anh làm những điều đó chỉ để thỏa mãn cái tôi méo mó của anh. Anh có thể đã khiến cho những người khác coi anh là một người lính, nhưng những vụ tấn công vào nền văn minh, mà nhờ có nó anh được đứng đây để chịu luận tội, mang mục đích lén lút và để giết chóc những người dân hoàn toàn vô tội… Ramzi Yousef đến đất nước này làm ra vẻ là một phần tử Hồi giáo chính thống, nhưng anh chỉ quan tâm rất ít hay không quan tâm đến Hồi giáo hay lòng tin của dân Hồi giáo. Thay vào đó, anh không chấp nhận thánh Allah, mà chấp nhận thứ quỷ dữ mà anh đã hóa thân vào. Và tôi phải nói là trong thân xác của quỷ dữ anh đã có hành động đúng nghĩa quỷ dữ.”
Đối với những người như Yousef thì liệu có lời bào chữa nào dành cho họ không? Thật lý tưởng nếu có những niềm tin cho rằng với những đường lối văn hóa hay kinh tế hay xã hội đúng đắn thì có thể xóa đi những hằn thù và giận dữ trong những lớp người cảm thấy bị Mỹ hóa-toàn cầu hóa đè nén. Những người như Ramzi Yousef đã chịu mất mát nhiều hoặc có những hằn học đến cực độ. Sự thông cảm hay những
chương trình xã hội sẽ không cải hóa được họ. Bao giờ cũng có những phần tử cực đoan như Yousef. Giải pháp duy nhất là phải cô lập những kẻ cực đoan đó ra khỏi xã hội lớn. Phương pháp duy nhất là giúp cho các xã hội trên thế giới và các thành viên của chúng được tận hưởng và chia sẻ lợi ích của toàn cầu hóa. Tôi sẽ giải trình việc này trong những chương cuối của cuốn sách.
Tuy vậy, chúng ta không nên có ảo tưởng. Những kẻ điên khùng được trang bị tối tân vẫn đang tồn tại và chúng đại diện cho những đe dọa trực tiếp nhất nhằm vào Hoa Kỳ và sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Điều đó không có nghĩa Ramzi Yousef có thể trở thành một siêu cường. Không, không, không. Điều đó có nghĩa là trong thế giới ngày nay có rất nhiều người có thể trở thành những Ramzi Yousef.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.