Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu
7. Bầy thú điện tử
Tháng 9 năm 1997, Thủ tướng Malaysia, bác sĩ Mahathir Mohamad đã sử dụng cuộc họp của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Hồng Kông để lên án những điều xấu xa của toàn cầu hóa. Đó là thời điểm các loại trái phiếu và đồng tiền của Malaysia đang bị các nhà đầu tư ngoại quốc tấn công.
Mahathir gọi những nhà buôn tiền tệ là “đồ đê tiện”, ông còn kết tội những “Siêu cường” và các nhà tài phiệt như George Soros đã buộc Á châu phải mở cửa những thị trường nội địa, khiến các nhà đầu cơ tài chính toàn cầu tràn vào lũng đoạn trong tư cách đối thủ cạnh tranh.
Ông so sánh các thị trường vốn trên toàn cầu với hình ảnh “Một khu rừng rậm nhiệt đới với những con thú hung dữ”, và nói bóng gió rằng chúng được một bè đảng Do thái điều khiển. Khi lắng nghe những công kích của Thủ tướng Mahathir, tôi cố gắng tưởng tượng về cách đối đáp của Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Robert Rubin, cũng đang ngồi trong cử tọa để nghe ông Mahathir. Nếu được phép nói thẳng, có lẽ Rubin sẽ phản ứng như sau:
“Xin lỗi ông Mahathir, ông đang sống ở hành tinh nào vậy? Ông nói về chuyện gia nhập toàn cầu hóa cứ như là một lựa chọn vậy. Toàn cầu hóa không phải là một lựa chọn. Đó là một thực tế. Ngày nay chỉ có một thị trường toàn cầu. Và phương pháp duy nhất để ông có thể tăng trưởng và lôi kéo dân chúng của ông phát triển là phải sử dụng các nguồn cổ phần và trái phiếu trên toàn cầu, bằng cách mời các công ty xuyên quốc gia vào làm ăn ở Malaysia và bán sản phẩm từ các nhà máy của ông trên hệ thống thị trường thế giới. Và thực tế cơ bản nhất liên quan đến toàn cầu hóa là: Không có ai lãnh đạo – cả George Soros, lẫn “siêu cường” hay bản thân tôi đều không phải là những người chỉ đạo. Tôi không phải là người đã phát động toàn cầu hóa. Cả tôi và ông đều không thể chặn nó được – nếu không muốn xã hội của ông hay tôi phải trả một giá cực kỳ đắt, và chịu ngưng tăng trưởng. Ông cứ cố tìm người để đổ lỗi, để giúp giảm áp lực ở các thị trường nội địa. Nhưng thưa ông Mahathir, ông không tài nào tìm được ai đâu. Tôi biết điều đó khiến ông khó mà chấp nhận. Giống như việc nói với người ta rằng không có Chúa vậy. Ai cũng như ai, đều tin, muốn tìm và buộc ai đó phải đứng ra chịu trách nhiệm. Nhưng trên thương trường tài chính ngày nay có một bầy thú bao gồm những tay buôn cổ phần và tiền tệ cùng những nhà đầu tư tài chính xuyên quốc gia ẩn danh – họ móc nối với nhau bằng các mạng điện toán và Internet. Và Mahathir, xin ông đừng có vờ lẩn thẩn với tôi. Hai chúng ta đều biết rằng ngân hàng nhà nước của ông đã để mất ba tỷ đô-la trong vụ đầu cơ đồng bảng Anh hồi đầu những năm 90 – nên ông đừng nói thêm những điều xằng bậy, ra vẻ thánh thiện nữa. Bầy Thú Điện Tử không nương tay với bất cứ ai. Chúng không chấp nhận chuyện ai
đó có hoàn cảnh riêng và độc đáo. Luật chơi của bầy thú rất nhất quán – đó là luật chơi dùng chiếc áo nịt vàng. Thưa ông, bầy thú này kiếm ăn ở 180 quốc gia, nên chúng không có thời gian để tìm hiểu tỉ mỉ những đặc điểm của Malaysia đâu. Chúng nhanh chóng quyết định xem ai là người tuân thủ luật chơi, thưởng rất hậu cho những đất nước có hệ thống tài chính minh bạch. Chúng không muốn thấy những sự đột biến gây sửng sốt. Đã nhiều năm, dường như Malaysia tuân thủ luật chơi của chúng và đã thu hút rất nhiều khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, giúp cho quý vị nâng thu nhập bình quân trên đầu người từ 350 đô-la lên tới 5000 đô-la trong vòng một hai thập niên. Nhưng đến khi quý vị bắt đầu phá luật lệ bằng cách vay nhiều quá để xây dựng quá mức, thì, e hèm, bầy thú đã bỏ rơi quý vị. Có thực sự cần thiết phải xây hai tòa tháp cao nhất thế giới ở Kuala Lumpur không? Khi xây xong ông đã cho thuê được phân nửa diện tích của chúng chưa? Hình như chưa. Chính vì thế bầy thú đã giận dữ và đè bẹp ông trên đường kiếm ăn của chúng. Năm 1997, chỉ số chứng khoán KLCI (tương tự Dow Jones) của Malaysia đã sụt 48%, và trị giá đồng tiền Malaysia sụt xuống mức thấp nhất trong vòng 26 năm. Khi điều đó xảy ra, ông đừng có mong bầy thú giúp đỡ, rủ lòng thương, ông đừng nên lên án “hội âm mưu của nhóm người Do Thái”, ông hãy đứng dậy, phủi quần áo, khoác lên tấm áo nịt vàng, và đi theo con đường bầy thú đã đi. Tất nhiên thật là bất công. Về một số khía cạnh, hình như bầy thú đã dụ ông vào lối cụt: chúng hứa hẹn sẽ cho ông vay ngoại tệ giảm giá, ông đã lấy của chúng, rồi dùng để xây dựng quá nhiều những đập nước, nhà máy và tháp thương mại. Nhưng đó chính là điều đáng lo sợ. Không phải lúc nào bầy thú cũng đúng cả. Thưa ông Mahathir, chúng cũng mắc lỗi. Chúng phản ứng quá tay, tham vọng quá mức. Nhưng nếu những nền móng căn bản của kinh tế và tài chính của Malaysia là vững chắc, thì bầy thú, cùng tài chính, rồi sẽ quay lại với ông thôi. Bầy thú không ngu ngốc quá lâu đâu. Trước sau chúng đều muốn trợ giúp những ai duy trì được công tác quản lý kinh tế và đất nước một cách đúng đắn. Xin nói, khi còn là một thị trường mới trỗi dậy, với những “bong bóng” trong xây dựng đường sắt, Hoa Kỳ cũng phải trải qua những tình huống bấp bênh như Malaysia hiện nay”.
“Ông cần phải kiểm soát tình thế và xây dựng những bước đệm để tránh những cú sốc đầu tư. Hàng ngày tôi theo dõi đường đi của Bầy Thú Điện Tử qua màn hình của hãng Bloomberg để bên bàn làm việc. Thông thường ở những nước có nền dân chủ, người ta bầu cho những chính sách của chính phủ hai hay bốn năm một lần. Nhưng bầy thú này biểu quyết tín nhiệm thường xuyên tới từng phút từng giờ. Bất cứ lúc nào ông cần, bầy thú đều có thể báo cho ông chính xác vị trí của nền kinh tế của ông trong chiếc áo nịt ra sao, chiếc áo vừa hay rộng đối với đất nước của ông. Tôi biết ông nghĩ rằng tôi là một nhân vật hùng mạnh trong tư cách Bộ trưởng Tài chính của Hoa Kỳ. Nhưng thực ra, giống như ông vậy thôi, Mahathir, tôi cũng rất lo và phải đối phó thường xuyên với Bầy Thú Điện Tử. Những thằng ngu trong giới truyền thông thường
đưa tôi lên trang nhất của báo chí, cứ làm như tôi thật sự là người đứng mũi chịu sào. Nhưng tôi ngồi đây lo lắng không rõ Quốc hội Mỹ có duyệt cho chính phủ, cho Tổng thống được phép mở rộng ngoại thương hay không – hay chúng tôi bị buộc phải hạn chế ngân sách để rồi bầy thú giận dữ, đạp nát đồng đô-la cũng như chỉ số Dow Jones. Hãy cho tôi được tiết lộ một chút bí mật, Mahathir, đừng nói với ai khác: trên bàn làm việc của tôi không còn máy điện thoại đâu vì tôi hiểu hơn ai hết là: Không có ai để gọi đến cứu giúp”.
Dẫu bạn có không đồng ý, thì theo tôi, những điều tưởng tượng nói trên là sự thật. Các quốc gia ngày nay sẽ không thể tăng trưởng nếu không nhờ cậy đến Bầy Thú Điện Tử. Chúng cũng không thể tăng trưởng mạnh nếu không tận dụng và khai thác triệt để thế mạnh của bầy thú, tránh được những cú sốc mà bầy thú gây ra. Cũng tương tự như đường dây điện cao thế nối vào căn nhà của bạn vậy. Thông thường đường dây đó giúp sưởi ấm và mang năng lượng vào nhà của bạn. Nhưng nếu bạn không có những hệ thống công tắc và đảm bảo an toàn, và nếu có những đột biến về điện thế, thì bạn có thể bị điện giật, đốt cháy thui.
Bầy Thú Điện Tử được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất tôi xin gọi là “Những con thú sừng ngắn”. Nhóm này gồm những tay buôn chứng khoán, trái phiếu và tiền tệ. Họ buôn trên khắp thế giới và chuyển tiền rất nhanh chóng từ nơi này đến nơi khác. Nhóm sừng ngắn gồm các tay buôn tiền tệ, các quỹ hưu bổng,hỗ tương, đầu cơ, các công ty bảo hiểm, các phòng giao dịch của nhà băng và các cá nhân đầu tư. Chúng có quy mô cỡ Merrill Lynch cho tới Credit Suisse, tới Fuji Bank hay trang web Charles Schwab nơi mỗi người nếu có một máy vi tính cá nhân và một modem thì đều có thể giao dịch qua mạng từ phòng khách.
Nhóm thứ hai tôi gọi là “Những con thú sừng dài”. Chúng là những công ty xuyên quốc gia – những loại như General Electrics, General Motors, IBM, Intel hay Siemens
– đang tham gia vào các hoạt động đầu tư trực tiếp, xây dựng nhà máy trên thế giới hoặc tìm ký những hợp đồng sản xuất dài hạn ở nhiều nơi để hợp tác sản xuất hay lắp ráp sản phẩm. Tôi gọi chúng là loại “Sừng dài” vì chúng cần phải cam kết dài hạn hơn mỗi khi quyết định đầu tư vào một quốc gia. Nhưng thời buổi này chúng vẫn có thể ra hay vào rất nhanh chóng.
Mặc dầu Bầy Thú Điện Tử được sinh ra và lớn lên dưới thời Chiến tranh Lạnh, chúng đã không bị tiêm nhiễm những trì trệ và cản trở của thời đó. Thời đó, phần lớn các quốc gia đều kiểm soát chặt chẽ vốn liếng của mình (ít nhất cho tới những năm 70), cho nên tư bản không thể bị chuyển dời xuyên biên giới một cách nhanh chóng và dễ dàng như trong toàn cầu hóa thời nay. Chiến tranh Lạnh khiến các con thú khó có thể được tập hợp trên toàn thế giới. Trong những nền kinh tế tương đối bị đóng cửa thuộc thời điểm trước những năm 70, chính phủ là cơ quan duy nhất thống lĩnh chính sách tiền tệ của đất nước, tự quyết mức lãi suất, chính sách tài chính của chính phủ, và
chính sách tài chính là công cụ duy nhất quyết định và kích thích tăng trưởng. Trong Chiến tranh Lạnh, chính phủ Hoa Kỳ và Liên Xô có thể dễ dàng minh định được mức tăng thuế trong chính sách tài chính để phục vụ chiến tranh: “Chúng tôi cần những đồng đô-la thuế của đồng bào để chống giặc, đưa một người lên mặt trăng cho nhanh và xây dựng một hệ thống đường cao tốc để chuyển quân cho nhanh”. Đồng thời các nước đang phát triển cũng tận dụng cơ hội để sống nhờ vào những siêu cường như Hoa Kỳ, Liên Xô hay Trung Quốc, hoặc sống nhờ những định chế tài chính quốc tế để xây đập, xây dựng quân đội và làm đường xá. Và dân chúng ở các nước đang phát triển lúc đó cũng không thấu hiểu cho lắm mức sống của những người khác trên thế giới, họ cam chịu mức sống thấp trong một nền kinh tế chậm rãi và tương đối bị khóa kín.
Sự xóa bỏ kiểm soát dần dần đối với tư bản trong những năm 70, trào lưu dân chủ hóa tài chính, công nghệ và thông tin, Chiến tranh Lạnh kết thúc và những rào cản sụp đổ, tất cả làm xuất hiện một cánh đồng rộng lớn, trên đó các loại thú tha hồ tụ tập và chạy nhảy. Trên cánh đồng thẳng cánh cò bay đó, sau này được mở rộng vào không gian điện toán, Bầy Thú Điện Tử có thể kiếm ăn, lớn lên, sinh sôi và lập bầy đàn trong những Siêu thị [tài chính]. Vào cuối thế kỷ 20, đầu tàu của hệ thống tài chính toàn cầu chính là khu vực tư nhân – Bầy Thú Điện Tử và các siêu thị tài chính đã trở thành, theo lời Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers có lần nói, “là nguồn vốn tư bản chủ yếu để tăng trưởng”, thay thế cho khu vực công. Đó là thực tế trong các nước và trong quan hệ giữa các nước phát triển và khối đang phát triển. Theo Bộ Tài chính Mỹ, trong những năm 90, gần 1.300 tỷ đô-la tiền vốn tư nhân đã tràn sang các nền kinh tế mới trỗi dậy, so với con số 170 tỷ đô-la trong những năm 80 và một con số nhỏ giọt hơn trong những năm 70. Không thể tìm được chỉ số nào rõ ràng hơn cho thấy Siêu thị nay đang dần thay thế các siêu cường trong lĩnh vực tập trung vốn để tăng trưởng.
Những siêu thị tài chính đó nằm ở Tokyo, Frankfurt, Sydney, Singapore, Thượng Hải, Hồng Kông, Bombay, Sao Paulo, Paris, Zurich, Chicago, London và New York. Chúng là nơi những thành viên lớn nhất của Bầy Thú Điện Tử tập hợp lại để trao đổi thông tin, thực hiện giao dịch và phát hành chứng khoán và trái phiếu của các công ty khác nhau. Theo Saskia Sassen, một chuyên viên về toàn cầu hóa thuộc đại học Chicago thì tính đến cuối 1997, hai mươi lăm siêu thị đã kiểm soát tới 83% vốn của thế giới do các tổ chức quản lý và chiếm khoảng một nửa tổng số vốn toàn cầu – khoảng 20.900 tỷ đô-la (tạp chí Foreign Affairs, 1/1999).
Bầy Thú Điện Tử và những siêu thị nơi chúng tụ tập kiếm ăn đã trở thành những nhân tố quan trọng trong hệ thống toàn cầu hóa. Dẫu cho chúng không gây chiến và xâm lược các quốc gia có chủ quyền, thì chúng hoàn toàn có khả năng tác động đến hành vi của các quốc gia đó bằng nhiều cách. Chính vì thế tôi nhận định rằng hệ
thống Chiến tranh Lạnh được duy trì trên thế cân bằng giữa lực lượng của các quốc gia, trong khi toàn cầu hóa được duy trì bằng sự cân bằng cũng giữa các quốc gia với nhau, cộng thêm cán cân quan hệ giữa các quốc gia cùng Bầy Thú Điện Tử và các chuỗi siêu thị.
Từ ngày hệ thống viễn thông xuyên Đại Tây Dương được hình thành trong bối cảnh toàn cầu hóa thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, một thứ Bầy Thú Điện Tử đã xuất hiện và hoạt động, nhưng rồi suốt thời gian Chiến tranh Lạnh, chúng không có được tầm quan trọng như ngày nay. Đặc tính mới mẻ của bầy thú ngày nay không phải ở chỗ chúng khác trước, mà ở chỗ tầm hoạt động và tính chất của chúng. Trong thời toàn cầu hóa hiện tại, bầy thú ngày nay, loại sừng ngắn cũng như sừng dài, đã kết hợp được kích cỡ, tốc độ và tính đa dạng của chúng tới một mức độ chưa từng có trong lịch sử. Ta so sánh giữa đuôi một con chuột với đuôi một con khủng long Tyrannosaurus, cả hai cùng được gọi là “đuôi”, nhưng một cái, khi vẫy thì khiến cả thế giới khiếp đảm. Bầy thú trong thời toàn cầu hóa thứ nhất có thể được ví như cái đuôi chuột vậy; còn bầy thú trong thời toàn cầu hóa ngày nay giống như đuôi khủng long, mà mỗi lần vẫy, chúng tái tạo nền móng và hình thù của môi trường và thế giới xung quanh. Chương này sẽ giải thích làm thế nào mà Bầy thú đó có trở thành một nguồn tài lực hấp dẫn đối với tăng trưởng kinh tế ngày nay và đồng thời cũng là một thế lực đe dọa tới mức có thể lật đổ được các chính phủ.
Bầy thú sừng ngắn
Điều mà bầy thú sừng ngắn làm người ta sửng sốt ngày nay là thức ăn của chúng – đó là những sản phẩm tài chính đa dạng. Hỗn hợp các loại cổ phần và trái phiếu, hàng hóa và hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền lựa chọn và hợp đồng phái sinh đến từ nhiều quốc gia và thị trường trên thế giới khiến bạn có thể đặt cọc đầu tư trên bất cứ mặt hàng hay dịch vụ gì.
Quả nhiên, khi tôi nhìn vào túi thức ăn của bầy thú tôi thường hình dung tới cảnh trong phim Guys and Dolls, trong đó Nathan Detroit muốn đánh cuộc với Sky Masterson rằng Mindy’s có bán được nhiều bánh pho mát hơn là loại bánh làm từ trái cây. Nathan nói: “Tớ muốn biết, cậu có thể đoán nhanh: Mindy’s bán nhiều bánh pho-mat hơn hay bánh trái cây hơn?”
Sky nói rằng theo lối nghĩ chủ quan của mình thì Mindy’s bán nhiều bánh pho-mat hơn. Điều xảy ra sau đó là Sky sẽ đánh cuộc, đặt tiền vào bánh pho-mat, trong khi Nathan là người đã kiểm tra trong bếp, và biết chắc chắn, là Mindy’s bán nhiều bánh trái cây hơn (Nathan muốn đánh vào tính háu ăn của Sky). Sky là người rất thích đánh bạc. Thông thường, anh chàng sẽ cược vào bánh pho-mát như cái lối anh em nhà Salomon muốn đặt tiền vào khả năng lãi suất thay đổi. Nhưng Sky sau đó nhận ra có thể có một cái bẫy khi thấy Nathan rất háu, muốn đặt tiền nhanh chóng, mà đặt hẳn 1.000 đô-la.
Thành ra, thay vì chấp nhận đánh cuộc, Sky kể cho Nathan một câu chuyện ngụ ngôn. “Nathan, xin kể cho bạn một câu chuyện”, Sky nói. “Cái ngày tôi ra khỏi nhà để đi chu du trên thế gian, bố tôi gọi tôi đến và nói, “Con ạ, con thông cảm vì đời bố không để dành cho con được chút vốn liếng đáng kể nào. Không để lại cho con được tiền nong, bố muốn cho con một lời khuyên. Khi chu du thiên hạ, sẽ có một thằng cha cho con xem một bộ bài chưa khui. Nếu thằng đó đánh cuộc là có thể khiến con Bồi Bích trong bộ bài nhảy lên và phun nước vào tai con, thì con chớ có nhận lời đánh cuộc. Vì hầu như chắc chắn rằng hắn có thể làm được điều đó”. Ở đây tôi không muốn nói rằng bạn đã gài bẫy trong chuyện đánh cuộc và bánh pho-mat…
” Nathan nói: “Không đời nào tớ làm chuyện đó?”
Sky: “Nhưng mà (nói đến đây, lấy tay che càvạt của Nathan) nếu bạn thực sự muốn đánh cuộc thì tôi cuộc với bạn rằng bạn không thể đoán được màu của chiếc cà-vạt bạn hiện đang đeo trên cổ là gì, 1.000 đô-la?”
Nathan: “Không chịu”.
Sau đó, nhìn chiếc cà-vạt của mình, Nathan thốt lên: “Đốm Polka, không bao giờ có chuyện Nathan chấp nhận thua cả ngàn bạc vào chuyện đánh cá về ba cái màu cà-vạt”.
Nếu Nathan và Sky sống trong thời nay thì có lẽ họ có thể mua loại trái phiếu phát hành dựa vào doanh số bán bánh pho-mat hay bánh làm từ trái cây trong bếp của Mindy. Và cũng có thể có những công cụ tài chính họ có thể mua sắm để tránh rủi ro cho việc đánh cược ấy, dẫu cược bánh ngọt hay bánh pho-mat hay là màu của cà-vạt. Do trào lưu dân chủ hóa tài chính, bất cứ mặt hàng gì, bất cứ thứ gì thời nay đều có thể chuyển hóa thành chứng khoán. Bạn có thể phát hành trái phiếu trên bản thân bạn hoặc trên một năng khiếu mà bạn tự có, giống như ca sĩ David Bowie đã làm. Ông ta thu được 55 triệu đô-la khi bán trái phiếu Bowie hồi năm 1997, dựa trên bản quyền các đĩa hát của ông. Tờ The New York Times đã từng tung ra hàng tít: “Bản thân bạn cũng có thể được định mức khả tín (đáng được đầu tư) AAA”.
Lesley Goldwasser, một người bạn của tôi là một tay buôn trái phiếu hàng đầu ở phố Wall chuyên chuyển loại phim đang được sản xuất thành một thứ trái phiếu. Cô ấy giải thích các công đoạn như sau: “Giả sử bạn sở hữu một cơ sở cho vay tín dụng để mua nhà trả góp ở vùng Minneapolis và đang nắm trong tay 100 hợp đồng vay mua nhà ở địa phương, giả sử có giá trị 100 triệu đô-la, mỗi tháng thu về cho công ty một triệu đô-la tiền lãi và vốn. Công ty này có thể kết hợp, tập trung toàn bộ các khoản tiền tài sản, tiền cho vay thành một mối, sau đó phát hành một loại trái phiếu bán cho dân chúng với giá 1.000 đô-la một trái phiếu. Lợi thế của chuyện đó là nó cho phép công ty này có thể thu hồi được 100 triệu đô-la (đang cho vay) ngay tức khắc, không phải đợi cho các khách hàng của công ty trả dần dần trong vòng 30 năm. Lợi thế đối với dân mua trái phiếu là hàng tháng, họ có thể nhận được tiền từ khoản ngân lưu của
tiền vốn và lãi chảy về hàng tháng, lãi cao hơn mức tiết kiệm thông thường ở nhà băng vài điểm. Điều quan trọng hơn là những trái phiếu được hỗ trợ bằng địa ốc, hàng trăm căn nhà, cho nên mức an toàn là cao, dẫu cho có một hai rủi ro xảy ra khi người vay tiền không trả góp được”.
“Như vậy, người ta nhận thấy rằng nếu có thể quy tụ được các khoản cho vay địa ốc, thì tại sao không quy tụ các phim truyện Hollywood – thậm chí những phim đang được sản xuất. Ví dụ nếu bạn là một hãng làm phim hiện chưa có khả năng vay tín dụng. Ngân hàng đầu tư của tôi sẽ xem xét 10 dự án làm phim của bạn. Chúng cũng không cần phải nằm trong quá trình sản xuất mà chỉ mới ở giai đoạn ý tưởng. Sau đó chúng tôi sẽ đánh giá 10 kịch bản sẽ có triển vọng ra sao, dựa trên những thông số có trước đó: Ví dụ, một phim sẽ là dạng bán chạy nhất, nổi nhất, một phim bán rất chạy, hai phim thuộc vào loại tương đối, hai phim khác tồi hơn, và bốn phim khác thì vừa đủ tiền hòa vốn… Chúng tôi dựa vào cơ sở phân tích xác suất tính ra bạn sẽ kiếm được bao nhiêu tiền trong vòng 5 năm tới. Giả sử bạn phải chi 500 triệu đô-la nhưng sẽ đạt doanh thu là 600 triệu. Chúng tôi sẽ cho bạn vay 400 triệu đô-la với mức lãi suất tương tự như mức lãi suất của công trái trong vòng ba năm cộng thêm một hoặc hai phần trăm. Công ty của bạn sẽ phải hùn thêm 100 triệu cho chi phí làm phim. Sau đó, ngân hàng sẽ chia khoản vay 400 triệu đô-la thành trái phiếu, mỗi trái phiếu có có giá 1.000 đô-la, bán cho dân chúng. Lãi của trái phiếu sẽ được thanh toán khi các phim của bạn bắt đầu được trình chiếu (khi bạn bắt đầu thu nhập). Như vậy, công ty của bạn từ chỗ không có danh tiếng, thiếu tài chính, nay đã vay được tiền để làm ăn, một khoản tiền mà bạn không đời nào vay được từ các ngân hàng. Đó là những công đoạn trong đầu tư hiện nay. Miễn rằng bạn làm ăn chu đáo, sản xuất hay biểu diễn hăng hái và dự tính chắc chắn được các mức thu nhập ổn định trong một thời gian nhất định, ngân hàng chúng tôi có thể biến chúng thành trái phiếu và thu hút vốn hầu bạn”.
Và cho dù mặt hàng là bánh ngọt, tiền vay mua nhà trả góp, tiền nợ thẻ tín dụng, những khoản nợ xấu, tiền mua xe, tín dụng thương mại, dự án làm lại phim Titanic, nợ doanh nghiệp Brazil, trái phiếu chính phủ Lebanon, tài trợ tín dụng ôtô cho General Motors và những nguồn thu nhập của siêu sao nhạc rock David Bowie… tất cả đều có thể được chuyển hóa thành trái phiếu. Kiểm soát tín dụng càng cởi mở giữa các quốc gia thì con người ta sẽ tung ra phát hành thượng vàng hạ cám… biến chúng thành chứng khoán, trái phiếu, phái sinh. Sự phát triển heo hướng chứng khoán hóa đó quả đã “làm thay đổi bản chất của các thị trường tín dụng,” Henry Kaufman, chuyên viên kinh tế phố Wall cho biết.
Đó là điều cũng dễ hiểu. Thời trước, những khoản cha mẹ của bạn vay mua nhà, mua xe, nợ thẻ tín dụng, bảo hiểm nhân thọ và thậm chí những khoản chính phủ Brazil vay từ ngân hàng của cha mẹ của bạn, tất cả đều không được giao dịch tự do
trên các thị trường mở. Chúng chỉ nằm trong các tài khoản cố định trong các ngân hàng hay các công ty bảo hiểm, có trị giá không đổi, được cầm giữ cho tới lúc đáo hạn. Nhưng cho tới những năm 80, tất cả những khoản vay đó được chứng khoán hóa, quy tụ lại và được bán ra trong hình thức trái phiếu, được bán cho bạn và tôi và người cô của bạn, cho bất cứ ai. Các trái phiếu được phép trao đổi, mang giá trị bằng tiền, và giá của chúng lên xuống tùy thuộc vào mức độ lời lỗ của chính trái phiếu, vào sức khỏe của các nền kinh tế, vào mức lãi của chúng trong tương quan với các tài sản khác. Hiệu ứng dây chuyền, theo Kaufman, cho thấy sự chứng khoán hóa đó đã mở ra một nguồn tài sản rất lớn, hàng ngàn tỷ đô-la mà trước đó chưa bao giờ được giao dịch, chưa bao giờ trở thành trái phiếu – “đưa vào thị trường thanh sát trong bối cảnh nhiều đổi thay”. Tình trạng đó đã làm xuất hiện sự đa dạng trên thị trường tài chính – tạo dựng thêm nguồn thức ăn phong phú cho Bầy Thú Điện Tử – và cũng tăng mức độ dao động trong giá trị của tài sản trước đây chưa từng được giao dịch.
Những con bò tót đi đầu trong bầy thú chính là loại có thể đưa ra những giải thích hay nhất. Chúng nhớ lại cái thời Chiến tranh Lạnh, chúng được gặm cỏ trên những mảnh ruộng bị hàng rào cắt xẻ ra sao. Leon Cooperman, cựu Giám đốc chuyên trách về nghiên cứu của Qũy Đầu tư Goldman Sachs, nay là Giám đốc dịch vụ đầu cơ của Omega Advisor, công ty riêng của ông, đã nói với tôi vào năm 1998: “Trong suốt thời gian phục vụ Goldman Sachs – 1967 đến 1991, tôi không thể sở hữu một loại cổ phần nước ngoài hay tham gia một loại thị trường mới trỗi dậy nào. Giờ đây tôi sở hữu hàng trăm triệu đô-la tài sản trên các thị trường Nga, Brazil, Argentina và Chi Lê, và tôi thường rất lo về mức hối đoái giữa đô-la và đồng yên Nhật Bản. Đêm nào cũng vậy, trước khi lên giường, tôi gọi điện để biết tỉ giá đô-la và yên là bao nhiêu, tìm hiểu thị trường Nikkei hay Hang Seng hoạt động ra sao. Chúng tôi đặt khá nhiều tiền vào những thị trường đó. Ngay bây giờ, anh Paul ở đằng kia”, – ông chỉ một nhân viên của mình, người đang theo dõi các dữ liệu chứng khoán và trái phiếu trên một màn hình nhỏ – “đang mua đồng đô-la Canada. Chúng tôi đặt tiền ở mọi nơi. Hai mươi năm trước, tôi không phải lo lắng gì về chuyện này. Giờ đây, lúc nào cũng canh cánh lo âu”.
Sau đó Cooperman mở một ấn bản của tờ tạp chí Phố Wall và đọc cho tôi về những khoản tiền đầu tư khác nhau: “Xin hãy nhìn vào đây… đồng euro, công trái Hoa Kỳ, kỳ hạn S&P, bảng Anh, đậu tương, dầu rán, dầu thô, công trái Singapore, công trái Venezuela, NASDAQ 100, chỉ số Nhật Bản, chỉ số Dow Jones, quỹ hỗ tương, trái phiếu công ty dịch vụ tiện ích, trái phiếu lãi nhiều, trái phiếu công ty, trái phiếu trung gian…” cho đến khi tôi đứng dậy bỏ đi mà vẫn thấy ông ta đọc tiếp.
Tính đa dạng của các loại công cụ tài chính và các thời cơ đã trở thành cơ hội ngàn vàng đối với các nước phát triển cũng như đang phát triển và các doanh nghiệp – khiến cho một vài trong số họ tăng trưởng nhanh chưa từng thấy. Có lần tờ báo The
Ecomonist nhận định: “Những nước nghèo, đang cần những khoản đầu tư lớn nay không còn bị trói buộc bởi thiếu vốn. Những người gửi tiền tiết kiệm không còn phải thấy tiền của họ bị giam hãm trong các thị trường nội địa – họ có thể tìm cơ hội đầu tư
ở nước ngoài để tăng mức lãi trong số dư tiết kiệm của họ.” (25/10/1997). Ngày nay, mỗi một qũy tiết kiệm lớn ở Hoa Kỳ đều tung ra một dịch vụ đầu tư vào ít nhất một “thị trường mới” nước ngoài.
Khi bạn thấy có rất nhiều các sản phẩm, nhan nhản các loại thông tin cập nhật nhanh chóng, thì khả năng cạnh tranh, chớp lấy cơ hội của bạn trở nên nhỏ bé đi. Chính vì thế các nhà đầu tư phải tìm ra mọi cách để tận dụng những lợi thế cạnh tranh nhỏ bé để nhanh chân hơn cả thị trường còn lại.
“Khi gia nhập Goldman Sachs năm 1967”, Cooperman hồi tưởng, “tôi đứng đầu phòng nghiên cứu và đã tuyển dụng các nhà phân tích. Thời đó, một nhà phân tích thường phụ trách theo dõi 75 công ty hoạt động trong khoảng sáu ngành công nghiệp. Gần đây, nói chuyện với một chuyên viên tôi từng tuyển dụng, anh ta nói anh làm việc quá sức khi chỉ phải theo dõi có 12 công ty mà thôi. Tôi cười. Chỉ có 12 công ty? Nhưng đúng là bạn phải theo dõi, nhìn sâu hơn nhiều, vào hoạt động của 12 công ty này để hiểu cung cách làm ăn của chúng. Đối với các dữ kiện kinh tế cũng vậy. Thời xưa, mọi người theo dõi mức thất nghiệp chỉ dựa vào những con số mà chính phủ chính thức công bố. Nay người ta nhìn sâu hơn vào diễn biến trong bảng lương – lên hay xuống – vì chúng có thể là những yếu tố để bạn suy đoán và đặt cọc. Sau đó họ nhìn vào thành phần của bảng lương – ai được tăng lương, ai bị cúp bớt đi? Mức độ công việc đòi hỏi để được tăng lương nay lớn hơn nhiều”.
Tôi biết một tay đầu cơ tài chính đã mất hàng giờ đồng hồ nghiên cứu các dự báo thời tiết. Dự báo thời tiết! Anh ta giải thích, “đó là để phán đoán những khuynh hướng đột biến và mức độ chúng ảnh hưởng ra sao đối với các thông số kinh tế. Ví dụ, năm 1998, chúng ta không có mùa đông, như thế có vẻ như nền kinh tế sẽ khá hơn, và tôi đã dựa vào phán đoán như vậy để có thể đặt tiền phỏng theo phán đoán mức thay đổi trong lãi suất. Hay trong một tình huống khác: hiện tượng bùn trượt xuất hiện nhiều ở bờ biển phía Tây, trùng hợp với thời điểm chính phủ thu thập các thông tin kinh tế để tổng hợp các thống kê chính thức, như chỉ số giá tiêu dùng. Hiện tượng thiên tai đó ở những bang lớn như California chẳng hạn, có tác động đáng kể tới các thống kê chính thức. Tôi có thể nhận định, “hãy theo dõi cổ phiếu của hãng Home Depot, chuyên cung cấp các loại dụng cụ và nguyên liệu để sửa sang nhà cửa. Cổ phiếu của hãng có thể lên giá nếu bùn trượt hay lốc xoáy xảy ra”. Hoặc tôi để ý đến những cơn bão tuyết xuất hiện vào thời điểm chính phủ soạn thảo các con số thất nghiệp. Làm như vậy tôi có thể xác định được mức độ chính xác trong tính toán. Có thể mọi người lúc đó đang chờ đợi 250.000 việc làm mới trong khu vực phi nông nghiệp, nhưng vì bão tuyết, nên số lượng việc làm được tạo ra chỉ còn ở mức 150.000, cho thấy nền kinh tế đang đi
chậm rãi và yếu ớt hơn là mọi người nghĩ – nhưng thực ra điều đó không đúng, vì những con số vào thời điểm đó bị chính yếu tố thời tiết tác động và làm thay đổi. Khi thống kê xuất hiện như vậy, mọi người tin rằng kinh tế đang tiến chậm lại, lãi suất sẽ được hạ xuống và đó là thời điểm thuận tiện để phát hàng trái phiếu. Vậy bạn tích trữ trái phiếu, để dành chúng, tăng giá cho chúng khi xuất hiện thông số về thất nghiệp (thấp hơn dự kiến) rồi lập tức bán ngay, trước thời điểm các thống kê tiếp theo được công bố vào tháng sau (khi đó, thống kê sẽ cho thấy những con số của tháng trước là không chính xác vì bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết). Tóm lại đó là cơ hội để tận dụng thời tiết để kiếm thêm chút đỉnh. Bạn có thể dùng yếu tố thời tiết để tiên đoán giá hợp đồng dầu mỏ tương lai, dầu ăn hay lãi suất, điện, khí tự nhiên, bảng chỉ số giá tiêu dùng, giá dầu thô, khí đốt, lợn, đồng, vàng hay bạc…”
Rất nhiều thị trường, nhiều thông tin và rất ít cơ hội. Vậy khi mọi việc đổ bể thì đừng có gọi cho người môi giới của bạn, mà hãy trách móc nhân viên dự báo thời tiết.
Để kiếm tiền trên những thị trường như vậy, loại thú sừng ngắn không những cần một chút ít cơ hội – chúng cần thêm những khoản đầu tư lớn, ngày càng lớn. Hãy tưởng tượng một tỷ đô-la được treo trên đầu cây kim. Các tay buôn đã phát minh ra một loạt các loại sản phẩm giao dịch nghe rất kêu – swaps (hoán đổi), futures (tương lai), forwards (triển kỳ), options (quyền chọn), derivatives (phái sinh), và indexations (tổng hợp) – rồi họ vay thêm thật nhiều tiền, nhiều hơn những khoản đầu tư của các thân chủ, để có đủ sức để mở rộng và trang trải cho các khoản đặt cọc. Điều đó khiến quy mô và mức độ giao dịch tăng lên nhiều lần và có vòng quay nhanh chóng hàng ngày trên khắp thế giới. Là người quản lý qũy bạn có thể “trúng mánh”rất lớn, nhưng bạn cũng có thể phải chịu táng gia bại sản. Đó là lý do trong những năm gần đây chúng ta thấy có những đại gia môi giới đầu tư lớn (điển hình là hãng Baring) bị một tay buôn đơn lẻ, dùng kỹ thuật đòn bẩy, làm xiểng liểng. Hãy nhớ lại cái đuôi của con khủng long. Một người bạn của tôi làm việc cho một ngân hàng đầu tư kể lại là một khách hàng của họ, một qũy đầu cơ có tổng số vốn ban đầu là 200 triệu đô-la. Nhưng sau khi dùng kỹ thuật đòn bẩy, quỹ này sở hữu 900 triệu đô-la trái phiếu của nước Nga và 5 tỷ đô-la trái phiếu Sallie Mae (đây là loại trái phiếu bao gồm các khoản vay của các sinh viên Mỹ). Khi nước Nga xảy ra khủng hoảng vào năm 1998, qũy này mất hầu như toàn bộ giá trị trái phiếu của họ ở Nga. Họ phản ứng ra sao? Họ bán ngay một phần lớn trái phiếu từ các khoản vay dành cho sinh viên Mỹ để trang trải cho phần thua thiệt ở Nga – làm thị trường trái phiếu sinh viên Mỹ sụt giá bất ngờ, làm ngân hàng đầu tư của bạn tôi thua thiệt đáng kể trên thị trường đó, mặc dầu họ không dính dáng gì đến nước Nga cả.
Không những thức ăn của Bầy Thú Điện Tử đa dạng hơn, mà chính bản thân chúng cũng thay hình đổi dạng theo rất nhiều kiểu, đặc biệt là loại sừng ngắn. Kaufman cho biết: “Kích cỡ tương đối của các ngân hàng thương mại, các cơ sở tiết
kiệm và các công ty bảo hiểm nay trở nên nhỏ bé hơn. Một lớp các cơ sở môi giới thế hệ mới đã xuất hiện và đi tiên phong. Những cơ sở này có đặc điểm là họ chú trọng vào các hình thức đầu tư ngắn hạn, dùng đòn bẩy tài chính và khả năng nhanh chóng thâm nhập và rút lui khỏi thị trường, dù là các thị trường vốn, trái phiếu hay hàng hóa, họ muốn đảm bảo mức lợi nhuận tối đa cho mỗi cuộc đặt bạc”. Đứng đầu trong những tay chơi thế hệ mới là những quỹ đầu cơ, họ tập trung những khoản tiền của những cá nhân và tổ chức giàu có, vay thêm tiền từ các ngân hàng để đặt đánh cuộc với mức mạo hiểm cao – lãi cao trên sự chuyển động của giá hối đoái, cổ phần và trái phiếu trên khắp thế giới. Nhưng, theo Kaufman, trong những năm gần đây các ngân hàng lớn, các hãng môi giới, ngân hàng đầu tư, các công ty bảo hiểm, các phòng tài chính của các tập đoàn xuyên quốc gia và thậm chí các phòng giao dịch của các ngân hàng trung ương lớn trên toàn cầu, tất cả đều cảm nhận nhu cầu cần thiết phải tự lập ra những dịch vụ đầu cơ giống cơ chế của các qũy đầu cơ nói trên. Cũng không lấy làm lạ khi ta thấy một ngân hàng đầu tư lớn trở thành một khâu môi giới cho một qũy đầu cơ và cũng bắt chước cung cách làm ăn của qũy này.
Hiển nhiên là một khi những hàng rào được phá bỏ thì người ta càng dấn thân vào những nơi mà trước đây họ chưa từng đặt chân. Bạn hãy tưởng tượng bối cảnh như sau: Ngân hàng Thai Farmers’ Savings & Loans một hôm nhận được cú điện thoại từ văn phòng Bangkok của Ngân hàng First Global Investment (trụ sở chính ở đảo Cayman): “Này, quý vị nên mua công trái Nga, họ trả lãi 20 phần trăm, và nếu đồng rup có xuống giá chút ít thì quý vị vẫn thắng to”. Và bỗng nhiên, Ngân hàng Thai Farmers’ Savings & Loans sở hữu 20 triệu đô-la công trái nước Nga. Và khi những trái phiếu đó mất giá thì ngân hàng này, thường ngày vốn hỗ trợ cho nông dân trồng lúa, đi đến khánh kiệt. Thế giới bị sốc và kinh ngạc khi phát hiện số lượng các ngân hàng Hàn Quốc tích trữ bao nhiêu công trái của nước Nga khi kinh tế Nga suy sụp trong năm 1998. Khi tín dụng được cung ứng dễ dàng hơn thì điều thường xảy ra là “những kẻ khờ khạo”, – những cơ sở thông thường không có mấy may mắn trong chuyện vay tiền, – nay được phép mượn tiền, đặt bạc, cùng cạnh tranh với những tay sành sỏi. Chính những kẻ khờ khạo đó thực sự làm trầm trọng thêm những biến động tài chính, một khi tai họa xảy ra.
Sự kết hợp giữa các siêu thị tài chính và Internet đã giúp cho đầu tư toàn cầu nhanh chóng và dễ dàng hơn không những đối với những chuyên gia và còn đối với dân thường. Họ có thể buôn bán tài chính từ phòng ngủ của họ, thông qua kẻ môi giới trên mạng. Cạnh tranh giữa các cơ sở môi giới tài chính trên mạng hiện nay căng thẳng tới mức họ không dám lấy nhiều, thậm chí bỏ hẳn lệ phí giao dịch. Đầu tư toàn cầu giờ đây dễ đến mức khiến cho người dân ai cũng nghĩ thị trường ở đâu cũng thực hành lối làm ăn tương tự như ở phố Wall vậy. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers rất thích nhận xét: “Cũng giống như một khi có đường cao tốc, dân chúng phóng xe
nhanh hơn. Rồi tai nạn, chết người, đương nhiên xảy ra nhiều hơn trên đường cao tốc, vì người ta thường đánh giá sai khả năng của bản thân, phóng nhanh hơn tốc độ được phép”.
Tiếp tục câu chuyện ở Thái Lan, Ngân hàng First Global Investment gọi cho Ngân hàng Thai Farmers’ Savings & Loans và nói, “Quý vị nên dốc tiền mua công trái Thổ Nhĩ Kỳ, đây là thời điểm ngon lành nhất”. Ngân hàng Thái trả lời, “Công trái của Thổ trả lãi 25 phần trăm? Ờ, chúng tôi không biết là người Thổ có một thị trường trái phiếu. OK, nghe lời khuyên của bạn, chúng tôi sẽ mua vài triệu đô-la trái phiếu”. Khốn khổ là ở khâu này. Khi mọi người nghe “thị trường trái phiếu Thổ Nhĩ Kỳ”, họ nghĩ, “ồ, phố Wall có một thị trường trái phiếu, Franfurt cũng có một cái, Tokyo cũng thế, vậy thì Thổ Nhĩ Kỳ chắc cũng có đấy. Hay thật”. Nhưng trên thực tế, quả là ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng có thị trường nhưng nó không tài nào giống như phố Wall. Bạn sẽ nhận thấy điều này một khi công trái của Thổ xuống giá và bạn muốn bán vội chúng đi. Khi đó bạn sẽ thấy cái “chợ” ở đất nước này bé lắm, toàn người bán mà không thấy người mua, không thấy ai chuyển đổi giúp bạn, và không thấy lối thoát. Kaufman nói toàn cầu hóa các thị trường tạo một ảo tưởng là tất cả các thị trường “đều làm ăn hiệu quả, sẵn kẻ mua người bán và được tiêu chuẩn hóa thích hợp” và thêm nữa thông tin cùng mức độ minh bạch được đảm bảo trên tất cả các thị trường. Còn lâu mới thế. Hãy suy luận: Tổng giá trị của các cổ phần của hãng Microsoft vào thời điểm cuối 1999 là 600 tỷ đô-la. Lúc ấy, mức đó lớn hơn rất nhiều so với tất cả tài sản và cổ phần trên khắp các thị trường mới nổi của thế giới cộng lại.
Và ai ai cũng đang ráo riết làm ăn. Năm 1980, 4,6 triệu hộ dân người Mỹ sở hữu cổ phiếu trong các quỹ tín dụng. Năm 2000, hơn một nửa dân số nước Mỹ đầu tư trong các thị trường cổ phiếu, hoặc do trực tiếp mua hoặc gián tiếp (do quỹ tín dụng hoặc quỹ hưu bổng của họ đầu tư vào). Một hôm, tôi thực hiện cuộc phỏng vấn ngắn trên truyền hình CNBC hồi giữa năm 1999. Hôm đó, trong đài truyền hình, trước tôi là một tay chuyên gia cổ phiếu đang giải đáp thắc mắc từ khán giả từ khắp nước Mỹ gọi điện vào. Người phát thanh viên thông báo người gọi điện kế tiếp là “Adam từ Michigan”. Adam có giọng nói như một cậu bé – nên người điều phối chương trình hỏi Adam bao nhiêu tuổi. Cậu này nói là mới 12! Adam hỏi người chuyên viên, “Gần đây cháu có mua CVS (một loại cổ phiếu hãng dược) không rõ cổ phiếu đó sẽ lên xuống ra sao?” (tôi thấy hiện tượng trẻ con mua cổ phiếu này thật lạ lùng nhưng cũng rất đáng lo). Những khoản tiền hưu bổng thuộc những qũy tiết kiệm như IRA tăng từ mức 412 tỷ đô-la năm 1992 lên tới 1.600 tỷ đô-la vào năm 1997. 10 phần trăm trong số đó được đầu tư vào các cổ phiếu trên toàn cầu. Và lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, ta thấy một ông Joe dân thường và một ông Bob triệu phú, cả hai cùng xem truyền hình CNBC để theo dõi mức cổ phiếu lên xuống. Năm 1998, hãng môi giới Charles Schwab tung ra một quảng cáo trong đó có một cặp vợ chồng trung lưu, Marion và Rick, ngồi
xa lông, bàn về chuyến đi nghỉ hè của họ.
Marion: “Thời gian vừa rồi du lịch quanh đất nước, mình dừng lại ở chỗ đó, xem trên truyền hình thương mại thấy có cái thị trường đang xuống giá – có cái cổ phần anh với em muốn mua. Mình ra xe rồi gọi điện…”
Rick: “Đúng phải gọi điện cho Schwab, vì lúc đó anh không mang theo modem, nên không thể nào lên mạng để mua được. Lúc đó mình ở đâu nhỉ?”
Marion: “Ở bang Utah”.
Rick: “Utah?”
Marion: “Chúng mình lúc đó đang ở bang Utah?”
Rick: “Gọi điện thoại công cộng cho (hãng) Schwab?”
Marion: “để…”
Rick: “Mua cho được cái cổ phần đó. Thật sướng. Chúng mình đã mua được rồi.
Sau đó đi về nhà”.
Marion: “(Schwab) giúp chúng ta mua được cổ phần đó, trúng to rồi, thật tuyệt”. Marion và Rick, xin đón mừng hai bạn đến với Bầy Thú Điện Tử. Tôi mừng là hai
bạn này ăn ra làm nên. Nhưng trong môi trường mới với những công cụ đầu tư mới đã cám dỗ rất nhiều những Marion và Rick vào những thị trường mà đáng nhẽ họ không nên bén mảng vào. Chưa bao giờ trong lịch sử, ta thấy nhiều người đầu tư vào nhiều nơi đến thế trên khắp quả đất. Leon Cooperman chỉ ra rằng: “Trong năm năm vừa qua, người dân thường vốn chỉ đem tiền mua công trái chính phủ của họ cho chắc chắn, nay đã trút hết vốn vào các trái phiếu. Và những người vốn chỉ mua trái phiếu, chịu một chút mạo hiểm cao hơn, nay quay sang mua trái phiếu từ các thị trường tài chính mới mở như ở Nga và Brazil. Và những tay mua trái phiếu thị trường mới thì đâm đầu vào mua cổ phiếu của các thị trường đó. Điều tất phải xảy ra là một số trong bọn họ đã trèo cao và sẽ có ngày ngã rất đau”.
Sự hội nhập toàn cầu đã vượt xa mức hiểu biết của người ta. Nhờ có toàn cầu hóa, chúng ta biết về nhau hơn trước, nhưng chúng ta vẫn không biết rõ nhau. Điều đáng lo ngại là sự đa dạng trong lớp thành viên mới của bầy thú đã được nhân rộng đến mức không những lớp lính mới mà thậm chí những tay tổ trong môi giới tài chính nay cũng không thể nhận biết và đánh giá đầy đủ được toàn diện tình hình. Tôi xin trích dẫn lời một giám đốc quỹ đầu cơ, khi phát biểu với Moises Naim, biên tập của tạp chí Chính Sách Đối Ngoại sau cơn khủng hoảng về nợ nước ngoài ở Mexico: “Chúng tôi tiến vào châu Mỹ La tinh mà không biết chút gì về vùng này. Giờ đây, chút tôi rút khỏi đó mà vẫn không hiểu gì về nó cả”.
Trong khi bàn về tính đa dạng của Bầy Thú Điện Tử, có một điểm quan trọng chúng ta không được quên – bầy thú này không đơn thuần là lực lượng ngoại sinh. Chúng không chỉ là những quỹ tiền tệ tự do không bị chính phủ ràng buộc, không chỉ là những tay đầu tư hay những siêu thị tài chính từ xa đến. Trong đàn thú có những
thành viên bản xứ. Sức mạnh của Bầy Thú Điện Tử không chỉ ở chỗ các nhà đầu tư bên ngoài ào ạt vào mua bán cổ phiếu và tiền tệ trong nước khi các rào cản bị loại bỏ. Nó cũng nằm ở chỗ các nhà tài chính trong nước được phép bước ra khỏi biên giới! Điều bí mật về bầy thú chính là ở chỗ những cơn giận dữ, những khủng hoảng do chúng gây ra không bắt đầu từ những quỹ đầu cơ ở phố Wall hay từ một ngân hàng lớn ở Frankfurt. Tai họa bắt đầu từ một nhà băng địa phương, một cơ sở tín dụng địa phương hay khi một người quản trị tiền tệ địa phương đổi ngoại tệ như đôla Mỹ chẳng hạn, rồi đặt cọc vào mức độ trị giá của chính đồng nội tệ trong thị trường đầu cơ tiền tệ. Nghiên cứu năm 1998 của IMF “Những quỹ đầu cơ và tính năng động của thị trường tài chính” đã ghi nhận rằng: những đánh giá đúng đắn về cuộc khủng hoảng đồng peso của Mexico năm 1994-1995 cho thấy “những cư dân trong nước, chứ không phải là những nhà đầu tư ngoại bang” đã đầu têu gây ra cuộc khủng hoảng đó. Trong thế giới các thị trường tài chính toàn cầu hóa, IMF kết luận: Các nhà đầu tư nước ngoài quản lý những dự án đầu tư đa dạng có thể gặp nhiều khó khăn, thiếu thông tin, khi họ theo dõi các điều kiện cụ thể trong các nước họ đầu tư. Đối với các thị trường tài chính mới, nhỏ nhoi, thì các nhà đầu tư lớn ít khi để ý và theo dõi chúng. Hậu quả là những cư dân bản xứ với những hiểu biết cặn kẽ tình hình địa phương của họ, thường là những người đầu tiên đầu cơ dựa trên chính đồng nội tệ ít khả năng chuyển đổi ở chính nơi đó. Và khi hệ thống thị trường tài chính nội địa và những giao dịch tài chính quốc tế được thả nổi, thì chính những cư dân địa phương nọ được lợi, hoán chuyển và mua ngoại tệ vào để giữ giá. Nói cách khác, chính những nhà tài chính Mexico, nhà đầu cơ Indonesia, các ngân hàng Thái Lan đã khởi đầu những cuộc khủng hoảng làm suy yếu và phá giá đồng nội tệ, phá trị giá các loại trái phiếu và cổ phần trong những nước này – khiến những con thú khác trong bầy thú phản ứng giận dữ. Điều đó có lý, vì dân địa phương, thông qua bè bạn, cha mẹ và các quan hệ làm ăn, bao giờ cũng biết cặn kẽ chi tiết về hoàn cảnh kinh tế của đất nước mình – chính họ là những người đi đầu trong việc bỏ đi tìm kiếm những vùng đất mới tốt tươi hơn. Ngày nay, họ làm được điều đó một cách dễ dàng hơn – thay vì như trước kia khi họ phải lén lút chuyển tiền, phải mở tài khoản nước ngoài với điều kiện họ dùng tên người khác.
Richard Medley, chuyên trách về phân tích độ mạo hiểm về chính trị và kinh tế cho nhiều ngân hàng quốc tế và các qũy đầu cơ, đã kể với tôi rằng anh đã đưa ra những cảnh báo cho nhiều khách hàng về một khả năng các thị trường và tiền tệ ở Á châu sẽ suy yếu khoảng 5 tháng trước khi cơn khủng hoảng xảy ra tại vùng này, năm 1997. Làm được thế không phải là anh ta có tài cán gì, mà chỉ do anh biết lắng nghe từ những thành viên Á châu của bầy thú. “Dấu hiệu đầu tiên tôi tìm thấy”, Medley giải thích, “là khi những định chế tài chính địa phương chỉ muốn mượn ngoại tệ, thay vì nội tệ. Nếu một nhà băng Thái Lan khăng khăng không cho một thương gia nước này
mượn tiền bằng đồng baht, mà chỉ cho mượn ngoại tệ, đô-la hoặc yên, có nghĩa là nhà băng lo lắng cho trị giá của đồng nội tệ. Bạn phải tinh ý đối với những cử chỉ nhỏ, lác đác như vậy, vì những thông số kinh tế chính thức ở các nước như thế rất kém chính xác và thiếu cập nhật. Trong những nền kinh tế theo lối gia đình trị như ở Á châu, thì bao giờ tôi cũng cho rằng, người địa phương thường biết nhiều hơn tôi”.
Chính phủ Trung Quốc đã và đang miễn cưỡng làm cho đồng tiền nước này có khả năng chuyển đổi hoàn toàn thành ngoại tệ, không như ở các nước láng giềng. Không hẳn vì họ lo sợ sẽ không kiểm soát nổi mức đầu tư nước ngoài, họ cũng sợ không kém về cái khả năng cho thấy dân chúng của họ có thể dần dần chuyển đổi và phân tán tài sản từ Trung Quốc ra nước ngoài. Chính phủ Trung Quốc có lý do chính đáng để lo như vậy: Có một chợ đen tiền tệ đã được hình thành trong lòng nước này, trong đó người ta đổi nội tệ đầu cơ lấy ngoại tệ. Một phóng viên thông tấn về tài chính người Mỹ đóng tại Thượng Hải đã kể cho tôi về một cuộc đối thoại giữa anh ta và một người bạn người Hoa. Người bạn Trung Quốc này phàn nàn với anh phóng viên về những “âm mưu” trong đó các nhà băng đầu tư và các qũy đầu cơ hùa nhau bán phá giá các đồng nội tệ của Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Indonesia trong cuộc khủng hoảng 1997-1998.
“Vì sao họ làm thế đối với chúng tôi?” Thương nhân Trung Quốc hỏi anh bạn người Mỹ.
“Anh nói cho tôi hay”, phóng viên người Mỹ hỏi lại, “gần đây anh có bán đồng tệ nào không để mua đô-la?”
“Có, tôi có bán”, thương nhân người Hoa thú nhận. “Tôi hơi lo khi thấy tình hình như vậy”.
Xin nhớ cho, trong Bầy Thú Điện Tử, những con thú từ địa phương bao giờ cũng nhảy lên đầu tiên, mỗi khi có một chấn động đe dọa.
Không những lớn hơn và nhiều chủng loại hơn bao giờ hết, Bầy Thú Điện Tử ngày nay di chuyển nhanh hơn và liên hệ với nhau chặt chẽ hơn trước nhiều. Joseph Sassoon, một người đứng đầu hãng Goldman Sachs trong văn phòng ở London tham gia vào bầy thú từ năm 1982. “Ở London năm 1982, do chúng tôi đi trước New York năm hay sáu tiếng đồng hồ, chúng tôi thường không biết kết quả giao dịch ở thị trường Dow Jones ra sao cho mãi tới khi đến sở vào buổi sáng hôm sau”, anh ta nói. “Một số các vị ở đây có máy Quotron (để theo dõi) và phương tiện chỉ có thế. Thời đó Goldman Sachs cho rằng có máy móc như thế là hay lắm rồi. Rồi một ngày kia, có một tay ở văn phòng Goldman Sachs ở New York đã thuê một cậu bé đến văn phòng lúc 3 giờ sáng, giờ New York, photocopy hai cột của tờ tạp chí Phố Wall mang tên “Đồn đại trên đường phố” và “Tiếp cận thị trường” – nói về những thủ thuật và mẹo mực giao dịch – rồi chuyển sang London. Làm như thế, chúng tôi ở London đã đi trước các hãng môi giới tài chính khác được vài giờ đồng hồ, khiến chúng tôi có thể
giới thiệu bán và mua cho các khách hàng về các cổ phần ở New York trước khi các đối thủ của chúng tôi nắm được thông tin. Họ phải đợi cho đến khi thị trường New York mở cửa mới tiếp cận được thông tin từ bên đó. Phải mất một thời gian thì các đối thủ mới biết được thủ thuật của chúng tôi. Đây là nói đến năm 1982. Khi kể lại câu chuyện này cho đồng nghiệp của tôi ngày nay, họ nhìn tôi như thể tôi kể câu chuyện xảy ra từ thời cụ kỵ của họ vậy”.
Quả có thế. Đi dạo quanh một văn phòng quỹ đầu cơ ở New York ngày nay, bạn thấy các nhân viên cầm những màn hình cá nhân xách tay, theo dõi thị trường từng phút, theo dõi sự lên xuống của trị giá các trái phiếu, thậm chí họ có thể thực hiện giao dịch ngay khi đi vào phòng vệ sinh nữa là về nhà riêng. Bánh xe giao dịch thời nay được bôi trơn thấu đáo khiến cho những khoản tư bản, được nhà kinh tế David Hale gọi là “tư bản du mục” có thể di chuyển trên thế giới, chen vào các cơ hội mua bán ở mọi nơi với chi phí di chuyển và giao dịch xuống tới mức số không, với thời gian hầu như trong chớp mắt. Cuộc chơi ngày nay có thể được tóm lược bằng nội dung một quảng cáo của hãng Crédit Suisse/ First Boston hồi năm 1998, khi họ cho ra đời một dịch vụ mới mang tên Prime Trade, cho phép trao đổi dịch vụ phái sinh được phát hành ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Quảng cáo kêu gọi: “Prime Trade: bất cứ thị trường nào, bất cứ lúc nào, bất cứ đâu”.
Thực tế cho thấy khi có thêm nhiều người có thể được nối mạng đồng loạt, thu thập thông tin và giao dịch ở bất cứ đâu, đã khiến cho Bầy Thú Điện Tử ngày nay càng trở nên lớn mạnh hơn và đa năng hơn. Xưa nay người ta hiểu rằng, càng có nhiều thông tin cho các tay buôn thì thị trường của họ càng trở nên ổn định hơn. Nhưng dường như trên thực tế, thì ngược lại. Tôi đã trực tiếp học được điều đó. Ngày nay ở nước Mỹ, hành khách đi máy bay thường được phát một loại điện thoại di động, gắn với ghế giữa trong băng ghế của họ, gọi là điện đàm GTE. Hồi năm 1999, GTE nối điện thoại với sở giao dịch Dow Jones Industrial Average, American Stock Exchange và NASDAQ. Giúp cho bạn ngồi trên máy bay, bay trong giờ giao dịch, có thể theo dõi, trên màn hình và tai nghe, các hoạt động, trị giá lên xuống ở các thị trường đó, trực tiếp. Nếu bạn ngồi ở ghế giữa, bạn không tránh khỏi phải nhìn vào màn hình. Trong một chuyến bay sang Colorado, tôi đã dùng màn hình để kiểm tra mức lên xuống của một loại cổ phần tôi sở hữu. Dùng một thiết bị nối với điện thoại GTE, sau khi bấm tên của cổ phần vào màn hình, tôi kiểm tra giá của chúng từ hệ thông báo giá Bloomberg. Trong chuyến bay đó từ Washington sang Denver, tôi kiểm tra năm lần giá của cổ phần nọ và đã bán cổ phần này khi hạ cánh. Tôi đã dùng điện thoại công cộng từ sân bay Denver, gọi cho nhân viên môi giới hạ lệnh bán – một điều mà cách đó một chục năm, tôi không tài nào có thể thực hiện được. Nhưng nhiều thông tin sẵn sàng như vậy không có nghĩa là thị trường ngày nay ổn định hơn. Edward Chancellor trong cuốn sách của anh về lịch sử đầu cơ tài chính, Devil tak the Hindmost, giải thích
về sự ngộ nhận thông thường trong giới quan sát, rằng càng nhiều thông tin thì hoạt động của Bầy Thú Điện Tử càng ổn định hơn. Phần lớn các nhà phân tích, anh ta nói, “cho rằng tiến bộ trong công nghệ thông tin sẽ dẫn đến sự ổn định và thịnh vượng. Trong thực tế, nếu các thị trường vốn dĩ đã có mức hiệu quả cao thì khi có thêm thông tin, chúng càng hoạt động hiệu quả hơn. Thậm chí chúng sẽ hoạt động một cách máy móc như một loại xe hơi chất lượng cao”.
“Thật ra thì không thấy một dẫn chứng trong lịch sử nào cho thấy sự cải thiện về thông tin liên lạc sẽ sản sinh ra các loại thị trường tài chính dễ sai khiến hơn, hay hoạt động đầu tư thông minh hơn. Thực tế cho thấy những điều ngược lại. Trong quá khứ thông tin tài chính càng sẵn có và sự cải thiện điều kiện liên lạc có khuynh hướng càng hấp dẫn thêm các tay mơ vào cuộc chơi đầu cơ: thế hệ các tờ báo đầu tiên đã kích thích dẫn tới những dạng bong bóng South Sea, những cột báo phân tích “thị trường tiền tệ” trên các báo nước Anh, đã dẫn tới cơn sốt khoáng sản năm 1825, các hệ thống đường sắt tạo ra cơn đầu cơ các cổ phiếu đường sắt những năm 40 của thế kỷ này, cũng như việc xuất hiện băng giấy điện báo đã kích động những cuộc cá cược và vào những năm 20, khi đài phát thanh được phát minh đã gây kích động trong giới các nhà đầu cơ thời đó. Gần đây nhất là Internet. Dịch vụ này đã đưa cổ phiếu vào tận nhà người ta… nhưng cũng đã làm xuất hiện từng đám những “tay môi giới ban ngày”, những tay đầu cơ tài tử tại gia, móc nối mua bán những loại cổ phiếu rẻ mạt do các công ty cung cấp trên mạng. Tính đến mùa hè năm 1998, năm triệu người Mỹ đã mở tài khoản với các hãng môi giới tài chính trên mạng, trong số đó có một triệu người bản thân trở thành các môi giới viên làm việc tại gia. Con số trung bình các tài khoản, và số lượt giao dịch họ thực hiện trên mạng cao hơn con số tài khoản trong các hãng đầu cơ truyền thống khoảng 12 lần. Có tin nói một số các nhà đầu cơ kiểu đó thực hiện khoảng một ngàn giao dịch mỗi ngày”.
Quả có thế, thị trường NASDAQ là nơi bạn có thể thấy không phải là những quỹ tín dụng hay hưu bổng đã xô đẩy các cổ phần Internet lên xuống dập dìu. Thủ phạm chính là những tay môi giới tài tử, trao qua đổi lại quãng 200-300 cổ phiếu mỗi bận, không theo tính toán định hướng nào cả. Phần đông những người tham gia giao dịch như vậy không biết họ mua của ai và bán cho ai, họ chỉ biết một vài ký hiệu nào đó, của ai đó, mà thôi.
Nếu Bầy Thú Điện Tử đến thăm bạn thì trong một thời gian ngắn, chúng sẽ trút hàng tỷ đô-la và vào cổ phần và trái phiếu của công ty của bạn, đầu tư ào ạt vào nhà máy công xưởng bạn có. Chính vì thế mà ngày càng có nhiều các quốc gia đang bằng mọi giá móc nối cho được với những con thú trong Bầy Thú Điện Tử. Tuy nhiên khi các lý do chính trị, kinh tế hay xã hội khiến thị trường trong các nước này suy yếu và bất ổn, thì cũng chính bầy thú sẽ chuyển hóa sự bất ổn định lên tới mức cao hơn, làm cho hậu quả trở nên tồi tệ hơn. Ngược lại, trong bối cảnh thuận lợi thì chúng có thể
nhanh chóng cải thiện tình hình và biến thị trường từ chỗ bé bỏng nhỏ nhoi đến chỗ thịnh vượng và ổn định hơn.
Alan Greenspan đã nêu rõ trong các phát biểu của ông, rằng cũng một hệ thống toàn cầu hóa “đã kích thích tăng nhanh mức độ di chuyển vốn của tư nhân, đồng thời cũng cho thấy sự gia tăng và lan tràn các hình thức đầu tư thiếu suy nghĩ”. Vị thống đốc này nói thêm rằng “khó có thể tưởng tượng mức độ mất mát (1 tỷ đô-la) của chỉ duy một tay buôn, sử dụng công nghệ cao, đã khiến cho ngân hàng Barings sụp đổ năm 1995. Điều này khó có thể xảy ra trong thập niên trước đó, khi người ta chỉ đơn thuần buôn bán trên giấy tờ. Rõ ràng là khả năng gây lỗ của chúng ta đã tăng nhanh trong những năm gần đây”. Bộ trưởng Kinh tế Ai cập Yousef Boutros-Ghali đã từng nói: “Ngày trước bạn ngồi trong phòng, lo lắng cùng vài trăm đồng nghiệp nhà băng, giờ đây đi đâu bạn cũng cảm thấy lo lắng. Nỗi lo lắng quả đã được dân chủ hóa”.
Tuy vậy cũng có một điều an ủi trong hoàn cảnh hiện nay. Tai họa có thể xảy đến cực nhanh, nhưng cũng ra đi cực nhanh, nhưng rồi lại đến… Nhiều vấn nạn mới sẽ xảy ra, nhưng cũng nảy sinh nhiều giải pháp – miễn là đất nước của bạn làm ăn cho đúng đắn. Khi cuộc sống trôi đi gấp gáp thì cũng ít ai kéo dài thêm nỗi nhớ. Năm 1995, Mexico làm phật lòng các nhà cấp tín dụng, thì chỉ đến năm 1998, đất nước này lại đã trở thành điểm thu hút của các nhà đầu tư quốc tế, trong đó không mấy ai còn nhớ tới nỗi đau năm 1995. Năm 1997, Hàn Quốc gần như khánh tận, thì đến năm 2000, thương gia ở phố Wall lại thấy nối đuôi nhau mua công trái của nước này.
Bầy thú sừng dài
Ngày nay, mặc dù trên báo chí thường chỉ thấy đăng về những con thú sừng ngắn như George Soros chẳng hạn, những con thú sừng dài ngày càng có thêm vai trò quan trọng hơn. Bầy thú sừng dài là những công ty xuyên quốc gia, tham gia vào “đầu tư nước ngoài trực tiếp”. – có nghĩa là ngoài việc mua vào các công trái và trái phiếu ở các nước đang phát triển, chúng rót tiền trực tiếp vào các nhà máy, cơ sở công nghiệp, hệ thống năng lượng và một loạt các dự án khác – đầu tư dài hạn, đọng vốn và không thể rút vốn nhanh chóng được. Trong bầy thú sừng dài có các công ty như Ford, Intel, Enron hay Toyota. Nhờ có toàn cầu hóa, chúng đầu tư ở mức độ cao hơn, dài hạn hơn và ở nhiều quốc gia hơn bao giờ hết.
Trong thời Chiến tranh Lạnh, khi các quốc gia thường bảo hộ thị trường nội địa bằng hàng rào thuế quan, các công ty xuyên quốc gia thường chú trọng đầu tư vào những nơi có thị trường lớn, nhằm vượt thứ hàng rào đó. Nói cách khác, Toyota sẽ sang Hoa Kỳ, xây một nhà máy sản xuất linh kiện, chỉ bán tại thị trường Hoa Kỳ, như vậy họ tránh hạn ngạch nhập khẩu vào nước này. Ngược lại hãng Ford cũng sang Nhật Bản, thực hiện một điều tương tự. Để vượt những hàng rào bảo hộ, các tập đoàn xuyên quốc gia vào nằm ngay trong các thị trường lớn, trở thành nhà sản xuất địa phương và cạnh tranh, bán hàng rẻ hơn và tốt hơn các hãng ở địa phương.
Khi trào lưu dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin thổi bay những bức tường Chiến tranh Lạnh thì bầy thú sừng dài tập trung được sức lực lớn hơn và mong muốn xây dựng nhà máy nhiều hơn. Ngày mỗi ngày, một thị trường toàn cầu đơn chiếc và mạng điện toán xuất hiện, trên đó các công ty xuyên quốc gia có thể sản xuất và bán hàng ở bất cứ đâu. Điều đó mài sắc thêm sức cạnh tranh và thu nhỏ mức lợi nhuận trong rất nhiều ngành công nghiệp. Mỗi công ty xuyên quốc gia đều muốn bán hàng trên toàn cầu, bán thật rộng để bù đắp mức lợi nhuận bình quân trên mỗi sản phẩm ngày càng nhỏ. Họ cố gắng dàn trải sức sản xuất trên toàn cầu, chia nhỏ các dây chuyền sản xuất, chuyển chúng sang đóng tại nhiều quốc gia, nơi có giá tài nguyên và nhân công rẻ nhất và năng lực hoạt động hiệu quả nhất – làm như thế năng suất sẽ tăng, chi phí sản xuất giảm và sức cạnh tranh được duy trì. Điều này giải thích cho việc có nhiều thêm các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào những cơ sở sản xuất, hay những hãng thầu ở nước ngoài sẵn có. Họ làm thế không phải để tồn tại trong một thế giới có nhiều bức tường, mà thực ra là để tồn tại trong một thế giới mở. Trong toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia ngày càng cần phải mở rộng ra nước ngoài, không chỉ để trở thành những nhà sản xuất hiệu quả ở các quốc gia đó, mà còn để trở thành những nhà sản xuất giỏi trên toàn cầu.
Nhà báo Kevin Maney của tờ USA Today có bài trên số báo ngày 24/4/1997 nói về việc hãng máy tính IBM đã sử dụng thêm nhiều đối tác làm ăn và chi nhánh ở hải ngoại để trở thành một nhà sản xuất toàn cầu thông minh hơn, hiệu quả hơn trong một thế giới mở. Maney viết: “Một nhóm chuyên viên lập trình của đại học Tsinghua ở Bắc Kinh đang viết phần mềm mới bằng công nghệ Java. Họ làm việc cho IBM. Sau mỗi ngày làm việc họ gửi báo cáo qua Internet sang một cơ sở của IBM đóng tại Seattle. Tại đó các nhà lập trình của IBM sẽ tiếp tục cải tiến phần mềm trên những kết quả đó rồi chuyển tiếp, bằng Internet, qua chặng đường 5.222 dặm sang Viện Khoa học Máy tính ở Belarus và Tập đoàn Phần mềm ở Cộng hòa Latvia. Từ đó, kết quả được chuyển sang Tập đoàn Tata ở Ấn Độ, từ đây, kết quả được gửi trở lại Đại học Tsinghua
ở Bắc Kinh vào sáng hôm sau, …rồi lại Seattle… cho đến khi hoàn thành sản phẩm. “Chúng tôi gọi đó là Java suốt ngày đêm”, John Patrick, Phó chủ tịch về kỹ thuật của IBM nhận xét, ‘tựa như là chúng tôi tạo ra mỗi ngày có 48 tiếng đồng hồ trên Internet vậy”.
Trong những năm 70, hãng giày Bata của Canada có khoảng một chục nhà máy tại các thị trường chủ chốt trên thế giới, nhưng những chi nhánh đó chỉ sản xuất phục vụ cho thị trường địa phương nơi chúng đóng chốt, làm theo đúng thị hiếu ở địa phương và hầu như bán 100 phần trăm sản phẩm tại đấy. Ngày nay, hãng giày Nike có thể thiết kế mẫu giày ở Oregon và gửi, bằng email hay fax qua đêm, những chi tiết mẫu sửa đổi sang các nhà máy và nhà thầu ở châu Á để họ tổ chức sản xuất theo mẫu mã mới ngay ngày hôm sau.
Quả là những con thú sừng dài như Ford, Cisco, Nike hay Toyota không chuyển dời vốn liếng nhanh như loài sừng ngắn, nhưng chúng cũng có thể di chuyển từ nước này sang nước khác nhanh chóng hơn là người ta tưởng. Phần nhiều những đầu tư của chúng ngày nay không bị bó gọn vào việc xây dựng nhà máy hay cơ sở sản xuất. Chúng lập liên minh với các đơn vị địa phương của các nước, những nơi vốn có sẵn cơ sở sản xuất – chúng sẽ trở thành chi nhánh, đối tác và nhà thầu cho các công ty xuyên quốc gia – những quan hệ đối tác như vậy có thể di chuyển từ nước nọ sang nước kia, từ đối tác này sang đối tác khác, quay vòng nhanh, tìm ra giải pháp giảm thuế hữu hiệu nhất, sử dụng phương tiện và sức lao động có chi phí thấp nhất. Cisco có 34 nhà máy trên thế giới sản xuất linh kiện cho họ, nhưng chỉ có hai trong số đó thuộc sở hữu trực tiếp của Cisco. Những nhà máy khác là những đối tác, gắn bó với bản quyền của Cisco trong chuyện mẫu mã thiết kế, linh kiện vật liệu và chia sẻ thị trường trên mạng Internet. Cisco gọi họ là những “cơ sở sản xuất ảo”. Nhờ có mạng điện toán mà các cơ sở đó liên lạc chặt chẽ tựa như được tập trung vào một địa điểm vậy, và hoạt động sản xuất được di chuyển nhanh chóng trong số những cơ sở đó.
Bầy thú sừng dài có thể và thường khiến cho một số quốc gia đang phát triển trở thành đối thủ của nhau. Mỗi quốc gia đang phát triển đều cực kỳ muốn có đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia, vì đó là cơ hội nhanh nhất để họ đại nhảy vọt trong công nghệ. Nike ban đầu đã mở các cơ sở sản xuất ở Nhật Bản, nhưng một khi nhận thấy ở đó đắt đỏ hơn, họ đã nhảy sang Hàn Quốc, rồi sau đó là Thái Lan, Trung Quốc, Philippines, Indonesia và Việt Nam.
“Họ là những gì chúng tôi cần”, Joel Korn, chuyên viên tư vấn người Brazil nhận xét về những công ty xuyên quốc gia. “Châu Mỹ La tinh vẫn lệ thuộc nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài, vì dự trữ nội địa hoàn toàn không đủ để duy trì tăng trưởng kinh tế
ở mức cao. Nên chúng tôi cần đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Họ [những con thú sừng dài] cũng mang đến những hệ tiêu chuẩn quốc tế và các dạng công nghệ mới, họ giúp chúng tôi thích nghi với nhu cầu của các thị trường khác, họ mang đến các quan hệ đối tác, chuyển giao công nghệ và chuyển giao thị trường. Nếu không cho họ vào thì cũng như bạn sống cô đơn trên một hành tinh lạ vậy”, ông kết luận.
Dẫu rằng sinh ra trong thời Chiến tranh Lạnh, nền sản xuất toàn cầu lan tràn mạnh mẽ hơn, sinh sôi nảy nở không ngừng, trong thời buổi ngày nay. Theo Ngân hàng Thế giới, tổng sản phẩm từ những cơ sở nước ngoài của các hãng xuyên quốc gia trên thế giới tăng từ 4,5 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội toàn thế giới trong năm 1970 lên tới mức cao gấp đôi, ngày nay. Con số phần trăm có vẻ nhỏ bé, nhưng con số đô-la mà chúng đại diện thì thật khổng lồ. Năm 1987, đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển chiếm 0,4 phần trăm tổng số GDP của họ. Ngày nay, con số này là hai phần trăm và tiếp tục gia tăng, không chỉ ở 10 thị trường mới trỗi dậy, mà ở phạm vi toàn thế giới. Nếu nhìn vào những chi nhánh nước ngoài do người Mỹ sở hữu – như cơ sở
Ford Motor ở Mexico chẳng hạn – thì thấy năm 1966, họ bán 80 phần trăm sản phẩm trong nội địa và xuất 20 phần trăm. Ngày nay, họ xuất 40 phần trăm sản phẩm và 60 phần trăm trong được tiêu dùng trong nội địa. Craig Barrett, Chủ tịch hãng Intel nói với tôi rằng hàng loạt các đại sứ và chính khách ở nhiều quốc gia tháng nào cũng gọi điện đến Thung lũng Silicon cho ông. Họ nhắn: “Hãy mang nhà máy của ông đến chỗ chúng tôi”.
George St Laurent là Chủ tịch hãng Vitech, một nhà máy sản xuất máy vi tính do ông sáng lập, đóng tại bang Bashia, phía bắc Brazil. Ông ta là một thành viên điển hình trong bầy thú sừng dài. Ông ta biết là trong cương vị của mình, ông có rất nhiều quyền lực. Một buổi chiều, St Laurent giải thích cho tôi rằng ông không nề hà gì khi đặt đòi hỏi cho chính phủ Brazil về những gì ông cần, nếu họ còn muốn ông đóng nhà máy ở đó, duy trì công ăn việc làm ở địa phương và khả năng chuyển giao kỹ thuật ở nước này. Ông nói: “Tôi cần thấy ở nước này một đồng tiền ổn định để thu hút vốn từ nước ngoài, vì thế họ (chính phủ) phải cân đối ngân sách, kiểm soát lạm phát và cắt giảm bộ máy chính phủ. Một trong các mục tiêu của chúng tôi là thu hút vốn đầu tư vào nước này. Nhưng vốn đầu tư sẽ không vào nếu chủ của chúng không biết giá trị của những đồng vốn đó khi họ rút chúng ra. [Hơn nữa] chính phủ cần phải thuyết phục được tôi rằng các chính trị gia đối với dân chúng phải duy trì thái độ như giữa khách hàng và người bán hàng, như bản thân tôi thực hiện. Nếu bạn là khách hàng của tôi, để khiến cho bạn mua máy tính của tôi, tôi thường phải quỳ xuống để thuyết phục bạn. Các chính trị gia nước này không nghĩ như vậy vì họ không quen với cương vị người bán hàng. Họ quen với việc ai cũng phải đến quy phục dưới ngai vàng của họ, và họ chỉ cho phép người khác được hưởng những quyền lợi nhỏ nhoi mà họ ban phát”.
Quả như nhận xét của St Laurent, quyền lực gia tăng của Bầy Thú Điện Tử chính là điều mà các nhà lãnh đạo truyền thống mới chỉ bắt đầu hiểu và tuân thủ. Tôi bắt đầu thấy điều này khi sang Mexico vào thời điểm tồi tệ nhất trong cuộc khủng hoảng đồng peso. Điều đó bắt đầu khi ngồi trên chuyến bay vào đất này. Khi cuống quít điền vào tờ khai nhập cảnh, tới dòng thứ 3 thì tôi chững lại. Dòng này hỏi bạn làm nghề gì và quy định bạn khoanh vòng tròn vào một trong chín lựa chọn – không thấy có mục “bình luận viên báo chí” mà chỉ thấy “nông dân”, “lái xe”, “người nuôi gia súc”, và một lựa chọn khác là “người sở hữu trái phiếu” –cho thấy những bế tắc của đất nước Mexico vào thời đó. Nước này đã trở nên lệ thuộc vào những nhà đầu tư nước ngoài, những người mua công trái và trái phiếu thương mại của họ, để cứu giúp kinh tế. Chính vì thế có mục “người sở hữu trái phiếu” trên tờ khai hải quan.
Không may cho Mexico là những người có thể khoanh tròn mục đó thì lại đang bay trở ra, mang theo tiền của họ, và sẽ không quay lại. Khi đến phỏng vấn một viên chức Ngân hàng Trung ương Mexico, đang trong cơn hoảng loạn, anh ta hỏi tôi về
những người sở hữu trái phiếu trên toàn cầu hiện đang vứt bỏ các loại trái phiếu của Mexico. “Vì sao họ giận dữ đến vậy? Họ báo thù cho điều gì vậy?” anh ta hỏi. Tôi không tài nào giải thích cho anh này cái cảnh giận dữ và phản ứng của một người Mỹ có tiền gửi tiết kiệm khi thấy tài sản đầu tư của anh ta bị mất giá. Sau đó, khi đến gặp Enrique Del Val Blanco, viên chức của Bộ phụ trách về nhân dụng của Mexico, tôi thấy ông nói năng như một nhân vật trong phim Invasion of the Body Snatchers. Ông nói: “Dân ở đây ai cũng cảm thấy số phận của họ nằm trong tay người nước ngoài. Và ai cũng muốn biết những người nước ngoài đó là ai? Ai nắm giữ một thế lực như vậy? Chúng tôi vẫn nghĩ chúng tôi đang trên đường gia nhập thế giới thứ nhất (các nước phát triển). Bỗng nhiên mọi sự đều đổ bể. Một phút trước người ta thấy Ngân hàng Thế giới và IMF nói Mexico là một điển hình tốt nhất. Giờ đây chúng tôi lại trở thành một hình mẫu của sự xấu xa? Chúng tôi đang mất dần kiểm soát. Nếu không tìm được đường ra, chúng tôi sẽ bị diệt vong. Chúng tôi đầu hàng”.
Cùng ngày hôm đó, tôi đi xuyên thành phố để tìm đến phủ tổng thống ở Los Pinos để gặp Tổng thống Ernesto Zedillo, con người cũng đang bàng hoàng về việc đồng peso bị mất giá. Tôi không nhớ rõ ông ta nói gì nhưng không bao giờ quên cái khung cảnh khi gặp ông. Tôi và đồng nghiệp được một người lính đưa vào, nói lên cầu thang rồi đi sâu vào bên trong để đến văn phòng tổng thống. Dường như chẳng có ai qua lại trong dinh thự nay cả. Chúng tôi đi qua một cửa, một cửa nữa rồi một cửa nữa, cho tới khi gặp bàn của một cô thư ký. Cô này chỉ cho chúng tôi vào một văn phòng nhỏ bé tăm tối. Bước vào phòng, chúng tôi thấy ngồi cô đơn bên bàn làm việc, vị Tổng thống Mexico đang thưởng thức bản giao hưởng “Overture 1812” của Tchaikovsky từ một dàn stereo. Ông ta có dáng vẻ của Napoleon sau khi thua trận Waterloo.
Trong thập niên 90, cả một thế hệ các lãnh tụ thời hậu thuộc địa như Zedillo, Mahathir, Suharto, thậm chí Borris Yeltsin – đã nếm mùi cơn giận dữ của Bầy Thú Điện Tử. Không lấy gì làm vẻ vang lắm. Bầy thú đó không cư xử như những kẻ thù trong nước của các vị này. Họ không thể bắt giữ, kiểm duyệt, cấm đoán, mua chuộc, thậm chí thường cũng không nhìn thấy chúng. Một số vị lãnh đạo như Zedillo thậm chí quy phục trước chúng. Mahathir và Suharto thì dùng một chiến thuật khác. Họ chửi rủa bầy thú, tố cáo chúng là những hội âm mưu, cam kết sẽ trả thù và trong trường hợp của Mahathir, ông đã dọa sẽ dùng tới những biện pháp kiểm soát tài chính. Mahathir và Suharto lớn lên trong thời Chiến tranh Lạnh, thời mà ít có dịp các siêu cường thực sự răn dạy và trách móc trực tiếp lãnh tụ của thế giới thứ ba, vì họ cần thế giới này trong cuộc chiến tranh. Nhưng một khi Chiến tranh Lạnh qua đi thì những hạn chế như trên cũng không còn nữa. Và ngày nay, những con vật tiên phong trong bầy thú không cư xử với các quốc gia đang phát triển như cái lối cư xử của Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ), Liên hiệp quốc hay Phong trào Không liên kết trước kia. Bầy Thú Điện Tử không nói chúng thông cảm với nỗi đau của bạn, hay thông cảm với những đau
thương của bạn trải qua trong thời thuộc địa. Chúng không nói rằng bạn là người độc đáo, hay là yếu tố ổn định khu vực, hay hứa sẽ không động tới bạn. Chúng có đường hướng riêng. Bầy Thú Điện Tử đã biến đổi cả thế giới thành một hệ thống quốc hội, trong đó mỗi quốc gia tồn tại trong lo lắng – họ có thể bị bầy thú biểu quyết bất tín nhiệm.
Tôi đã nói chuyện với phó thủ tướng Malaysia thời đó là ông Anwar Ibrahim, tại Kuala Lumpur năm 1997, khi cuộc khủng hoảng Á châu lên tới đỉnh điểm, trước khi ông ta bị Mahathir loại bỏ. Anwar nói với tôi rằng khi Mahathir tố cáo người Do thái, Soros và những kẻ âm mưu khác về tội đã phá giá đồng nội tệ của Malaysia, thì ông ta và một số đồng nghiệp đã mang một tờ biểu đến gặp Mahathir và nói, đại khái như sau: “Hãy nhìn vào đây, hôm thứ hai, ông chỉ trích Soros thì đồng ringgit xuống giá từng này, đến thứ ba, ông kể tội người Do thái, thì trị giá của nó xuống nữa đến đây. Rồi sang thứ tư, ông tố cáo những nhà đầu tư toàn cầu thì nó xuống nữa, đến đây, HÃY CÂM MIỆNG LẠI!”
Trong trường hợp Suharto thì chính bầy thú đã giúp kích động một cuộc nổi dậy, lật đổ quyền lực của ông vào đầu năm 1998, bằng cách làm suy yếu đồng nội tệ và thị trường của Indonesia khiến cho công chúng và giới quân nhân mất lòng tin vào tổng thống.
Supachai Panitchpakidi, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Thương mại Thái Lan ngày nay phải mang trên người những vết sẹo mà bầy thú gây ra cho người tiền nhiệm của ông, người đã ra sức đấu với bầy thú và đã phải chịu thua. Ông nói: “Chúng tôi mắc một lỗi – đã gắn giá trị đồng baht Thái Lan với đồng đôla lâu hơn sáu tháng, mà không sớm cho thả nổi nó”, ông nói về cuộc khủng hoảng năm 1997. Đáng nhẽ tai họa không đến, nhưng vì những phản ứng dây chuyền, nên ai cũng nhảy vào đánh hôi đồng baht của chúng tôi. Thành ra thay vì mất độ 15 hay 20 phần trăm giá trị, baht bị mất tới 50 phần trăm. Do thị trường đã được toàn cầu hóa nên [Bầy Thú Điện Tử] biết rõ là chúng tôi lúc đó đang thiếu dự trữ ngoại tệ. Lần đầu tiên chúng tấn công vào đồng tiền của chúng tôi là vào tháng hai, sang tháng ba rồi tiếp theo vào tháng tư. Mỗi một đợt như vậy, Ngân hàng Dự trữ của Thái Lan tung tiền ra để bảo vệ giá trị đồng baht, mỗi lần như vậy, lại tuyên bố: “Chúng ta đã thắng”. Nhưng trên thực tế mỗi lần như vậy Thái Lan đều đã thua – vì dự trữ của Thái Lan đã mỏng dần sau mỗi lần ứng cứu như vậy. Chúng tôi nghĩ thế giới không thể biết được lượng dự trữ tiền tệ của chúng tôi, dân chúng Thái cũng không biết điều đó, chỉ có thị trường là tỏ tường. Bạn bè tôi ở Singapore và Hồng Kông biết được điều đó và họ đã tính toán xem dự trữ của chính phủ Thái còn được bao nhiêu sau mỗi lần ứng cứu tài chính. Khi ông hỏi chuyện vị cựu Thủ tướng thì ông ta sẽ nói rằng không ai báo cho ông ta những thông tin như vậy. Nhưng thị trường lúc đó đã phán đoán được thực trạng của Thái Lan, chúng cũng lần ra được những bước ngoặt – thời điểm mà chính phủ không tài nào
cứu được đồng tiền baht nữa. Đó chính là lúc chúng [Bầy Thú Điện Tử] tấn công đè bẹp chúng tôi”.
Để thích ứng với hoạt động của các siêu thị tài chính và bầy thú, các nhà lãnh đạo, đặc biệt ở những thị trường mới nổi lên cần xây dựng cho mình một tư duy mới. Trong quá khứ, thành viên của bầy thú thường tranh nhau làm duyên và cám dỗ các chính phủ từ bên trong và bên ngoài nước. Lúc đó là thời điểm các chính phủ là người cầm cân nảy mực. Giờ đây các chính phủ thi đua để tỏ cho bầy thú rằng họ giữ được ổn định, mời mọc và cuốn hút bầy thú. Vì thời nay là lúc chính bầy thú đứng ra cầm cân nảy mực, phân phối tài nguyên. Xin xây dựng một câu ngạn ngữ: Lãnh đạo trên thế giới cần phải có lối nghĩ như những thống đốc (bang ở Mỹ). Thống đốc các bang của Hoa Kỳ ngày nay được phép quyết định, có quyền hạn tương tự quyền hạn của tổng thống và thủ tướng. Họ thỉnh thoảng còn có quyền điều động lực lượng cảnh vệ quốc gia. Nhưng nhiệm vụ chính của họ ngày nay là thuyết phục Bầy Thú Điện Tử và các siêu thị tài chính đến đầu tư vào bang của họ, bằng mọi cách giữ chúng ở lại đó và suốt ngày tiếp tục lo lắng làm sao cho chúng ở lại cho lâu. Chính vì thế, các vị trưởng vùng (lãnh đạo tại địa phương – thống đốc bang) đang là những vị lãnh đạo thực chất trên thế giới ngày nay. Chính vì thế đã có một vị lãnh đạo đứng bao trùm tất cả các vị lãnh đạo khác trong kỷ nguyên toàn cầu hóa – vị Thống đốc của Hợp chủng quốc Hoa kỳ, ông Bill Clinton.
Những ông vua, các nhà độc tài, tiểu vương, các vị Sultan, những tổng thống và thủ tướng – tất cả đều đã trở thành những thống đốc. Mùa thu năm 1997, tôi sang Qatar, một tiểu vương quốc dầu lửa nhỏ bé phía đông Arập Xêut, và được mời ăn trưa với vị tiểu vương, Sheikh Hamad bin Khalifa al-Thani. Ông ta là một người nhỏ nhắn, thông minh như một con cáo, nhưng là một con người để ra lệnh chứ không phải để tuân lệnh. Ông ta hỏi tôi về cuộc khủng hoảng kinh tế ở Malaysia và Đông Nam Á và tôi đã kể cho ông về sự trừng phạt của Bầy Thú Điện Tử và những siêu thị đối với Malaysia do lỗi lầm của ông Mahathir, gồm cả việc ông xây tòa tháp đôi cao nhất thế giới. Sheikh Hamad lắng nghe rồi sau đó tuyên bố theo lối một vị thống đốc, chứ không phải là của một tiểu vương. Ông nói: “Có lẽ tôi không nên xây các tòa cao ốc ở đây. Vì có thể các thị trường sẽ không ưng ý về điều đó”.
Cung cách trong đó các vị lãnh đạo, các cá nhân, các nhà đầu tư và các công ty học hỏi để thích ứng với hệ thống toàn cầu hóa đánh dấu một cột mốc mới vào cuối thế kỷ 20. Nhưng có một điều tôi muốn nói: Quý vị vẫn chưa tường được bức tranh toàn cảnh đâu.
Như tôi đã cố giải thích, trào lưu dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin – làm thay đổi cung cách chúng ta liên hệ với nhau, đầu tư và xây dựng tầm nhìn ra thế giới – tất cả đã sản sinh ra những đặc điểm chủ chốt của hệ thống toàn cầu hóa ngày nay. Chúng thổi bay những rào cản giữa các thị trường. Chúng xây dựng những hệ
thống để chúng ta có thể vươn tới nhiều nơi trên thế giới và khiến chúng ta có thêm nhiều quyền lực, thậm chí siêu quyền lực. Chúng tạo nên những mối liên hệ và môi trường cho Bầy Thú Điện Tử sinh sôi và mở rộng các siêu thị tài chính. Chúng thổi bay những hệ tư tưởng lỗi thời và giữ lại hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa trên nền thị trường tự do. Chúng tạo nên những tiêu chuẩn về hiệu quả sản xuất và hoạt động khiến cho mọi doanh nghiệp hoặc phải tuân theo hoặc chịu diệt vong. Chúng phá bỏ những rào cản, cho phép các cá nhân tham gia vào bất cứ thương vụ nào. Chúng khiến con người ta phát triển từ chỗ suy nghĩ lối địa phương trước rồi hướng ra toàn cầu, đến lối suy nghĩ có tầm toàn cầu trước khi nhìn vào phạm vi địa phương.
Chính Internet là lý do khiến tôi nhận xét là quý vị thực ra chưa nhìn thấy được toàn bộ bức tranh toàn cảnh. Sự ra đời của Internet trong giai đoạn cuối của trào lưu dân chủ hóa tài chính, công nghệ và thông tin, đã đóng góp mạnh mẽ cho toàn cầu hóa ngày nay. Khi Internet được dùng đại trà, nó trở thành động lực chính, một thứ siêu turbin, thúc đẩy toàn cầu hóa đi tới. Internet sẽ đảm bảo xây dựng cho chúng ta một cách nhìn toàn cầu, khi chúng ta duy trì thông tin liên lạc, đầu tư và hiểu biết về thế giới. Bởi vì một khi vào được mạng để truy cập, bạn có thể liên lạc, trao đổi với bất cứ ai trên thế giới, bạn có thể bỏ tiền ra đầu tư vào bất cứ đâu, lập một doanh nghiệp với chi phí hầu như rất nhỏ. Và một khi doanh nghiệp của bạn được thành lập với một trang mạng thì tầm nhìn của bạn phải là toàn cầu – để tìm thêm khách hàng cũng như để phát hiện các đối thủ cạnh tranh với bạn.
Đầu năm 1998 tôi đến Thung lũng Silicon để nói về một số điểm liên quan tới lập luận trên với John Chambers, Chủ tịch Cisco Systems, tập đoàn sản xuất các loại thiết bị dùng để nối mạng Internet trên toàn cầu. Ông ta nói với tôi lúc đó: “Internet sẽ làm thay đổi mọi thứ. Cách mạng Công nghiệp gắn con người với máy móc trong nhà máy, và cuộc Cách mạng Internet sẽ gắn con người với tri thức và thông tin trong các nhà máy ảo. Và nó sẽ tác động vào xã hội giống như tác động của Cách mạng Công nghiệp trước đây. Nó sẽ xúc tiến toàn cầu hóa với tốc độ chóng mặt. Và thay vì phải mất hơn một trăm năm để hình thành như Cách mạng Công nghiệp, Cách mạng Internet chỉ phát triển trong vòng bảy năm”.
Khi Chambers nói như vậy tôi đã ghi lại, thậm chí trích dẫn lời nói đó trong một cột báo nhưng vẫn chưa hoàn toàn hiểu được điều ông nói. Tôi nghĩ ông ta, trong tư cách là một chuyên viên kỹ thuật, có thể hơi một chút phóng đại. “Vâng, ừ thì…”, tôi nghĩ, “Internet sẽ làm mọi thứ thay đổi. Ai cũng nói như vậy”. Nhưng khi bắt đầu viết cuốn sách này, tôi ngày càng nhận thấy lời của ông Chambers nói không những đúng, mà còn chỉ đúng mới một phần.
Vài tháng sau khi thăm Chambers, văn phòng của ông ta gửi đến cho tôi một hộp giấy, trong đó có những cốc tách, bút và áo phông, qua lưu niệm mang logo quảng cáo của mới của hãng Cisco, mang thông điệp mà có thể bạn đã thấy trên truyền hình.
Thông điệp rất đơn giản. Quảng cáo của Cisco trên TV cho thấy dân chúng già trẻ trên khắp thế giới, nhìn thẳng vào ống kính camera, và hỏi: “Bạn đã sẵn sàng chưa?” Nhớ lại, khi nhận được hộp quà của Cisco, thấy thông điệp đó, tôi đã nghĩ: “Thứ rác rưởi gì vậy? Quảng cáo gì mà lạ vậy. “Bạn sẵn sàng?” Để làm gì?”
Nhưng năm 1999 là năm của Internet, thời điểm Internet thu hút được số lượng khách hàng lớn đáng kể và làm thay đổi khái niệm về thông tin liên lạc và thương mại và lúc đó tôi hiểu chính xác ý nghĩa của thông điệp của Cisco: “Bạn đã sẵn sàng chưa?” – Internet sẽ trở thành một thứ ê-tô lớn, kẹp chặt hệ thống toàn cầu hóa mà tôi đã mô tả trong chương phần này của cuốn sách – thế giới đi nhanh, Bầy Thú Điện Tử, siêu thị tài chính và chiếc áo nịt bằng vàng – Internet sẽ kìm giữ chúng, trói buộc toàn cầu hóa vào tất cả các cá nhân, khiến cho thế giới ngày càng nhỏ bé và vận động nhanh hơn.
Hãy suy nghĩ mà xem: nhờ Internet mà chúng ta có một hệ thống bưu điện đại chúng trên toàn cầu, qua đó ta gửi thư cho nhau. Chúng ta cũng có một siêu thị toàn cầu trên đó ta mua và bán. Chúng ta cũng có một thư viện toàn cầu trong đó chúng ta nghiên cứu và một trường đại học phổ quát cho tất cả mọi người cùng theo học. Vào năm 1999, hơn một nửa dân số Hoa Kỳ, trên 100 triệu người nối mạng Internet. Ở Mỹ không hiếm khi ta gặp những người vừa mua một cuốn sách qua mạng, mượn một khoản tiền qua mạng, mua một máy tính hay một chiếc xe hơi, cũng qua mạng. Và không chỉ ở Hoa Kỳ. Hãy xem Ấn Độ. Ở những vùng nghèo quanh Thủ đô Delhi, một công ty điện thoại di động mang tên Usha Group được thành lập, đã tổ chức những đội nhân viên nữ mang điện thoại di động cấp phát cho từng nhà ở những khu vực nghèo khó, thiếu thốn điện thoại. Sau khi trả một khoản tiền nhỏ, những người dân nghèo có thể dùng điện thoại di động đó gọi đi cho người thân. Nay Usha đã lắp đặt các trung tâm điện thoại công cộng ở nhiều làng mạc như vậy – với khả năng nối mạng chi phí thấp.
Bộ trưởng Tài chính Larry Summer thích kể lại câu chuyện sau: “Hồi trước tôi đến Mozambique – được đánh giá là đất nước nghèo nhất thế giới – để bàn về việc giảm nợ nước ngoài. Trong bữa ăn trưa với đại diện cộng đồng doanh nhân địa phương, tôi hỏi một thương nhân ngồi bên cạnh rằng anh ta làm ăn ra sao rồi. Anh ta đáp: “Cũng khấm khá, nhưng tôi lo cho tương lai lắm”. Khi tôi hỏi vì sao thì anh trả lời là lúc đó anh đang là độc quyền cung cấp dịch vụ Internet ở Mozambique, nhưng lo sợ là trong tương lai sẽ xuất hiện thêm địch thủ cạnh tranh trong dịch vụ của anh ta và làm giảm lợi nhuận của anh”.
Anh ta lo là phải. Thích ứng với giai đoạn tiếp theo trong thời toàn cầu hóa do Internet điều tiết trên một thế giới thu nhỏ, chuyển động nhanh hơn, chính là thách thức to lớn đối với mỗi chúng ta – những cá nhân, đất nước và công ty. Trong hai phần tiếp theo của cuốn sách này mang tên – “Kết nối vào hệ thống” và “Những phản
ứng nhằm vào hệ thống” tôi sẽ giải thích thêm về điều này.
Bạn đã sẵn sàng chưa?
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.