Thứ Ba, 29 tháng Ba
Thứ Tư, 30 tháng Ba
Ba cuộc điều tra đồng hành vào vụ giết hai người ở Enskede đã được xới lên. Cuộc điều tra của thanh tra Bong bóng hưởng lợi thế của nhà chức trách. Ngoài mặt, giải pháp nom như đang trong tầm tay; họ có một nghi can và một vũ khí gây án dính líu đến nghi can. Họ có một móc nối vững chắc với nạn nhân đầu tiên còn với hai nạn nhân khác thì qua Blomkvist họ có một móc nối kém chặt chẽ hơn nhưng là có thể được. Bây giờ cơ bản với Bublanski là tìm Salander rồi đưa cô ta vào một xà lim trong nhà tù Kronoberg.
Điều tra của Armansky về hình thức lệ thuộc vào điều tra của cảnh sát nhưng ông có lịch nghị sự riêng. Mục tiêu của ông là thấy ra các lợi ích của Salander – để phát hiện ra sự thật và tốt nhất là sự thật ở dạng của một hoàn cảnh giảm khinh khả dĩ thuyết phục được.
Điều tra của Millennium thì khó khăn. Tờ tạp chí rõ ràng thiếu các nguồn lực của cảnh sát và tổ chức của Armansky. Nhưng không giống như cảnh sát, trước hết Blomkvist không chú ý dựng ra một kịch bản hợp lý về việc vì sao Salander lại đã có thể xuống tận Enskede để giết hai người trong số bạn bè của anh. Trong cả cuối tuần Phục sinh anh đã cả quyết là đơn giản không tin vào điều này. Nếu Salander dính líu như thế nào đó vào vụ án mạng thì chắc phải có những cơ sở hoàn toàn khác với những cơ sở mà cảnh sát gợi ý ra – cầm súng là một ai đó khác hay một cái gì đó đã xảy ra và vượt khỏi sự kiểm soát của Salander.
Hedstrom không nói năng trong suốt cuốc taxi từ Slussen đến Lungsholmen. Cuối cùng gã ngớ ra và hoàn toàn không tin rằng mình lại đi làm một cuộc điều tra đích thị là của cảnh sát. Gã liếc Bohman đang đọc lại giấy giới thiệu của Armansky.
Rồi thình lình gã tự mỉm cười với mình. Nhiệm vụ này đã đem lại cho gã cơ hội mới tinh để thực hiện một tham vọng mà cả Armansky lẫn Bohman đều không biết gì hết. Gã sắp có cơ may tự tay nắm được thóp của Salander. Gã hết lòng hy vọng mình có thể giúp tóm được cô gái. Trên hết, gã hy vọng là cô gái sẽ bị tuyên án tù chung thân.
Chuyện Salander không được ưa thích ở Milton thì ai cũng rõ. Phần lớn nhân viên không có liên quan gì đến cô đều nghĩ cô là cái nợ. Nhưng không ai biết Hedstrom hận ghét cô sâu sắc đến thế nào.
Cuộc đời đã không công bằng với Hedstrom. Gã đẹp trai, gã đang ở tuổi sung sức nhất và cũng thông minh nữa. Nhưng gã đã bị khước từ mất khả năng trở thành điều mà gã mong mỏi – một cảnh sát viên. Cái gót Achilles của gã là một cái lỗ cực kỳ bé ở màng ngoài tim, nó gây nên tiếng rì rầm của quả tim và nó có nghĩa là vách tâm thất đã sinh chuyện. Hedstrom đã phẫu thuật, vấn đề đã được sửa chữa, nhưng có một khuyết tật ở tim thì có nghĩa là mãi mãi gã sẽ bị tước bỏ mất một chỗ trong lực lượng cảnh sát. Gã bị gạt xuống hàng hai.
Khi được dịp may làm việc với An ninh Milton, gã đã chấp nhận nhưng không hề phấn khởi chút nào. Milton là bãi rác của các dân hết thời – sĩ quan cảnh sát quá già, không còn thích hợp với công việc nữa. Hedstrom cũng bị cảnh sát đẩy đi – nhưng trong trường hợp gã thì không phải do lỗi của bản thân.
Khi khởi sự ở Milton, một trong những nhiệm vụ đầu tiên và cũng thực sự là một phần rèn luyện của Hedstrom là làm với đơn vị tác chiến về phân tích công việc bảo vệ cá nhân cho một nữ ca sĩ già nổi tiếng. Một tay ngưỡng mộ quá phấn khích đã làm cho bà khiếp sợ, tay này tình cờ cũng lại là một bệnh nhân tâm thần đang lênh phênh tự do. Nữ ca sĩ sống một mình ở một biệt thự tại Sodertorn, Milton đã bố trí thiết bị kiểm soát và báo động cho một vệ sĩ đến hiện trường. Một đêm, kẻ ngưỡng mộ dở dở ương ương đã cố đột nhập. Người vệ sĩ dễ dàng bắt được hắn ta và hắn đã nhanh chóng bị kết án đe dọa phi pháp cùng xộc vào nhà người khác và bị đưa về bệnh viện tâm thần.
Trong hai tuần Hedstrom đều đặn đến toàn biệt thự ở Sodertorn cùng với các nhân viên khác của Milton. Gã nghĩ nữ ca sĩ là một ả già lập dị muốn chơi trội, khi gã phớt lờ mồi chài của mụ thì mụ chỉ dành cho gã cái nhìn ngơ ngác. Mụ nên biết ơn rằng đã có một kẻ ngưỡng mộ còn ít nhiều nhớ đến mụ.
Hedstrom ghét cái cách Milton vồ lấy lệnh của mụ mà chấp hành. Nhưng dĩ nhiên gã nghĩ sao thì biết vậy chứ không có nói ra.
Một buổi chiều, trước khi kẻ đột nhập bị bắt, nữ ca sĩ và hai nhân viên của Milton đang ở bên bể bơi và Hedstrom ở trong nhà chụp ảnh những cửa sổ và cửa ra vào có thể cần gia cố. Gã đi từng phòng một, khi đến phòng ngủ gã không cưỡng nổi được cơn cám dỗ mở bàn làm việc của bà ta ra. Gã tìm thấy một tá album ảnh từ thời bà còn là một ngôi sao lớn, những năm 70, 80 đi lưu diễn khắp thế giới. Gã cũng tìm thấy một hộp với một số bức ảnh rất riêng tư của nữ ca sĩ. Những bức ảnh tương đối hồn nhiên nhưng với đôi chút tưởng tượng, người ta có thể coi chúng là các “nghiên cứu khiêu dâm”. Chúa ơi, sao con bò cái này nó lại ngu si thế chứ hả? Hedstrom ăn cắp năm bức có cơ gây lôi thôi nhất, những bức rõ ràng do vài ba người tình hay quý mến bà chụp. Gã chụp ngay tại chỗ các bức ảnh đó và để lại như cũ các bản gốc. Gã chờ vài tháng mới bán chúng cho một tờ báo lá cải khổ nhỏ của Anh. Gã được trả 9.000 bảng Anh và các bức ảnh đã làm rộ lên những đầu đề giật gân.
Hedstrom vẫn không biết làm sao Salander lại mò ra chuyện này, nhưng sau khi các bức ảnh lên báo, cô đã đến thăm gã. Cô biết Hedstrom là người đã bán chúng. Nếu gã còn làm lại trò ấy nữa, cô sẽ vạch nó ra với Armansky. Cô có thể vạch ra tức khắc nếu cô có tang chứng nhưng rõ là cô không có. Từ hôm ấy gã cảm thấy bị cô theo dõi. Mỗi lần quay đầu lại, gã đều nhìn thấy đôi mắt một mí ti hí của cô.
Hedstrom cảm thấy căng thẳng và suy sụp. Cách duy nhất để trả miếng là phá uy tín của cô bằng cách góp phần vào những lời ong tiếng ve về cô ở trong căng tin. Nhưng cả việc ấy cũng không kết quả lắm. Hedstrom không dám để cho mình bị chú ý do chỗ cô đã được Armansky che chở vì một vài lý do không rõ nào đó. Gã nghĩ cô đã nắm gáy được ông giám đốc công ty bằng kiểu nào hay có thể lão đã bí mật tình tang với nó. Nhưng dù không ai ở Milton đặc biệt mê mết Salander thì tất cả nhân viên lại đều hết sức kính trọng Armansky và vì vậy họ chấp nhận sự có mặt kỳ lạ của cô. Hedstrom đã cảm thấy vô cùng nhẹ người khi vai trò của cô bắt đầu giảm đi rồi cuối cùng cô gần như thôi làm việc ở Milton.
Bây giờ một cơ hội tự dưng đến để cho gã san bằng đi món nợ cũ. Mà lại không sợ rủi ro gì. Cô có thể kết tội gã thế nào tùy thích – chả còn ai tin cô. Ngay cả Armansky cũng sẽ không nghe một câu nào của một kẻ sát nhân bệnh hoạn.
Bublanski trông thấy Faste ở trong thang máy đi ra cùng với Bohman và Hedstrom ở An ninh Milton. Faste đã được phái xuống đưa các bạn đồng nghiệp mới này lên qua hàng rào an ninh. Bublanski hoàn toàn không thích thú việc cho người bên ngoài tham dự một cuộc điều tra án mạng nhưng quyết định đã được đặt ra ở trên đầu ông… và quỷ quái thế chứ, Bohman lại là một sĩ quan cảnh sát thực thụ với nhiều dặm đường đã đi trước ông, Hedstrom đã tốt nghiệp học viện cảnh sát và như vậy thì không thể là một thằng ngu đặc được rồi. Bublanski chỉ vào phòng họp.
Cuộc săn lùng Salander đã vào ngày thứ sáu và đã đến lúc cần có một đánh giá cơ bản. Công tố viên Ekstrom không dự họp. Nhóm gồm có các thanh tra hình sự Modig, Faste, Andersson và Holmberg, bốn sĩ quan tăng cường từ đơn vị nghiên cứu điều tra của Cảnh sát Hình sự Quốc gia. Mở đầu, Bublanski giới thiệu các đồng nghiệp mới từ An ninh Milton và hỏi có ai trong họ muốn nói gì không. Bohman dặng hắng.
– Tôi mới đến tòa nhà này một lúc nhưng một số các bạn đã biết tôi và biết tôi trong nhiều năm là sĩ quan cảnh sát trước khi tôi đổi sang khu vực tư nhân. Lý do chúng tôi ở đây là vì Salander đã làm việc cho Milton mấy năm và chúng tôi cảm thấy một chừng mực nào đó có trách nhiệm. Việc của chúng tôi được miêu tả là cố gắng hỗ trợ quá trình bắt cô ta. Chúng tôi có thể góp đôi điều hiểu biết cá nhân về cô ta nhưng chúng tôi đến đây không phải là để làm rối cuộc điều tra lên hay cố ngáng cản các bạn bằng cách này cách nọ.
– Để cùng làm việc thì hãy bảo chúng tôi xem cô ấy là thế nào? – Faste nói.
– Cô ấy đúng không phải là người mà ông có thiện cảm được. – Hedstrom nói. Gã dừng lại khi Bublanski giơ tay.
– Chúng ta sẽ có dịp nói chi tiết trong hội nghị. Nhưng chúng ta hãy lần lượt làm từng thứ và đến đâu thì dứt điểm ở đấy. Sau cuộc họp này chúng ta sẽ phải đến công tố viên Ekstrom ký một bản tuyên bố về bảo mật. Nào Sonja hãy bắt đầu.
– Đáng nản. Sau các vụ án mạng vài giờ chúng ta đã đột phá và nhận diện được Salander. Chúng ta đã tìm ra chỗ cô ấy ở – hay ít nhất là chỗ mà chúng ta nghĩ rằng cô ấy ở. Rồi thì không một dấu vết nữa. Chúng ta đã nhận được ba chục người gọi đến nghĩ rằng họ trông thấy cô gái nhưng cho đến nay thì thấy rõ đều là báo động hoắng cả. Cô ta hình như đã tan ra thành mây khói.
– Có một chút hơi khó tin ở chỗ này. Cô ấy nom khá là khác người, xăm mình xăm mẩy thì thực sự đâu có đến nỗi khó tìm ra như thế. – Andersson nói.
– Cảnh sát ở Uppsala hôm qua sau một cảnh báo đã đến cùng với vũ khí của họ mang theo. Họ quây một cậu bé mười bốn tuổi lại vì cậu ta nom rất giống Salander rồi làm cho cậu bé sợ mất mật. Bố mẹ cậu ta hoàn toàn sững sờ.
– Tìm một người nom giống một thiếu niên mười bốn tuổi là một điều bất lợi rồi. Cô ta có thể hòa lẫn vào trong bất cứ đám đông mười mấy tuổi nào.
– Nhưng cô ta đang được chú ý trên các phương tiện thông tin thì chắc rồi một ai đó cũng sẽ nhìn thấy cái gì đó thôi. – Andersson nói. – Họ đang đăng ảnh cô ta trên tờ Người được truy nã nhất ở Thụy Điển tuần này, vậy có thể sẽ dẫn đến một cái gì đó mới.
– Xem vẻ khó đấy vì cô ấy đã leo lên trang nhất của các báo trong nước hết cả rồi còn gì. – Faste nói.
– Như vậy gợi ý cho chúng ta là nên thay đổi cách tiếp cận. – Bublanski nói. – Có đồng phạm cô ấy có thể đã lỏn ra nước ngoài, nhưng chắc chắn hơn thì cô ấy đã ẩn núp.
Bohman giơ tay. Bublanski gật đầu.
– Theo những nét đại cương chúng ta có về cô ấy thì cô ấy có tính khí tự phá phách. Mặt khác cô ấy là một nhà chiến lược thận trọng tự đặt lấy kế hoạch cho mọi hành động của mình. Cô ấy không làm gì mà không phân tích hậu quả. Ít nhất thì đó là điều Dragan Armansky nghĩ về cô ấy.
– Bác sĩ tâm thần một dạo của cô ấy cũng xác nhận như thế. Nhưng chúng ta hãy thôi chuyện xem xét tính cách đi một lúc nhỉ. – Bublanski nói. – Sớm muộn thế nào cô ấy cũng phải đi lại xê dịch. Jerker, nguồn lực mà cô ấy có là kiểu gì?
– Đây là một món rối, các vị có thể bù đầu lên với nó đây. – Holmberg nói. – Cô ấy có một tài khoản ngân hàng ở Handelsbanken trong mấy năm. Đó là thu nhập mà cô ta khai. Hay đúng hơn, cái thu nhập mà người giám hộ của cô ấy, Nils Bjurman khai. Một năm trước tài khoản ước khoảng 100.000 curon. Mùa thu 2003, cô ấy rút hết ra.
– Mùa thu 2003 cô ấy cần tiền mặt. Lúc đó cô ấy thôi làm việc cho Milton. – Bohman nói.
– Có thể. Trong chừng hai tuần tài khoản là không. Rồi cô ấy lại đưa từng ấy trở lại về tài khoản.
– Cô ấy ngỡ cần tiền cho một việc gì đó nhưng rồi không tiêu đến nên gửi lại chăng?
– Có thể. Tháng Chạp 2003, cô ấy dùng tài khoản để thanh toán một số biên lại hóa đơn, bao gồm cả tiền cô ấy chi trả trước trong một năm. Tài khoản tụt xuống còn 70.000 curon. Sau đó tài khoản không bị đụng đến trong một năm, trừ có gửi thêm vào khoảng 9.000 curon. Tôi đã kiểm tra – đây là di sản của mẹ mà cô ấy được hưởng. Tháng Ba năm ấy, cô ấy lấy khoản tiền đó ra – chính xác là 9.312 curon – và đó là lần duy nhất cô ấy đụng đến tài khoản.
– Thế thì sống bằng cái quỷ gì chứ?
– Nghe đây. Tháng Giêng năm ấy cô ấy mở một tài khoản mới. Món này ở ngân hàng Svenska Enskilkda Banken. Cô ấy gửi hai triệu curon vào.
– Tiền ở đâu ra vậy? – Modig nói.
– Tiền này do một ngân hàng ở quần đảo Channel chuyển đến.
Im lặng buông xuống gian phòng họp, sau một lúc Modig nói:
– Tôi chả hiểu gì hết.
– Vậy đây là tiền cô ấy chưa khai? – Bublanski hỏi.
– Không khai, nhưng về danh nghĩa sang năm cô ấy mới cần khai. Lý thú là trong báo cáo của Bjurman về tài sản của cô ấy không thấy ghi nhận món tiền này, mà hàng tháng ông ấy vẫn gửi báo cáo này đi.
– Vậy là hoặc ông ta biết hay không biết chuyện đó thì cả hai đang cùng nhau chơi một trò gian. Jerker, chúng ta có những gì về pháp y ở đây nhỉ?
– Tôi có một báo cáo của người chỉ đạo cuộc điều tra sơ bộ tối qua. Chúng ta được biết thế này: Một: chúng ta có thể cột Salander vào cả hai hiện trường gây án. Chúng ta tìm thấy dấu vân tay của cô ấy trên vũ khí gây án và trên mảnh của một tách cà phê vỡ ở Enskede. Chúng ta đang chờ kết quả từ mọi mẫu ADN thu thập được nhưng về việc cô ấy đã ở trong căn hộ thì chả còn nghi ngờ gì cả. Hai: chúng ta có dấu vân tay của cô ấy trên cái hộp tìm thấy ở nhà Bjurman, cái hộp đựng vừa khẩu súng. Ba: cuối cùng chúng ta có một nhân chứng có thể đặt cô ấy vào địa điểm của vụ giết hai người ở Enskede. Chủ một cửa hàng góc phố gọi điện thoại nói dứt khoát là Salander đã ở cửa hàng của ông cái đêm xảy ra án mạng. Cô ta đã mua một bao Marlboro Nhẹ.
– Và sau bao nhiêu ngày chúng ta xin thông tin, ông ta mới tương ra ư?
– Ông ấy vẫn nghỉ lễ như mọi người khác. Dù sao. – Holmberg chỉ tay vào bản đồ. – Cửa hàng góc phố ở đây, cách hiện trường gây án chừng hai trăm mét. Cô ấy đến đúng lúc ông ta đóng cửa hàng, 10 giờ tối. Theo ông ta tả thì hoàn toàn là cô ấy rồi.
– Hình xăm trên cổ? – Andersson nói.
– Chỗ này ông ấy hơi lơ mơ. Ông ấy nghĩ có hình xăm, nhưng ông ấy dứt khoát thấy mí mắt cô ấy có lỗ đeo khoen.
– Còn gì khác không?
– Về mặt chứng cứ kỹ thuật thì không nhiều. Nhưng đứng vững.
– Faste, tình hình căn hộ ở Lundagatan thế nào?
– Chúng tôi đã có dấu vân tay Salander nhưng chúng tôi nghĩ cô ấy không sống ở đấy. Chúng tôi đã lục tung tất cả chỗ ấy lên và hình như Miriam Wu sống ở đó. Tên cô này gần đây hồi tháng Hai năm nay mới được cho thêm vào hợp đồng thuê nhà.
– Chúng ta biết gì về cô này?
– Không có biên bản tiền án tiền sự. Được biết là đồng tính ái nữ. Cô ta xuất hiện ở các buổi diễn và tương tự đại loại Liên hoan Tự hào Đồng tính ái. Hình như đang học xã hội học và là chủ sở hữu một phần của Thời trang Domino, một cửa hàng tính dục ở Tegnergatan.
– Cửa hàng tính dục? – Modig nhướng lông mày lên hỏi.
Đã một lần chị mua vài thứ lụa là đăng ten ở đây cho vừa ý chồng. Nhưng chị không muốn để lộ chuyện đó ra với cánh đàn ông trong phòng họp.
– À, họ bán các thứ còng tay và dụng cụ, quần áo của gái làng chơi, đại khái thế. Có roi da không?
– Không phải cửa hàng tính dục mà là cửa hàng thời trang cho những người thích quần áo lót khêu gợi.
– Cũng sa đọa như nhau cả thôi.
– Tiếp tục đi. – Bublanski cáu kỉnh nói. – Có dấu hiệu nào của cô Wu không?
– Không một tăm hơi.
– Có thể đã phới với Salander rồi. – Modig nói.
– Hay là Salander cũng đã xơi cô ta rồi. – Faste nói. – Có thể Salander muốn thanh lọc hết các chỗ quen biết.
– Wu là người đồng tính ái nữ. Chúng ta có nên kết luận hai người này cặp bồ với nhau không?
– Tôi nghĩ có thể kết luận là đã có quan hệ tính dục. – Andersson nói. – Thứ nhất chúng ta thấy dấu vân tay của Salander ở trên giường và xung quanh giường tại căn hộ. Chúng tôi cũng tìm thấy dấu vân tay của cô ấy trên cái còng số tám.
– Vậy thì cô ấy sẽ thú cái còng tôi đã sẵn sàng cho cô ấy đây. – Faste nói. Modig làu bàu.
– Tiếp tục. – Bublanski bảo Andersson.
– Chúng tôi nghe mách là có người trông thấy Miriam Wu hôn một cô gái ở Kvarnen, nghe tả thì hợp với Salander. Khoảng hai tuần trước đây. Người báo tin cho hay anh ta biết Salander là ai và trước kia có gặp nhau tuy cả năm ngoái anh ta không trông thấy cô ta. Tôi không có thì giờ kiểm lại kỹ với nhóm nhưng chiều nay tôi sẽ làm chuyện đó.
– Trong sổ phúc lợi xã hội của cô ấy không ghi chuyện cô ấy là dân đồng tính ái nữ. Hồi còn mười mấy tuổi cô ấy đã có mấy lần bỏ các nhà trông nom cô ấy để đến các quan bar dụ đàn ông. Cảnh sát ghi nhận cô ấy đã mấy lần đi với những đàn ông già hơn.
– Cái này mà không phải là điếm thì là cái khỉ chứ?
– Chúng ta biết gì về những người cô ấy quen biết? Curt?
– Khó mà biết được chút gì. Từ khi mười tám tuổi cô ấy không còn vấp phải cảnh sát nữa rồi. Cô ấy biết Dragan Armansky và Mikael Blomkvist, chúng tôi biết thế. Và cô ấy biết Miriam Wu, dĩ nhiên. Cũng nguồn tin mách chúng ta chuyện cô ấy và Wu ở Kvarnen còn nói cô ấy trước kia có một thời gian hay tụ bạ với một đám con gái. Một kiểu băng nhóm con gái lấy tên là Những Ngón tay Ma quỷ.
– Những Ngón tay Ma quỷ. Là cái gì vậy? – Bublanski hỏi.
– Một cái gì hình như huyền bí thì phải. Họ tụ tập lại rồi náo thiên náo địa.
– Đừng có lại bảo tôi Salander cũng là một loại Quỷ dữ Satan chết giấp nữa đấy. – Bublanski nói. – Truyền thông đại chúng sắp hóa cuồng cả rồi đây.
– Nhưng Quỷ Satan đồng tính ái nữ, – Faste nói, giọng đỡ đần.
– Hans, anh đã được xem các hình ảnh phụ nữ Trung cổ. – Modig nói. – Còn Những Ngón tay Ma quỷ thì tôi cũng đã có nghe.
– Cô đã nghe à? – Bublanski nói.
– Nó là một băng nhạc rock nữ cuối những năm 90. Không có siêu sao nhưng họ cũng đã nổi tiếng một dạo.
– Vậy là những Quỷ Satan đồng tính ái nữ nghiền nhạc rock. – Faste nói.
– OK. Thôi nhăng nhít đủ rồi đấy. – Bublanski nói. – Hans, anh và Curt kiểm tra xem ai đã ở trong Những Ngón tay Ma quỷ rồi nói chuyện với họ. Salander còn có bạn bè nào khác không?
– Không nhiều, trừ người giám hộ cũ của cô ấy, Holger Palmgren. Ông ấy đang điều dưỡng lâu dài sau một cú đột quỵ và có vẻ khá không ổn. Thật ra, tôi không thể nói tôi đã phong thanh được gì về một nhóm bạn nào như thế. Về chuyện này, chúng ta vẫn không biết Salander đang sống ở đâu, chúng ta cũng không thấy quyển ghi địa chỉ của cô ấy.
– Chẳng có ai đi đâu mà cứ như ma không để lại dấu vết thế này. Chúng ta nghĩ sao về Mikael Blomkvist?
– Chúng ta không trực tiếp theo dõi anh ta nhưng trong dịp nghỉ lễ chúng ta đã đôi hồi kiểm tra anh ta. – Faste nói. – Phòng trường hợp bất ngờ Salander vọt ra, lý do như vậy. Thứ Năm anh ta đi làm rồi về nhà và hình như suốt cuối tuần không ra khỏi nhà.
– Tôi không thấy được anh ta có liên quan gì đến các vụ án mạng. – Modig nói. – Chuyện anh ta khai là vững vàng đấy, anh ta có thể kể lại từng phút một cái đêm hôm ấy cơ mà.
– Nhưng anh ta biết Salander. Anh ta là mối dây liên hệ giữa cặp nam nữ ở Enskede kia và Salander. Ngoài ra chúng ta có lời anh ta khai về chuyện một người đàn ông tấn công Salander một tuần trước khi xảy ra vụ án mạng. Chúng ta hãy thử hiểu các cái đó là thế nào đi nhỉ? – Bublanski nói.
– Trừ việc Blomkvist là nhân chứng duy nhất của vụ tấn công ra chứ? – Faste nói.
– Ông nghĩ Blomkvist tưởng tượng ra chuyện hay là nói dối à?
– Không biết. Nhưng tôi nghe nó cứ như là chuyện con gà trống với con bò giái vậy. Một người hoàn toàn trưởng thành mà sao lại không bảo vệ được một cô gái bé chỉ có bốn chục ký cơ chứ?
– Tại sao Blomkvist lại nói dối?
– Để làm rối các ý nghĩ của chúng ta về Salander lên ư?
– Nhưng chả điều gì có ý nghĩa thực sự. Blomkvist giả định là các bạn của anh ta bị giết vì quyển sách mà Svensson đang viết.
– Mách qué. – Faste nói. – Chỉ là Salander. Tại sao một người nào đó lại giết người giám hộ của mình, để bắt Dag Svensson câm miệng. Và đó có thể là ai khác nữa… hay là cảnh sát viên?
– Nếu Blomkvist công khai đưa giả thiết của anh ta ra thì sẽ có ngay một đống các lý sự về chuyện cảnh sát thông đồng này nọ đây. – Andersson nói.
Tất cả bàn họp đều lầm rầm tỏ ý tán thành.
– Được. – Modig nói. – Tại sao cô ta bắn Bjurman?
– Và hình xăm có nghĩa gì đây? – Bublanski nói, chỉ tay vào bức ảnh chụp bụng dưới của Bjurman.
TÔI LÀ MỘT CON LỢN BẠO DÂM, MỘT ĐỨA SA ĐỌA, MỘT ĐỨA HIẾP DÂM.
– Báo cáo của chuyên gia bệnh lý học nói sao? – Bohman nói.
– Hình xăm có từ một đến ba năm. Người ta đo lượng máu chảy ở bên trong da mà biết. – Modig nói.
– Ta có thể loại đi cái khả năng rằng chức ấy phong cho Bjurman là xứng kỳ danh.
– Quanh ta đầy trò điên khùng nhưng cái này thì sẽ không thành nổi mô típ chuẩn cho đám hăng hái xăm mình đâu.
Modig ngoay ngoáy ngón tay trỏ.
– Chuyên gia bệnh lý học nói hình xăm ấy nom kinh khiếp, kinh khiếp thì ngay tôi cũng thấy. Vậy thì ắt nó là do một tay nghiệp dư chính cống làm. Kim vào nhiều chỗ nông sâu không đều và lại là một mảng xăm rất to ở trên một nơi nhạy cảm của cơ thể. Nói tóm lại là làm rất đau, so ngang được với một trận hành hung có tình tiết nặng.
– Trừ việc Bjurman không bao giờ báo cáo với cảnh sát chuyện này. – Faste nói.
– Nếu có ai xăm cho tôi như thế thì tôi cũng không báo cáo. – Andersson nói.
– Một điều nữa. – Modig nói. – Điều này có thể sẽ củng cố cho lời sám hối, như ta thấy, ở hình xăm. – Chị mở hồ sơ những bức ảnh in sao chuyển cho mọi người. – Đây là vài cái mẫu tôi in sao từ thư mục ở trên ổ cứng của Bjurman ra. Chúng được tải ở Internet xuống. Máy tính của ông ta chứa khoảng hai nghìn bức ảnh đều một tính chất này.
Faste huýt sáo cầm lấy ảnh một phụ nữ bị trói trong tư thế thô lỗ và không thoải mái.
– Đây có thể là món gì đó cho Thời trang Domino hay Những Ngón tay Ma quỷ đây. – Faste nói.
Bublanski khó chịu ra hiệu cho Faste im đi.
– Chúng ta hãy giả thử hiểu cái này nó là thế nào đi chứ?
– Giả định vết xăm đã được hai năm. – Bublanski nói. – Nó đã được làm quanh quẩn thời gian Bjurman ốm. Không có y bạ nào nói ông ta có bệnh gì, ngoài huyết áp cao. Vậy chúng ta có thể cho là đã có một móc nối.
– Salander đã thay đổi trong năm này. – Bohman nói. – Cô ta thôi làm việc cho Milton mà không báo trước, tôi hiểu là thế, rồi ra nước ngoài.
– Chúng ta có nên cho rằng ở đây cũng có một móc nối không? Thông tin ở hình xăm nói trắng ra rằng Bjurman đã cưỡng hiếp một ai đó. Salander có thể đã là nạn nhân. Và đó là động cơ của vụ án mạng.
– Dĩ nhiên còn có các cách diễn giải khác nữa. – Faste nói. – Tôi có thể hình dung ra một kịch bản trong đó Salander và cô gái Trung Quốc làm một loại dịch vụ đi cặp nào đó với dụng ý. Là một cha hám bạo hành gái, Bjurman có thể đã thoát được nạn bị đám con gái ranh chúng quất roi da vào người. Bằng cách nào đó, ông ta có thể đã bị lệ thuộc vào Salander và mọi sự rắc rối ra.
– Nhưng nói như thế thì vẫn không giải thích được vụ án mạng ở Enskede.
– Nếu Svensson và Johansson sắp vạch chuyện buôn bán tính dục ra thì họ có thể đã vấp phải Salander và Wu. Động cơ của ông cho việc Salander gây án là thế đấy.
– Cho đến nay điều này là suy đoán dở ẹc nhất. – Modig nói.
Cuộc họp kéo thêm một giờ nữa, cũng có bàn đến việc máy tính của Svensson bị mất. Khi nghỉ ăn trưa, họ đều nản. Cuộc điều tra lại mang nhiều dấu hỏi hơn trước.
Vừa tới buồng giấy của mình, Berger liền gọi ngay Magnus Borsgjo, Tổng biên tập tờ Svenska Morgon – Posten.
– Tôi thích thú đấy.
– Tôi đã nghĩ chị sẽ thích thú.
– Tôi có ý ngay sau lễ Phục sinh sẽ để ông biết. Nhưng như ông biết đấy, ở đây chúng tôi đã bị rối tung rối mù lên.
– Vụ giết Dag Svensson. Tôi rất buồn. Chuyện ghê gớm.
– Thế thì ông sẽ hiểu cho là nay không phải lúc tôi tuyên bố bỏ đi.
Ông im lặng một lúc.
– Chúng tôi có một vấn đề vào phút chót. – Borsgjo nói. – Lần trước chúng ta nói với nhau là công việc sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng Tám. Nhưng tình hình là Tổng biên tập của chúng tôi, Hakan Morander, người mà chị sẽ thay thì lại đang rất gay về sức khỏe. Tim ông ta có vấn đề, bác sẽ đề nghị ông ta phải ngừng làm việc ngay. Vì thế ông ấy định về hưu vào ngày 1 tháng Bảy này. Trước đây tôi nghĩ ông ta sẽ cứ ở lại đến mùa thu và chị thì có thể làm việc cặp với ông ta qua tháng Tám sang tháng Chín. Nhưng tình cảnh xoay ra như bây giờ thì chúng tôi đang khủng hoảng. Erika, chúng tôi sẽ phải cần chị bắt đầu từ ngày 1 tháng Năm, và chắc chắn không thể muộn được quá ngày 15 tháng Năm.
– Chúa ơi, chỉ còn ít tuần nữa thôi ư?
– Chị vẫn hứng thú chứ?
– Vâng, dĩ nhiên… nhưng như thế có nghĩa là tôi chỉ còn một tháng để thu xếp xong xuôi công việc ở Millennium đây.
– Tôi biết, tôi xin lỗi đã phải làm như thế, Erika, nhưng tôi cần thúc gấp chị. Với một tạp chí chỉ có năm, sáu nhân viên thì một tháng có thể cũng là đủ để sắp xếp xong được công việc.
– Nhưng như thế cũng có nghĩa là đang giữa hồi nó khủng hoảng thì tôi bỏ.
– Thế nào thì chị cũng cần phải bỏ đó thôi. Chúng tôi đang làm mọi cái để nhấc thời hạn chị lên đường được sớm hơn ít tuần.
– Tôi sẽ làm thế với điều kiện.
– Xin cho biết.
– Tôi sẽ phải ở lại trong ban lãnh đạo của Millennium.
– Như thế có lẽ không hợp. Dĩ nhiên Millennium bé hơn, ngoài ra chỉ là nguyệt san nhưng về danh nghĩa thì chúng ta cạnh tranh với nhau kia mà.
– Điều đó là không thể tránh được. Tôi sẽ không liên quan gì đến công việc biên tập của Millennium nhưng tôi sẽ không bán cổ phần kinh doanh của tôi ở đó. Cho nên tôi phải ở lại ban lãnh đạo.
– OK. Chúng ta chắc sẽ giải quyết được chỗ này.
Họ đồng ý họp với ban lãnh đạo của ông trong tuần đầu tiên của tháng Tư để thanh toán dứt điểm các chi tiết và dựng hợp đồng.
Blomkvist có cảm giác déjà vu, “đã từng biết” khi anh nghiên cứu danh sách các nghi can mà anh và Eriksson đã lập nên trong hai ngày cuối tuần. Ba mươi bảy cái tên, tất cả đều là những người mà tên tuổi đã được Svensson đưa ra làm chứng cứ vững chắc trong quyển sách của anh. Trong số này hai mươi mốt người là các tay chăn dắt gái mà anh đã nhận diện được.
Blomkvist nhớ lại chuyện anh lên đường lùng tìm tên giết người ở Hedestad hai năm trước như thế nào rồi do đó phát hiện ra một loạt gần như tới năm chục nghi can.
10 giờ sáng thứ Ba, Blomkvist gọi Eriksson vào buồng giấy của anh ở Millennium. Anh đóng cửa lại khi chị đã vào. Họ ngồi uống cà phê một lúc. Rồi anh đưa cho chị bản danh sách.
– Chúng ta nên làm gì? – Eriksson nói.
– Trước hết chúng ta nên đưa danh sách này cho Erika – có thể mười phút nữa. Rồi chúng ta soát lại từng người một. Nếu như có thể, mà thậm chí còn chắc chắn nữa, thì một trong những người này có quan hệ với ba vụ giết người.
– Và làm sao chúng ta soát được ra chúng?
– Tôi nghĩ là tập trung vào hai mươi mốt tên chăn dắt gái. Chúng có nhiều cái để mất hơn là bọn khác. Tôi nghĩ là hãy đi theo dấu chân của Dag, gặp từng đứa một.
– Còn tôi làm gì?
– Hai việc. Thứ nhất, trong này có bảy người chưa nhận diện được: hai tên chăn dắt gái và năm đứa khác cũng trong nghề. Nhiệm vụ của cô trong hai ngày tới là cố nhận diện ra chúng. Một số cái tên đã có ở trong luận án của Mia; có thể có những cách đối chiếu giúp cô tìm ra tên thật của chúng. Thứ hai, chúng ta biết rất ít về Nils Bjurman, người giám hộ của Salander. Trong các giấy tờ này có một sơ yếu lý lịch nhưng tôi đoán một nửa của nó là bịa.
– Vậy tôi phải truy cho ra lai lịch của ông ta.
– Đúng thế. Càng nhiều càng tốt.
Harriet Vanger gọi Blomkvist lúc 5 giờ chiều.
– Anh nói chuyện được không?
– Một chút thôi nhá.
– Cô gái mà cảnh sát đang tìm… cũng là cô gái đã giúp anh dò ra tôi đấy phải không?
Harriet Vanger và Salander chưa gặp nhau.
– Đúng đấy. – Blomkvist nói. – Tôi xin lỗi bận quá không gọi được để cập nhật tình hình cho chị. Nhưng đúng là cô ấy đấy.
– Thế thì có nghĩa làm sao nhỉ?
– Liên quan gì đến chị không ấy hả? Không, tôi hy vọng thế.
– Nhưng cô ấy biết hết về tôi và những gì đã xảy ra.
– Đúng, cô ấy biết hết những gì đã xảy ra.
Đằng đầu dây Harriet im lặng.
– Harriet, tôi nghĩ cô ấy không làm chuyện kia đâu. Tôi đang cố thuyết phục là cô ấy vô tội trong các vụ án mạng kia. Tôi tin cô ấy.
– Nếu tôi tin những gì báo chí nói thì…
– Chị đừng tin những gì báo chí nói. Chừng nào liên quan đến chị thì hoàn toàn đơn giản thôi mà: cô ấy cam đoan im lặng. Tôi tin cô ấy sẽ giữ lời cho đến chết. Qua những cái tôi biết về cô ấy, tôi biết cô ấy là người cực kỳ có nguyên tắc.
– Là nếu cô ấy không gây ra các vụ kia?
– Tôi không biết, Harriet. Tôi đang làm mọi cái thuộc thẩm quyền tôi để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra thực sự. Và chị đừng có lo.
– Tôi không lo nhưng tôi muốn chuẩn bị đón chuyện xấu nhất. Anh chống đỡ ra sao, Mikael?
– Tàm tạm. Chúng tôi đang xoay như chong chóng đây.
– Mikael… ngay lúc này tôi đang ở Stockholm. Mai tôi bay đi Úc – tôi đi chừng một tháng.
– Tôi hiểu.
– Tôi ở khách sạn.
– Harriet, tôi không rõ. Tôi cảm thấy tôi bị dàn mỏng dính ra thật rồi. Đêm nay tôi phải làm việc và tôi không làm bạn đồng hành tốt lắm được đâu.
– Anh không cần phải là bạn đồng hành tốt. Cứ đến và nhàn nhã một lúc đi.
Mikael về nhà lúc 1 giờ sáng. Anh mệt và cảm thấy như đang muốn tung hê mọi cái mà đi ngủ nhưng anh lại mở iBook xem thư điện tử. Không có thư mới nào đáng nói.
Mở thư mục anh thấy một dữ liệu mới. Nó có tên [Gửi MikBlom], cạnh cái tệp mà anh gọi là [Gửi Sally].
Anh gần như bị một cú sốc về thể xác khi thấy dữ liệu này trên máy tính của mình. Cô ấy ở đây. Salander đang ở trong máy tính của mình. Có thể liên hệ ngay với cô ấy bây giờ chăng? Anh nháy chuột hai cái.
Anh không tin chắc vào điều anh chờ đợi. Một bức thư. Một câu trả lời. Một thanh minh vô tội. Một lời giải thích. Phản hồi của Salander ngắn đến nỗi phát cáu. Nó chỉ là một từ bốn chữ cái: Zala.
Mikael nhìn chằm chằm vào cái tên. Hai giờ trước khi bị giết, gọi điện thoại cho anh, Svensson đã nhắc đến Zala.
Cô ấy định nói gì đây? Phải chăng Zala là mối dây giữa Bjurman với Dag và Mia? Bằng cách nào? Tại sao? Hắn là ai? Mà sao Salander lại biết cái đó? Cô ấy dính líu vào như thế nào?
Anh mở xem đặc tính tư liệu, thấy cái thư mới được viết trước đó chưa tới mười lăm phút. Rồi anh tủm tỉm cười. Máy tính cho thấy Mikael Blomkvist là tác giả của tư liệu mới. Salander đã tạo tư liệu này ở ngay trong máy tính của anh bằng chương trình Word đã được cấp phép của anh. Như thế tốt hơn email, không để lại địa chỉ Internet có thể bị dò ra, tuy Blomkvist tin chắc chắn rằng muốn sao thì sao cũng không dò được ra nổi Salander. Và không còn nghi ngờ gì nữa, Salander đã đánh “giáp lá cà” – chữ của cô – máy tính của anh rồi.
Anh đứng bên cửa sổ nhìn sang Tòa Thị chính. Anh không rũ bỏ được cái cảm giác bị Salander theo dõi mọi lúc mọi nơi, gần như cô đang ở trong buồn trừng trừng nhìn anh qua màn hình máy tính. Dĩ nhiên cô có thể ở bất cứ đâu trên thế giới nhưng anh ngờ rằng cô đang ở rất gần. Đâu đó ở Sodermalm. Trong bán kính hai chục dặm cách nơi anh đang ở.
Anh ngồi xuống soạn một tư liệu Word mới mà anh đặt tên là [Sally – 2]. Anh viết một thư cô đọng:
Lisbeth,
Cô là kẻ phá quấy đáng ghét. Zala là đồ quái quỷ gì? Hắn là mối liên hệ ư? Cô có biết ai giết Dag và Mia không? Nếu biết thì bảo tôi để chúng ta có thể giải quyết cái mớ rắc rối này mà còn đi ngủ chứ.
Mikael
—–
Cô ấy hiện đang ở trong máy tính của Blomkvist. Hồi âm đến trong vòng một phút. Một tư liệu mới hiện ra trong thư mục trên màn hình nền của anh, lần này tên là [Kalle Blomkvist].
Là nhà báo thì anh hãy tìm lấy đi chứ.
—–
Blomkvist cau mày. Cô ấy đang trêu anh, dùng cái biệt hiệu cô biết là anh nguyền rủa nó. Nhưng cô không giúp anh tẹo nào. Anh viết tư liệu [Sally – 3] rồi đặt nó ở màn hình nền.
Lisbeth,
Nhà báo tìm ra chuyện nhờ hỏi những người biết chuyện. Tôi đang hỏi cô. Cô có biết tại sao Dag và Mia bị giết và ai giết họ không? Nếu biết xin bảo tôi. Cho tôi một cái gì để đi tiếp đi.
Mikael.
—–
Anh bồn chồn chờ hồi âm khác trong mấy tiếng. 4 giờ sáng anh bỏ cuộc, đi ngủ.