Chủ nhật, 3 tháng Tư
Thứ Hai, 4 tháng Tư
Blomkvist pha thêm hai cà phê espresso nữa. Anh xin lỗi khi châm thuốc lá. Paolo Roberto nhún vai. Anh nổi tiếng là một kiểu gà trống vênh vang ta đây có thể nghĩ sao nói thế. Blomkvist nhanh chóng nhận thấy anh ta có vênh vang tự mãn trong đời riêng nhưng là một người thông minh và khiêm nhường. Anh nhớ Paolo Roberto cũng đã đặt cược vào một sự nghiệp chính trị trong việc ứng cử dân biểu cho Đảng Xã hội Dân chủ. Anh ta dứt khoát phải có một cái gì đó ở trong đầu. Blomkvist thấy mình bắt đầu thích anh ta.
– Tại sao anh lại đến chỗ tôi với những chuyện này?
– Cô gái đang thực sự bị lôi thôi to, đúng không? Tôi không biết làm thế nào nhưng cô ấy chắc có thể cần đến một người bạn.
– Tôi đồng ý.
– Tại sao anh nghĩ cô ấy vô tội?
– Cái này khó nói rõ. Lisbeth hoàn toàn là một người không thỏa hiệp nhưng tôi cứ không tin được chuyện là cô ấy đã có thể bắn Dag và Mia. Đặc biệt Mia. Vì một điều, cô ấy không có động cơ…
– Ít nhất là chả có cái nào mà chúng ta biết được cả.
– Khá là công bằng. Dùng vũ lực chống lại một người đáng bị như thế, chuyện ấy với Lisbeth không có thành vấn đề. Nhưng tôi không biết có ai đáng thế. Tôi đã quyết định thách thức Bublanski. Tôi nghĩ Dag và Mia bị giết là có lý do. Và tôi nghĩ lý do là ở đâu đó trong bài báo mà Dag đang làm dở.
– Nếu anh đúng thì Salander sẽ cần có thêm một tay nữa để nắm lấy khi cô ấy bị bắt. Cô ấy cần toàn bộ một sự giúp đỡ kiểu khác kia.
– Tôi biết.
Mắt Paolo Roberto lóe lên một tia sáng nguy hiểm:
– Nếu cô ấy không vô tội thì cô ấy sẽ phải chịu một tai tiếng pháp lý con mẹ nó tồi tệ nhất trong lịch sử. Báo chí và cảnh sát đã vẽ cô ấy thành ra một tên giết người và sau tất cả những cái khốn nạn viết về cô ấy thì…
– Tôi hiểu.
– Vậy chúng ta làm được gì đây? Tôi có thể giúp như thế nào không?
– Chúng ta giúp tốt nhất là tìm ra đứa nghi can thứ hai. Tôi chính là đang làm chuyện này. Việc tốt tiếp sau đó là tìm thấy cô ấy trước khi một tên ác ôn nào của cảnh sát bắn chết mất cô ấy. Lisbeth không phải là kiểu người tự nguyện đầu hàng.
– Vậy làm sao tìm ra cô ấy?
– Tôi không biết. Nhưng có một điều chúng ta có thể làm. Một điều thực tiễn, nếu anh có thì giờ và nghị lực.
– Bạn gái tôi cả tuần đi vắng. Vậy tôi có thì giờ và nghị lực.
– Tốt, tôi đang nghĩ do anh là võ sĩ quyền Anh…
– Hứ?
– Lisbeth có một bạn gái, Miriam Wu. Chắc anh đã được nghe về cô ấy.
– Được biết đến nhiều hơn là “con ô môi S&M”…
– Tôi có số di động của cô ấy, tôi đang cố liên lạc. Cô ấy dập máy ngay khi nghe nói là phóng viên.
– Chả trách cô ấy được.
– Tôi thực sự không có thì giờ đuổi theo cô Wu. Nhưng tôi đọc thấy ở đâu đó rằng cô ta đang tập bốc Thái. Tôi đang nghĩ nếu một võ sĩ quyền Anh nổi tiếng mà lại muốn tiếp xúc với cô ấy…
– Tôi tán thành anh. Và anh hy vọng cô ta sẽ cho được đầu mối dẫn tới Salander.
– Khi cảnh sát chất vấn cô ấy, cô ấy nói không biết chỗ Salander đang ở hiện nay. Nhưng cũng đáng để ta thử một chuyến xem.
– Cho tôi số của cô ấy. Tôi sẽ cố nói chuyện với cô ấy.
Blomkvist cho số và địa chỉ trên đường Lundagatan.
Bjorck bỏ hết cuối tuần ra phân tích tình cảnh của hắn. Hắn cả quyết tiền đồ của hắn đang treo trên một sợi chỉ mành và hắn phải nhúng tay phần lớn vào cái việc hắn đã xử lý.
Blomkvist là đồ con heo. Vấn đề duy nhất là liệu có thuyết phục được hắn câm mồm… về cái việc Bjorck đã thuê dịch vụ của mấy con điếm kia không thôi. Đây là một vi phạm có thể bị kết án và nếu chuyện ấy vỡ lở ra thì hắn sẽ bị đuổi việc. Báo chí sẽ xé hắn tơi tả. Một thành viên của Cảnh sát An ninh mà khai thác bọn gái điếm mười mấy tuổi… giá như mấy con điếm ấy lại đừng quá trẻ.
Ngồi đây không làm gì thì chắc chắn là buông tay cho số phận định đoạt rồi. Bjorck đủ thông minh để không nói gì cả với Blomkvist. Anh đã đọc được thần sắc hắn. Tên này đang hấp hối. Anh muốn thông tin. Nhưng anh sẽ buộc phải trả giá cho chuyện đó và cái giá là sự im lặng của anh.
Zala đã mang đến một chiều kích mới hoàn toàn cho cuộc điều tra án mạng.
Svensson đang săn lùng Zala.
Bjurman đang săn lùng Zala.
Và chánh thanh tra Bjorck là người duy nhất biết rằng ở giữa Zala và Bjurman, có một mối quan hệ, điều này có nghĩa là Zala là đầu mối dẫn tới các vụ án mạng ở Enskede và Odenplan.
Chuyện này cũng tạo ra một vấn đề nghiêm trọng khác nữa cho tương lai êm ấm của Bjurman. Hắn là người duy nhất đã cho Bjurman thông tin về Zala – như một cử chỉ thân thiện và tuy toàn bộ tập tài liệu vẫn còn là Tối Mật. Đó là chi tiết thôi nhưng có nghĩa là hắn lại dính vào một vi phạm có thể bị kết án khác nữa.
Hơn nữa, do Blomkvist đến gặp hôm Chủ nhật, hắn lại dây thêm vào một vụ án. Hắn là một sĩ quan cảnh sát, có nghĩa rằng nếu có thông tin về một cuộc điều tra án mạng thì nghĩa vụ của hắn là phải thông báo cho các bạn đồng nghiệp biết ngay. Nhưng nếu hắn cho Bublanski hay Ekstrom thông tin thì hắn sẽ không tránh khỏi đã liên lụy đến. Không chỉ có gái điếm mà là toàn bộ vụ việc Zala.
Thứ Bảy hắn đến cơ quan ở Cảnh sát An ninh trên đường Kungsholmen. Hắn nhặt ra và đọc hết các tài liệu cũ về Zalachenko. Hắn là người viết báo cáo nhưng đã nhiều năm về trước rồi. Tài liệu lâu nhất đã gần tới ba chục năm. Cái gần đây nhất là mười năm.
Zalachenko.
Một thằng ngu luồn giỏi như chạch.
Zala.
Chính Bjorck đã gọi hắn như thế trong báo cáo của mình tuy không thể nhớ đã có dùng cái tên ấy hay chưa. Nhưng mối quan hệ thì đã rõ như ban ngày. Tới Enskede. Tới Bjurman. Và tới Salander.
Bjorck vẫn không biết các mảnh ghép của bài đố đã khớp lại vào với nhau như thế nào nhưng hắn nghĩ hắn biết tại sao Salander lại đến Enskede. Hắn cũng có thể dễ dàng tưởng tượng ra Salander đã nổi cơn hung lên mà giết Svensson và Johansson, hoặc vì hai người từ chối hợp tác hoặc vì họ đã khiêu khích cô ta. Cô ta có một động cơ và chỉ mình Bjorck biết hoặc có thể hai ba người khác nữa ở trong cả cái đất nước này.
Con bé hoàn toàn điên loạn, cầu Chúa sao cho một sĩ quan nào đó sẽ bắn chết nó khi nó bị bắt. Nó biết. Nó có thể làm cho tất cả.
Bất kể Bjorck nhìn vào tình cảnh hắn ra sao, thì Blomkvist vẫn là một lối thoát có thể có của hắn. Và đó là điều duy nhất quan trọng với hắn. Hắn cảm thấy ngày một tuyệt vọng, cần phải thuyết phục Blomkvist đối xử với hắn như một nguồn tin thân tín và giữ im lặng về hắn… nhưng chuyến vi vu điên rồ với lũ điếm kia… Khốn kiếp, giá như Salander cũng bắn cho phọt óc Blomkvist ra nhỉ.
Hắn nhìn vào số điện thoại của Zalachenko, cân nhắc nên hay không nên liên hệ với gã. Hắn không sao mà quyết định được.
Blomkvist đã tiến được một bước trong việc thâu tóm lại những suy nghĩ của anh về cuộc điều tra, ở mỗi giai đoạn của nó. Khi Paolo Roberto rời đi, anh bỏ một giờ ra làm công việc này. Anh viết ra một thứ gần như kiểu nhật ký, trong đó anh để cho suy nghĩ của mình tự do tung hoành nhưng đồng thời cũng tỉ mỉ viết lại mọi chuyện trò, mọi gặp gỡ cũng như tất cả điều tra mà anh đang làm. Anh dùng chương trình bảo mật PGP mã hóa tài liệu rồi gửi thư điện tử cho Berger và Eriksson, cập nhật tình hình cho họ.
Svensson đã tập trung vào Zala trong các tuần chót của đời anh. Cái tên Zala đã được anh nhắc tới trong câu chuyện điện thoại cuối cùng với Blomkvist, trước khi Svensson chết hai giờ. Bjorck nói có biết một cái gì đó về Zala.
Blomkvist đã xem hết những gì anh moi ra được về Bjorck, cũng không nhiều lắm.
Gunnar Bjorck, sáu mươi hai tuổi, không vợ, sinh ở Falun. Hai mươi mốt tuổi đã vào lực lượng cảnh sát. Bắt đầu là sĩ quan tuần tra nhưng học luật và được nhấc lên Sapo, Cảnh sát An ninh, khi hắn hai mươi sáu hai mươi bảy. Đó là vào năm 1969 hay 70, đúng lúc chấm hết thời gian Per Gunnar Vinge phụ trách ở đây.
Vinge bị cách chức sau khi tuyên bố trong một lần chuyện trò với Ragnar Lassinanti, hạt trưởng hạt Norrbotten rằng Olof Palme là gián điệp của Liên Xô. Rồi đến vụ Văn phòng Nội vụ, Holmer, Letter Carrier và vụ ám sát Palme, hết tai tiếng này đến tai tiếng khác. Blomkvist không biết trong vòng ba chục năm ở Cảnh sát An ninh Bjorck đã có thể đóng những vai gì ở các chuyện này.
Sự nghiệp hắn ta vào khoảng giữa các năm 1970 và 1985 phần lớn là một quyển sách chưa viết, chuyện này không lạ vì mọi cái liên quan đến hoạt động của Sapo đều là mật. Hắn có thể là đang gọt bút chì trong một bộ phận tĩnh tại hay có thể đã là một nhân viên mật vụ ở Trung Quốc (không chắc lắm).
Tháng Mười 1985, Bjorck chuyển đến Đại sứ quán Thụy Điển ở Washington trong hai năm. Năm 1988, quay về Sapo ở Stockholm. Năm 1996, một nhân vật của công chúng: được đề bạt làm phó văn phòng của Vụ Nhập cư (và bất cứ chuyện gì tiếp theo). Sau 1996, nhiều phát ngôn khác nhau với báo đài, thí dụ liên quan tới việc lưu đày người Ả Rập v.v… Đặc biệt năm 1998, khi vài nhà ngoại giao Iraq bị trục xuất.
Có cái gì ở chỗ này dính dáng đến Salander và các vụ giết Dag Svensson và Mia Johansson không đây? Có lẽ không có gì cả.
Nhưng Bjorck biết gì đó về Zala.
Vì thế phải có mối liên hệ nào đó.
Berger không nói với ai, ngay cả với chồng, người mà chị rất hiếm giữ bí mật, rằng chị sắp sang tờ Svenska Morgon – Posten. Chị còn một tháng ở lại Millennium. Chị bồn chồn thấp thỏm. Ngày cứ trôi vút qua và rồi thình lình cái ngày cuối cùng ở đây chị sẽ đối diện với nó.
Chị cũng thấy không yên tâm hơn với Blomkvist. Chị đã đọc email cuối cùng của anh với một cảm giác suy sụp. Chị nhận ra các dấu hiệu. Hai năm trước chính sự ngoan cố này đã làm cho anh dính vào với Hedestad, và chính lòng quyết tâm dai dẳng này đã cùng anh theo đuổi Wennerstrom. Từ thứ Năm trước Phục sinh, với anh không còn có gì khác nữa ngoài việc tìm ra ai đã giết các bạn của anh và làm sao đó lập lại được sự vô tội của Salander.
Chị có thiện cảm trọn vẹn với mục tiêu của anh – Svensson và Johansson cũng là bạn của chị – nhưng có một khía cạnh ở Blomkvist làm cho chị không thoải mái. Ngửi thấy mùi máu, anh có thể hóa ra tàn nhẫn hẳn.
Từ lúc anh gọi chị hôm kia và bảo chị anh đã thách thức Bublanski rồi bắt đầu tự nhận lấy mình là một chàng cao bồi khốn nạn đầy nam nhi chí thì chị biết trong một tương lai có thể nhìn thấy trước rằng Blomkvist sẽ bù đầu bù tai vì cuộc săn lùng Salander này. Bằng kinh nghiệm chị biết chỉ có thể bàn với anh khi nào anh giải quyết xong vấn đề. Anh sẽ chòng chành giữa hai trạng thái tự bị cuốn hút và thất vọng. Và trong phương trình này anh cũng sẽ nhận lấy ở một chỗ nào đó những rủi ro chắc chắn là hoàn toàn không cần thiết.
Còn Salander. Berger chỉ gặp cô ta một lần và chị không biết nhiều về cô ta để chia sẻ với Blomkvist niềm tin rằng cô ấy vô tội. Nếu Bublanski đúng thì sao? Nếu cô ấy đã có tội thì thế nào? Nếu Blomkvist cố mò ra được chỗ cô ta và cô ta quay ra lại là một người điên loạn mang súng thì sao?
Cả câu chuyện lạ lùng của Paolo Roberto kể sớm hôm nay cũng không làm cho chị yên tâm lên chút nào. Dĩ nhiên điều tốt là ở bên cô ấy không phải chỉ có mình Blomkvist, nhưng Paolo cũng lại là một cao bồi nốt.
Và chị tìm đâu ra người thay chị ở Millennium đây? Nay việc này đang hóa thành cấp bách. Chị nghĩ gọi Malm thảo luận công chuyện với anh ấy nhưng chị không thể nói với anh ấy và chị vẫn phải giữ kín tin đó với Blomkvist.
Blomkvist là một phóng viên xuất sắc nhưng ở ghế Tổng biên tập thì có thể sẽ là tai họa. Ở phía này, chị và Malm giống nhau nhiều hơn nhưng chị không chắc tin được là Malm sẽ nhận lời chị mời. Eriksson còn quá trẻ, chưa đủ tin cậy. Nilsson quá mải mê với việc của mình. Cortez là một phóng viên tốt nhưng cũng thiếu kinh nghiệm. Lorrie Karim thì quá bấp bênh. Và Berger không thể cầm chắc là Malm hay Blomkvist sẽ ưa thích một ai đó được tuyển từ bên ngoài vào. Rối như mớ bòng bong và hoàn toàn không giống một chút nào hết cái cách mà chị muốn kết thúc nhiệm kỳ của mình ở Millennium.
Sáng Chủ nhật Salander mở Asphyxia 1.3 đi vào bản sao ổ cứng của MikBlom/laptop. Anh đang không lên mạng và cô đọc hết các tài liệu mới được đưa vào hai hôm nay.
Cô đọc nhật ký điều tra của Blomkvist và nghĩ anh viết nó chi tiết như thế này thì liệu có phải là vì cô không và nếu vì cô thì nó có ý nghĩa gì đây. Anh biết cô vào máy tính của anh, vậy thì ta có thể tự nhiên mà kết luận rằng anh muốn cô đọc những cái anh viết. Nhưng vấn đề là: những cái anh ấy không viết ra là những gì? Do biết cô vào máy tính của anh ấy, anh ấy có thể thao túng lưu lượng thông tin. Nhân thể cô để ý thấy rõ ràng về thông tin anh không có nhiều hơn Bublanski mà ở đây chỉ là một kiểu thách đấu nào đó về sự vô tội hay có tội của cô mà thôi. Điều này làm cô ớn vì vài lý do. Blomkvist đưa ra kết luận dựa trên cảm tính hơn là trên sự việc. Một chàng ngốc ngây ngô làm sao. Nhưng anh cũng đang nhắm vào Zala. Nghĩ đúng đấy, Kalle Blomkvist.
Nhưng cô hơi ngạc nhiên thấy Paolo Roberto nhào ra sân khấu. Tin hay đấy. Cô mỉm cười. Cô thích anh chàng nhắng ngạo mạn này. Anh ta đàn ông đàn ang đến tận từng đầu ngón tay. Anh ta quen cho cô nếm vài đòn đau điếng những khi họ lên đài gặp nhau. Tức là nói tới những dịp ít ỏi mà anh ta bố trí được.
Rồi khi đọc đến thư mới nhất của Blomkvist gửi Berger, cô ngồi thẳng lên trên ghế.
Gunnar Bjorck. Sapo. Biết về Zala.
Bjorck biết Bjurman.
Mắt Salander loa lóa khi cô ngầm phác ra một hình ba góc Zala, Bjurman, Bjorck. Đúng, thế này thì có ý nghĩa đây. Trước kia cô không nhìn vấn đề từ phối cảnh này. Có thể là Blomkvist dẫu sao cũng không đến nỗi quá cù lần. Nhưng dĩ nhiên anh vẫn chưa làm rõ ra được mối quan hệ này. Bản thân cô cũng chưa tuy về cái điều đã xảy ra, cô hiểu nhiều hơn. Cô nghĩ một lúc về Bjurman và nhận thấy như thế nào đó việc hắn biết Bjorck đã khiến hắn trở thành tảng đá cản đường lớn hơn là cô hình dung trước kia.
Cô cũng nhận thấy cô sẽ phải làm một chuyến đến thăm Smadalaro.
Rồi cô vào ổ cứng của Blomkvist, tạo một tư liệu mới trong thư mục và đặt tên [Góc võ đài]. Lần sau mở máy tính anh sẽ đọc thấy nó.
1. Tránh xa Teleborian ra. Hắn xấu xa.
2. Miriam Wu không dính gì vào đây.
3. Tập trung vào Zala là anh đúng. Hắn ta là chìa khóa. Nhưng anh không tìm ra hắn ở trong bất cứ sổ sách công khai nào đâu.
4. Có một quan hệ giữa Zala và Bjurman. Tôi không biết là gì nhưng tôi đang lần theo hướng này. Bjorck chăng?
5. Quan trọng. Có một báo cáo tai hại về tôi từ tháng Hai 1991 của cảnh sát. Tôi không nhớ số hồ sơ và tôi không tìm ra được nó. Tại sao Ekstrom lại không đưa cái ấy ra cho báo chí? Trả lời: Nó không ở trong máy tính của ông ta. Kết luận: Ông ta không biết về báo cáo đó. Sao lại có thể như thế được?
—–
Nghĩ một lúc cô lại thêm một tái bút.
T.B. Mikael, tôi không vô tội. Nhưng tôi không giết Dag và Mia. Tôi không liên can gì đến việc giết hai người này. Tối hôm ấy tôi đã gặp họ – trước khi án mạng xảy ra – nhưng tôi rời đi khi họ chưa bị làm sao cả. Cảm ơn đã tin tôi. Chào hộ Paolo Roberto và bảo là quả đấm móc trái của anh ấy nó như bún ấy.
T.T.B. Tại sao anh biết chuyện về Wennerstrom kia?
—–
Blomkvist tìm thấy tư liệu của Salander khoảng ba giờ sau đó. Anh đọc từng dòng từng dòng, ít nhất đến năm lần. Lần đầu tiên cô nói rõ cô không giết Dag và Mia. Anh tin cô và cảm thấy nhẹ người ghê gớm. Và cuối cùng thì cô đã nói chuyện với anh, dù bằng mã khóa như vốn dĩ.
Anh cũng nhận thấy cô không chỉ phủ nhận việc giết Dag và Mia mà cô không nói gì đến Bjurman. Blomkvist cho là vì ở trong thư cô chỉ nhắc đến Dag Svensson và Mia Johansson mà thôi. Anh nghĩ một lúc rồi tạo một tư liệu gọi là [Góc võ đài 2].
Chào Sally,
Cảm ơn cô cuối cùng đã cho biết cô vô tội. Tôi tin cô, dù tôi có bị báo đài ồn ào nó tác động và có cảm thấy ngờ ngợ. Xin lỗi. Nghe điều này thẳng từ dàn phím của cô tôi thấy thích. Tất cả còn lại là phải phát hiện ra hung thủ đích thực. Cô và tôi trước kia đã có làm chuyện này. Nếu cô không quá kín như bưng thì sẽ giúp ích được. Tôi cho rằng cô đã đọc nhật ký điều tra của tôi. Vậy thì cô cũng biết như tôi và còn biết cả tôi đang làm gì. Tôi nghĩ Bjorck biết một cái gì đó, tôi sẽ có một cuộc chuyện trò nữa với hắn ta một ngày gần đây. Tôi có đi lầm lõng khi tìm khách của cô gái không? Việc bản báo cáo của cảnh sát làm tôi thấy lạ đấy. Tôi sẽ nhờ bạn đồng nghiệp Malin Eriksson đào vào chỗ này. Lúc ấy cô bao nhiêu tuổi, mười hai, mười ba? Báo cáo về cái gì?
Tôi ghi nhận đầy đủ thái độ của cô về Teleborian.
M.
T.B. Cô đã phạm một lỗi trong cú Wennerstrom. Tôi biết cô làm chuyện đó – ở Sandhamn dạo Giáng Sinh – nhưng không hỏi vì cô không nói đến. Cái lỗi đó là gì tôi không muốn nói với cô, trừ phi cô gặp tôi để uống cà phê.
—–
Lời đáp đến và nói:
Anh có thể quên đám ma cô chăn dắt điếm đi. Zala là đứa duy nhất đáng chú ý. Và một thằng khổng lồ tóc vàng. Bản báo cáo của cảnh sát đáng chú ý ở chỗ hình như có ai đó muốn đem giấu nó đi. Đó không thể là một sự tình cờ được.
Công tố viên Ekstrom ra chiều cáu bẳn khi nhóm của Bublanski gặp nhau để họp buổi sáng thứ Hai. Hơn một tuần lùng kiếm một nghi can có tên tuổi và hình dáng rõ ràng mà không cho ra kết quả. Tính khí cáu bẳn này không khá hơn khi Andersson, người trực suốt tuần qua, nói với ông diễn biến mới nhất.
– Một vụ đột nhập ăn trộm à? – Ekstrom nói, không giấu vẻ sửng sốt.
– Hàng xóm gọi tối thứ Bảy, nói băng niêm phong của cảnh sát dán trên cửa nhà Bjurman bị phá. Tôi đã kiểm tra.
-Thì sao?
– Băng dính bị cắt ở ba chỗ. Chắc là bằng dao cạo hay dao Stanley. Gọn như không. Khó nhìn thấy.
– Vào ăn trộm ư? Có đám cà lơ chuyên sục vào nhà những người đã chết…
– Không phải ăn trộm. Tôi đã đi hết căn hộ xem. Tất cả mọi thứ giá trị, đầu đọc DVD… vẫn còn cả đó. Nhưng chìa khóa xe của Bjurman thì nằm ở trên bàn bếp.
– Chìa khóa xe?
– Thứ Tư Jerker đã ở căn hộ để xem chúng ta có bỏ sót cái gì không, ông ấy cũng có kiểm tra xe. Ông ấy thề là không có một chìa khóa xe nào ở trên bàn bếp khi ông ấy rời đó đi và dán băng niêm phong lại.
– Ông ấy có thể quên mất rồi để nó ở bên ngoài không? Nhân vô thập toàn.
– Jerker không bao giờ dùng cái chìa khóa ấy. Ông ấy dùng cái ở trong chùm chìa của Bjurman, cái chùm chúng ta tịch thu ấy.
Bublanski chĩa cằm ra.
– Vậy thì không phải là một vụ đột nhập bình thường rồi.
– Ai đó đã vào căn hộ của Bjurman đánh hơi nghe ngóng. Chắc là giữa thứ Tư và tối Chủ nhật khi hàng xóm gọi điện thoại.
– Một ai đó tìm một cái gì đó. Cái gì chứ? Jerker?
– Ở đây chả còn lại cái gì có ý nghĩa cả, cái nào khả nghi thì chúng ta đã tịch thu rồi.
– Ít nhất thì cũng là những cái chúng ta đều biết. Động cơ án mạng vậy là vẫn chưa rõ. Chúng ta cho rằng Salander là một người bệnh tâm thần nhưng người bệnh tâm thần thì cũng vẫn cần phải có động cơ chứ.
– Anh gợi ý gì đây?
– Tôi không biết. Có ai đó tìm kiếm trong căn hộ của Bjurman. Câu hỏi thứ nhất: Ai? Câu hỏi thứ hai: Tại sao? Cái chúng ta để sót là gì?
– Jerker, anh thấy sao?
Holmberg thở dài nhẫn chịu:
– OK. Tôi lại soát lại hết căn hộ vậy. Lần này thì với cả nhíp nhổ râu.
Sáng thứ Hai Salander dậy lúc 11 giờ. Cô nằm lơ ma lơ mơ chừng nửa giờ rồi dậy pha cà phê và tắm. Rồi làm ít lót dạ, đoạn ngồi với máy tính xách tay PowerBook để cập nhật một cái có ở trong máy tính của công tố viên Ekstrom và đọc các trang báo mạng. Các vụ án mạng ở Enskede rõ ràng đã bị kém chú ý đi. Rồi cô mở thư mục điều tra của Svensson và đọc kỹ các ghi chép của anh về việc anh gặp nhà báo Per – Ake Sandstrom, tên chăn dắt gái chạy vặt cho đám mafia tính dục và biết một cái gì đó về Zala. Đọc xong, cô rót thêm cà phê cho mình rồi ra chỗ ở bên cửa sổ ngồi nghĩ.
4 giờ chiều thì cô nghĩ đã hòm hòm. Cô cần tiền mặt. Cô có ba thẻ tín dụng. Một cái mang tên cô, do đó mọi ý định sử dụng đều vô ích. Một cái cấp cho Irene Nesser nhưng cô muốn tránh dùng nó vì nếu cô để cho bị nhận diện ra bằng hộ chiếu của Irene Nesser thì nguy hiểm. Một thẻ cấp cho Công ty Vò vẽ thì gắn với một tài khoản chừng ba triệu curon và có thể chuyển tiền qua Internet mà đổ vào đó. Bất cứ ai cũng có thể dùng thẻ nhưng phải khai danh tính.
Cô xuống bếp mở một hộp thiếc đựng bích quy lấy ra một xấp giấy bạc. Cô có 950 curon tiền mặt, khoản tiền không to. May sao cô cũng có 1.800 đôla Mỹ nằm lăn lóc đâu đó từ ngày cô đi du lịch về; cô có thể đổi sang curon mà không cần thẻ căn cước ở quầy đổi tiền Forex. Tìm ra món này làm cô thấy dễ chịu hơn.
Cô đội bộ tóc giả của Irene Nesser lên đầu, ăn mặc lịch sự, lấy một bộ áo quần thay và một hộp đồ trang điểm cho vào chiếc ba lô. Rồi cô lên đường làm chuyến thăm thú thứ hai đến Mosebacke. Cô đi bộ đến Folkungagatan rồi xuống Erstagatan và đến nhà hàng Watski ngay đúng trước giờ đóng cửa. Cô mua băng điện và một bộ puli ròng rọc cùng với tám mét dây thừng.
Cô lên xe bus 66 trở về. Ở Medborgarplatsen cô thấy một người phụ nữ chờ xe. Thoạt tiên cô chưa nhận ra nhưng một còi báo động ở sâu trong đầu cô đã lên tiếng và khi cô ngước nhìn thì người phụ nữ đó là Irene Flemstrom, thư ký quản lý về lương xá của An ninh Miton. Chị ta có một kiểu đầu mới hơn, mốt hơn. Salander lẻn ra khỏi bến xe khi Flemstrom đứng lên. Cô nhìn chị ta, như kiểu thường tình vẫn hay tìm những bộ mặt có thể quen biết. Cô đi bộ qua tòa chung cư hình bán nguyệt đến ga Sodra, lên chuyến xe lên phía bắc.
Thanh tra Modig bắt tay Berger và được mời ngay uống cà phê. Chị nhận thấy tất cả các cốc các vại trong gian bếp nhỏ đều có lôgô và quảng cáo cho các liên hoan chính trị cũng như tổ chức nghề nghiệp.
– Phần lớn những thứ này là của các buổi chiêu đãi trong đêm bầu cử và phỏng vấn. – Berger giải thích, đưa cho Modig một cốc Đảng Thanh niên Tự do.
Modig làm việc ở bàn làm việc cũ của Svensson. Eriksson đề nghị giúp cả trong việc nói rõ sách và bài báo của Svensson thì nói đến chuyện gì lẫn giới thiệu các tài liệu nghiên cứu.
Modig choáng lên với quy mô của tài liệu. Nhóm điều tra đã bực tức vì việc mất máy tính của Svensson và có vẻ như công trình của anh họ chịu bó tay không vào đọc được. Thật ra thì đã có các bản sao của nó và có thể sẵn sàng lấy ra ở bất cứ đâu trong tòa soạn Millennium.
Blomkvist không ở tòa soạn nhưng Berger cho Modig một danh sách các tài liệu mà anh đã lấy ở bàn làm việc của Svensson, những cáỉ chỉ dính đến tên tuổi của các nguồn cung cấp tin. Modig gọi Bublanski giải thích tình hình. Họ quyết định là tất cả các thứ tài liệu ở bàn làm việc của Svensson, kể cả máy tính của Millennium đều phải tịch biên và Bublanski sẽ quay lại với một giấy bảo lãnh nếu xem ra cần phải lục soát thêm những thứ mà Blomkvist đã mang đi. Modig bèn làm một bản kiểm kê các vật tịch biên rồi Cortez giúp chị mang các cái hộp các tông xuống xe của chị.
Tối thứ Hai, Blomkvist thấy hết sức nản. Nay anh đã tìm ra mười tên người mà Svensson định vạch tội. Ở đâu anh cũng gặp phải những người lo lắng, dễ cáu và bị sốc. Anh nhận thấy thu nhập bình quân của họ vào khoảng 400.000 curon một năm. Họ là một nhóm người sướt mướt, sợ sệt.
Nhưng anh cảm thấy không ai trong họ giấu diếm một điều gì đó liên quan đến các vụ án mạng.
Blomkvist mở máy tính xách tay ra xem có thư mới của Salander không. Không có. Trong thư trước cô đã nói đám ma cô chăn dắt gái là không bõ bèn gì để tâm đến và anh đang mất thì giờ với chúng. Anh đói nhưng cũng chả thiết sửa soạn gì để ăn nhẹ buổi tối. Thêm nữa anh chưa mua bán gì đã hai tuần nay, trừ sữa ở cửa hàng góc phố. Anh mặc jacket đi đến quán rượu Hy Lạp trên đường Hornsgatan, gọi một cừu rán.
Trước tiên Salander ngước nhìn lòng cầu thang, đến lúc nhá nhem cô làm hai vòng thận trọng đi quanh các chung cư cạnh đó. Đó là những tòa nhà thấp mà cô ngờ là không có cách âm và không được lý tưởng mấy cho mục đích của cô. Nhà báo Sandstrom sống ở một căn hộ góc nhà trên tầng năm, tầng thượng của chung cư. Rồi cầu thang lên tiếp đến cửa áp mái. Nó phải lên như thế.
Vấn đề là không cửa sổ nào của căn hộ có ánh đèn cả.
Cô đi đến quán pizza cách đó ít phố, gọi một cà phê Hawaii và ngồi xuống một góc đọc báo chiều. Gần 9 giờ cô mua một cà phê latte ở kiốt Pressbyra rồi quay về chung cư. Căn hộ vẫn trong bóng tối. Cô lên cầu thang, ngồi trên bậc đến gian áp mái, ở đấy cô nhìn thấy cửa nhà Sandstrom bên dưới đó nửa tầng. Cô uống cà phê và chờ.
Thanh tra Faste cuối cùng dò ra Cilla Noren, ca sĩ đầu đàn của nhóm thờ Satan Những Ngón tay Ma quỷ của phòng thu Ghi âm Rác rưởi Mới đây ở bên trong một chung cư tại Alvsjo. Đây là cuộc đụng độ có cường độ tương đương với việc người Tây Ban Nha lần đầu tiên gặp người Da đỏ ở vùng Caribbean.
Sau vài mưu toan vô ích ở nhà bố mẹ Noren, Faste đã dò được ra cô ta ở phòng thu, theo cô em cô ta thì cô ta đang ở đấy “giúp cho” sản xuất ra một đĩa CD của ban nhạc Sáp Lạnh của Borlange. Faste không nghe nói đến ban nhạc này bao giờ, nó hình như gồm toàn đám trẻ hai chục tuổi. Vừa bước vào hành lang ông liền vấp phải một bức tường âm thanh, nó làm cho ông ngạt thở lập tức. Ông nhìn Sáp Lạnh qua một cửa sổ và chờ tiếng chát chúa om sòm ngừng lại.
Tóc Noren đen như cánh quạ, có các bím tết màu đỏ và xanh lá cây, mắt thì bôi đen. Đã thiên về ngả mập mạp, cô ta mặc váy ngắn, nịt vú để hở ra một cái cúc xỏ khoen ở bụng. Cô đeo thắt lưng đầy những đinh tán quanh hông và nom giống như một thứ gì từ một bộ phim kinh dị của Pháp đi ra vậy.
Faste giơ thẻ cảnh sát lên, bảo cần nói chuyện với cô ta. Cô vẫn nhai tiếp kẹo cao su, mắt nghi ngờ nhìn ông. Cô chỉ vào một cái cửa rồi dẫn ông vào một thứ như căng tin, ông vướng chân ở đây và suýt ngã xuống một túi rác bị vứt ngay cạnh cửa. Noren cho nước vào một chai nhựa không, uống gần một nửa rồi ngồi xuống một cái bàn, châm thuốc. Hai con mắt xanh lơ sáng sủa cô nhìn ông trừng trừng.
– Ghi âm Rác rưởi Mới đây là gì?
Cô ngán có vẻ như lè cả ra.
– Nó là một công ty ghi âm sản xuất băng nhạc mới.
– Cô là gì ở đây?
– Tôi là kỹ sư âm thanh.
Faste nhìn cô gay gắt.
– Cô có được dạy để làm cái đó không?
– Không. Tôi tự học.
– Cô có sống được nhờ nó không?
– Sao ông hỏi thế?
– Tôi tò mò thôi. Tôi cho là cô đã đọc báo chí mới đây nói về Lisbeth Salander.
Cô ta gật.
– Chúng tôi tin là cô quen cô ta. Đúng không?
– Có lẽ.
– Có lẽ đúng hay có lẽ không đúng?
– Cái này thì là tùy theo ông tìm kiếm chuyện gì.
– Tôi đang tìm một phụ nữ đã gây ra ba vụ án mạng. Tôi muốn thông tin về Lisbeth Salander.
– Từ năm ngoái tôi đã không nghe thấy nói đến Lisbeth rồi.
– Lần cuối cùng thấy cô ta thì ở đâu?
– Đâu như mùa thu hai năm trước. Ở Kvarnen. Nó hay láng cháng ở đó rồi thôi không đến nữa.
– Cô đã thử liên lạc với cô ta chưa?
– Gọi di động cho nó vài lần không được. Máy bị tắt rồi.
– Và cô không có cách tiếp xúc khác nào nữa?
– Không.
– Những Ngón tay Ma quỷ là gì?
Noren nom vẻ thú vị.
– Không đọc báo à?
– Nghĩa là thế nào?
– Họ bảo chúng tôi là một băng của quỷ Satan.
– Cô có như vậy không?
– Trông tôi có ra một đứa thờ Satan không hả?
– Đứa thờ Satan thì nom thế nào?
– Được, tôi không biết ai ngu hơn – cảnh sát hay báo chí.
– Nghe này, cô gái trẻ, đây là một chuyện rất quan trọng.
– Chúng tôi thờ hay không thờ Satan ấy ư?
– Thôi nói nhăng đi mà trả lời câu hỏi.
– Thế câu hỏi là gì chứ?
Faste nhắm mắt một lúc nghĩ đến lần ông gặp cảnh sát ở Hy Lạp trong một dịp nghỉ hè vài năm trước. Lực lượng cảnh sát ở Hy Lạp, dù có những vấn đề của họ, nhưng vẫn có một lợi thế lớn hơn cảnh sát Thụy Điển. Nếu cô gái này cũng trổ thái độ này ra ở Hy Lạp là ông đã có thể bẻ gập cô ấy lại mà táng cho ba gậy. Ông nhìn cô ta.
– Lisbeth Salander có ở trong Những Ngón tay Ma quỷ không?
– Tôi không nghĩ là có.
– Như vậy nên hiểu là như thế nào?
– Lisbeth chắc là người điếc nhạc nhất mà tôi biết.
– Điếc nhạc?
– Nó nói được trumpet khác với trống thế nào nhưng tài năng nhạc của nó chỉ vươn xa đến thế là hết.
– Tôi hiểu. Cô ấy có ở trong băng Những Ngón tay Ma quỷ không?
– Tôi sắp trả lời câu ông hỏi đây. Ông nghĩ Những Ngón tay Ma quỷ là cái quỷ cái ma gì thế kia chứ?
– Cô bảo tôi đi.
– Ông điều tra án mạng bằng cách đọc các bài báo ngu dốt.
– Trả lời vào câu hỏi đi.
– Những Ngón tay Ma quỷ là một băng nhạc rock. Chúng tôi là một lũ con gái thích rock và chơi lấy vui. Chúng tôi quảng cáo cho mình bằng một ngôi sao và một câu ngăn ngắn “Cảm thương Quỷ”. Rồi băng nhạc tan, tôi là người duy nhất còn lại làm việc trong âm nhạc.
– Và như cô nói thì Lisbeth Salander không ở trong đó?
– Như tôi nói.
– Thế tại sao nguồn cấp tin của chúng tôi lại nói cô ấy ở trong ban nhạc ấy?
– Vì nguồn cấp tin cho các ông cũng ngu như báo chí cả ấy mà.
– Cô nói cho nghe một cái gì đó không ngu xem.
– Lũ con gái chúng tôi có năm đứa ở trong ban nhạc, bây giờ chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Xưa thì cứ một tuần một lần ở Kvarnen. Nay thì một tháng. Nhưng vẫn có liên hệ.
– Gặp nhau thì các cô làm gì?
– Ông nghĩ người ở Kvarnen thì làm gì?
Faste thở dài.
– Vậy gặp nhau để uống.
– Chúng tôi thường uống bia. Buôn dưa lê. Khi gặp bạn bè thì ông làm gì?
– Thế Salander sao lại góp mặt vào trong bức tranh ấy?
– Mấy năm trước tôi gặp nó ở KomVux. Nó thỉnh thoảng vẫn ló mặt ở Kvarnen và uống bia với bọn này.
– Vậy thì không thể bảo Những Ngón tay Ma quỷ là một “tổ chức” được.
Noren nhìn ông tựa hồ ông ở một hành tinh khác nào.
– Các cô có là ô môi không?
– Ông có muốn bị một đấm vào mồm không?
– Cứ trả lời đi.
– Chúng tôi là gì thì đâu phải là việc ông.
– Cứ thoải mái. Cô không khiêu khích được tôi đâu.
– Chào chứ? Cảnh sát nói rằng Lisbeth đã giết ba người thế rồi ông đến hỏi về sở thích tình dục của tôi. Ông có thể xéo rồi đấy.
– Tôi kéo cô xéo cùng, cô biết đấy.
– Vì cái gì? Nhân đây, tôi quên bảo ông rằng ba năm nay tôi đang học luật và bố tôi là Ulf Noren của Noren & Knape, công ty luật sư. Sẽ gặp ông tại tòa nha.
– Tôi nghĩ cô làm việc trong kinh doanh âm nhạc.
– Tôi làm cái ấy lấy vui. Ông tưởng tôi kiếm sống bằng nghề này à?
– Tôi không biết cô kiếm sống như thế nào.
– Tôi không kiếm sống bằng việc làm một đứa đồng tính ái nữ thờ Satan, nếu ông nghĩ trong đầu như vậy. Và nếu đây là cơ sở để cảnh sát tìm kiếm Lisbeth thì tôi thấy tại sao ông lại không đi mà tìm nó đi.
– Cô có biết cô ấy ở đâu không?
Noren bắt đầu đung đưa thân trên và cho hai tay buông xuống đằng trước.
– Tôi có thể cảm thấy nó đang ở gần đây… chờ chút, tôi xem pin di động có còn hay không.
– Cô đừng có đánh trống lảng.
– Tôi đã bảo là gần hai năm nay tôi không nghe nói đến nó nữa. Tôi không biết nó ở đâu. Vậy bây giờ nếu không có gì khác nữa thì…
Modig đã bị mắc vào với máy tính của Svensson, chị bỏ cả tối ra xếp loại các nội dung ổ cứng và các đĩa của anh. Chị ngồi đọc quyển sách của anh đến 11 giờ.
Chị nhận ra được hai điều. Thứ nhất, Svensson là một nhà văn xuất sắc, miêu tả thuần túy món kinh doanh tính dục với một tính khách quan thuyết phục. Chị mong anh được đến giảng tại Học viện Cảnh sát – kiến thức của anh sẽ là một bổ sung đáng giá cho giáo trình. Chẳng hạn đến Faste cũng nên trông cậy vào những hiểu biết của Svensson.
Thứ hai là Blomkvist lý sự rằng điều tra nghiên cứu của Svensson có thể đã cung cấp ra một động cơ cho các vụ án mạng, cái lý này của anh rõ ràng là có giá trị. Việc Svensson toan vạch tên các khách chơi điếm ra sẽ có tác động nhiều hơn là chỉ làm tổn thương một số người. Đây là một tiết lộ thô bạo. Một số dân chơi nổi tiếng, vài người trong họ đã từng ban ra các bản nghị án tại các phiên tòa xét xử tội ác tính dục hay tham dự các cuộc thảo luận công khai, sẽ bị xóa bỏ.
Vấn đề là dù một tên ác ôn chăn dắt gái sợ bị lôi ra đã quyết định giết Svensson thì vẫn không có triển vọng về một mối liên hệ như thế với Nils Bjurman. Hắn không nằm trong tài liệu của Svensson nhưng điều đó không những chỉ làm cho lý lẽ của Blomkvist giảm sức mạnh mà còn làm tăng khả năng Salander là nghi phạm số một.
Cho dù động cơ giết Svensson và Johansson vẫn còn chưa rõ nhưng Salander đã ở hiện trường gây án và dấu tay của cô thì ở trên khẩu súng.
Khẩu súng cũng gắn trực tiếp với vụ giết Bjurman. Đã có một quan hệ cá nhân và một động cơ có thể có – chữ xăm trên bụng Bjurman khơi ra khả năng về một hình thức tấn công tính dục nào đó hay về một quan hệ bạo dâm – hành xác giữa hai bên. Không thể tưởng tượng ra là Bjurman đã tự nguyện để cho người ta xăm ông ta theo kiểu kỳ dị và đau đớn như vậy được. Hoặc ông ta tìm thấy khoái cảm trong việc bị làm nhục hoặc Salander – nếu cô ta là người đã xăm – trước tiên đã phải làm cho ông trở thành bất lực. Chuyện ấy thực sự xảy ra như thế nào là một cái gì đó Modig không muốn suy đoán.
Mặt khác, Teleborian đã xác nhận rằng bạo hành của Salander là hướng về những người mà vì lý do nào đó cô ấy coi là một đe dọa hay là kẻ tấn công cô ấy.
Ông ta có vẻ che chở thật tình, tựa như không muốn cho người bệnh cũ của ông sẽ phải nhận lấy một hành hạ nào khác. Cũng thế, cuộc điều tra là dựa rộng rãi trên sự phân tích của ông ta về cô gái – như một người bệnh tâm thần ở bên bờ của tầm thần phân lập.
Nhưng lý lẽ của Blomkvist hấp dẫn.
Chị cắn môi dưới tựa như cố hình dung ra một vài kịch bản khác nhau về Salander tên sát nhân, hoạt động đơn độc. Cuối cùng chị viết một dòng vào sổ tay.
Hai động cơ tách biệt hoàn toàn với nhau? Hai kẻ giết người? Một vũ khí gây án?
Chị mơ hồ cảm thấy chị không thể ghim xuống nhưng đây là một điều gì đó chị muốn hỏi Bublanski ở cuộc họp sáng thứ Hai. Chị không thể giải thích tại sao chị bỗng cảm thấy không yên dạ về cái lý nói Salander là một kẻ giết người hoạt động một mình.
Rồi chị coi như đã hòm hòm công việc và dứt khoát tắt máy tính, khóa các đĩa trong ngăn kéo bàn làm việc của chị. Chị mặc jacket, tắt đèn bàn và sắp khóa cửa buồng giấy thì nghe thấy một tiếng động từ cuối hành lang. Chị cau mày. Chị đã ngỡ chỉ có mình chị ở trong vẫn phòng, chị đi dọc hành lang đến buồng giấy Faste. Cửa buồng ông mở hé và chị nghe thấy ông đang nói điện thoại.
“Không chối được là cái đó gắn các việc lại với nhau”, chị nghe ông ta nói.
Chị đứng phân vân một lúc rồi hít một hơi dài, gõ vào thành cửa. Faste ngạc nhiên ngước lên nhìn. Chị hơi lảo đảo.
– Modig vẫn còn ở cơ quan. – Faste nói vào điện thoại. Ông nghe và không ngừng chăm chú nhìn Modig. – OK. Tôi sẽ bảo chị ấy. – Ông gác máy. – Bong bóng gọi. – Ông nói để giải thích. – Chị muốn gì?
– Cái gắn mọi việc lại với nhau là gì? – Chị hỏi.
Ông ta nhìn chị dò xét.
– Chị nghe trộm à?
– Không, nhưng cửa buồng ông mở và tôi gõ đúng vào lúc ông nói thế.
Faste nhún vai.
– Tôi gọi Bublanski bảo ông ấy là cuối cùng thì FNL cũng đã làm được một cái gì có ích.
– Cái gì vậy?
– Svensson có một di động với thẻ sim Comviq trả bằng tiền mặt. Họ cho một danh sách các cuộc gọi và qua đó xác nhận câu chuyện nói với Mikael Blomkvist lúc 8 giờ 12 tối. Đó là lúc Blomkvist ăn tối ở nhà cô em gái.
– Tốt. Nhưng tôi nghĩ Blomkvist không có liên can gì đến các vụ án mạng.
– Tôi cũng không. Nhưng đêm ấy Svensson có gọi một lần nữa. Lúc 9 giờ 34. Gọi lâu ba phút.
– Rồi?
– Anh ta gọi điện thoại đến nhà Nils Bjurman. Nói cách khác, có một liên hệ giữa hai vụ án mạng.
Modig buông mình xuống chiếc sofa của khách trong buồng Faste.
– Tốt. Ngồi đi. Hãy là khách của tôi.
Chị lờ.
– OK. Khung thời gian nom nó ra sao đây? Ngay sau 8 giờ Svensson gọi Blomkvist hẹn gặp nhau khuya đêm hôm ấy. 9 rưỡi, Svensson gọi Bjurman. Trước giờ đóng cửa, Salander mua thuốc lá ở cửa hàng góc phố trên đường Enskede. Ngay sau 11 giờ, Blomkvist và cô em gái đến Enskede rồi 11 giờ 11 thì gọi xe cứu thương.
– Nghe chừng đúng đấy chứ.
– Nhưng không hề đúng chút nào cả. Theo bác sĩ bệnh học, Bjurman bị bắn đêm hôm ấy vào giữa 10 và 11 giờ. Vào lúc ấy, Salander đã ở Enskede. Chúng ta đang làm việc trên cơ sở cho rằng Salander bắn Bjurman trước rồi đến hai người kia ở Enskede.
– Cái đó không nói lên điều gì. Tôi đã lại nói chuyện với bác sĩ bệnh học. Cho tới tận đêm hôm sau chúng ta mới tìm thấy Bjurman, muộn hơn gần hai mươi tư giờ. Bác sĩ bệnh học nói thời gian chết có thể trước hay sau trong vòng một giờ đồng hồ.
– Nhưng Bjurman phải là nạn nhân đầu tiên vì chúng ta tìm thấy vũ khí ở Enskede cơ mà. Như thế có nghĩa là cô ta bắn Bjurman vào khoảng sau 9 giờ 34 rồi lái xe về Enskede mua thuốc lá. Có đủ thì giờ để đi từ Odenplan đến Enskede không?
– Có, có chứ. Cô ấy không đi xe công cộng như lúc đầu chúng ta cho là thế. Cô ấy có xe. Sonny Bohman và tôi đã lái thử con đường và chúng tôi có thừa thì giờ.
– Nhưng vậy thì cô ấy đã chờ một tiếng đồng hồ trước khi bắn Svensson và Johansson ư? Cả một giờ ấy cô ấy làm gì?
– Uống cà phê. Chúng ta có dấu tay cô ấy trên tách cà phê.
Ông đắc thắng nhìn chị. Modig thở dài, ngồi im một lúc.
– Hans, ông nhìn vào chuyện này kiểu như nó là một thứ tên tuổi với uy tín. Ông có thể là một tay xấu chơi, hay làm cho người ta phát cáu nhưng tôi gõ cửa đây là để xin ông thứ lỗi cho việc tôi đã tát ông. Tôi không bình tĩnh.
Ông nhìn Modig hồi lâu.
– Modig, chị có thể nghĩ tôi là một tay xấu chơi. Nhưng tôi nghĩ chị là không có nghề và không có cái chất để làm sĩ quan cảnh sát, ít nhất thì không ở trình độ này.
Modig cân nhắc nhiều câu trả lời nhưng cuối cùng chị chỉ nhún vai rồi đứng dậy.
– Được, bây giờ chúng ta biết chúng ta đứng ở đâu. Và xin tin tôi, ông sẽ không ở đây lâu được đâu.
Modig đóng cửa mạnh hơn là chị muốn. Đừng để cho thằng cha ba láp này hắn dây vào mình.
Chị xuống ga ra xe.
Faste toại nguyện mỉm cười với cánh cửa đóng.
Blomkvist sắp về nhà thì di động gọi.
– Chào. Malin đây. Nói chuyện được không?
– Chắc chắn rồi.
– Hôm qua có một cái làm tôi ngạc nhiên.
– Nói xem.
– Tôi đang đọc hết các báo dán của chúng ta ở đây trong việc săn tìm Salander thì tôi tìm được quãng thời gian cô ấy ở bệnh viện tâm thần. Điều tôi nghĩ ngợi là: tại sao lại có một quãng trống lớn như thế ở trong tiểu sử của cô ấy?
– Quãng trống nào?
– Có nhiều cái về chuyện lôi thôi mà cô ấy dính phải khi còn học ở trường. Lôi thôi với thầy cô, với bạn học và vân vân.
– Tôi nhớ chuyện ấy. Có một cô giáo còn nói sợ Salander khi cô ấy mười một tuổi cơ mà.
– Birgitta Miaas.
– Chính thế đấy.
– Rồi có những chi tiết về Lisbeth lúc ở bệnh viện tâm thần. Còn một lô các chuyện về các gia đình đỡ đầu cô ấy lúc cô ấy mười mấy tuổi và về cuộc tấn công ở Gamla Stan.
– Vậy cô nghĩ sao?
– Cô ấy bị đưa vào bệnh viện đúng trước hôm sinh nhật lần thứ mười ba. Rõ ràng nếu một người mười hai tuổi bị can phạm thì đã phải xảy ra một cái gì đó chứ. Trong trường hợp Lisbeth thì phần lớn lại chỉ có vẻ là những cơn hung hăng đã được nói ra trong tiểu sử cô ấy. Nhưng ở đây lại không có gì hết sất cả.
Blomkvist cau mày.
– Malin, từ một nguồn tôi có cái này và tôi tin là có một báo cáo của cảnh sát về Lisbeth viết từ tháng Hai năm 1991, khi cô ấy mười hai tuổi. Nó không ở trong hồ sơ. Tôi đang định nhờ cô đào quanh chỗ đó xem sao.
– Nếu có báo cáo ấy thì nó phải là một bộ phần nằm trong hồ sơ về Lisbeth chứ. Không có nó ở đây là phạm vào luật mất rồi. Anh đã thực sự kiểm tra chưa?
– Chưa, nhưng nguồn tin của tôi nói nó không nằm trong hồ sơ.
Eriksson ngừng một lúc.
– Nguồn tin ấy đáng tin cậy đến đâu?
– Rất.
Cùng lúc Blomkvist và Eriksson đi đến kết luận như nhau.
– Sapo. – Eriksson thốt lên.
– Bjorck. – Blomkvist nói.