Thứ Tư, 6 tháng Tư
Thứ Năm, 7 tháng Tư
Salander giận run cả lên. Sáng hôm ấy cô yên bình thanh thản đến căn nhà nghỉ hè của Bjurman. Cô chưa mở di động từ đêm trước và cả ngày cô không có cơ hội nghe tin. Cô có phần nào ngóng tin đưa về vụ việc ở Stallarholmen nhưng với cơn bão mà cô gặp phải trên tin tivi thì hoàn toàn không ngờ tới.
Bị một gã khổng lồ bắt cóc ở bên ngoài nhà cô tại đường Lundagatan rồi bị hắn hành hung và gây thương tích, Miriam Wu đang nằm ở bệnh viện Soder. Tình trạng cô được tả là nghiêm trọng.
Cô đã được cựu võ sĩ quyền Anh nhà nghề Paolo Roberto cứu. Không nói rõ vì sao ông lại đến căn nhà kho ở Nykvarn. Ông bị các phóng viên quây kín khi ở bệnh viện ra nhưng ông không muốn bình luận gì cả. Mặt ông nom như vừa mới trải qua mười hiệp đấu với hai bàn tay trói giật ra đằng sau.
Đã tìm thấy hai cái xác chôn ở trong rừng gần nơi Miriam Wu bị tấn công. Nghe nói cảnh sát đang đào cái huyệt thứ ba và có lẽ chưa phải là cái cuối cùng.
Rồi có chuyện tìm kiếm Lisbeth Salander chạy trốn.
Lưới bủa vây, như họ nói, đang thít chặt. Hôm ấy cảnh sát đã vây kín vùng lân cận với Stallarholmen. Cô gái có vũ khí và nguy hiểm. Cô gái đã bắn bị thương một, có thể là hai, tay xe máy Thiên thần Địa ngục. Trận náo loạn diễn ra ở căn nhà mùa hè của luật sư đã bị giết chết Nils Bjurman. Đến tối cảnh sát đã sẵn sàng chấp nhận rằng cô gái có lẽ đã tìm được cách thoát khỏi vòng vây.
Ekstrom đã họp báo. Ông trả lời mập mờ. Vâng, ông không nói liệu Salander có chuyện gì với các Thiên thần Địa ngục hay không. Vâng, ông không thể xác nhận tin đồn nói đã trông thấy Salander ở căn nhà kho tại Nykvarn. Vâng, không có gì cho thấy đây là chiến tranh của các băng nhóm ngầm. Vâng, không thể khẳng định chỉ một mình Salander chịu trách nhiệm về các vụ án mạng ở Enskede. Cảnh sát hiện đang tìm cô gái cốt để hỏi về hoàn cảnh của các vụ án mạng.
Salander cau mày. Điều tra của cảnh sát đã có một cái gì đó thay đổi.
Cô vào mạng, đọc trước hết các tường thuật của báo chí rồi vào ổ cứng của Ekstrom, Armansky và Blomkvist.
Email của Ekstrom có mấy lời nhắn lý thú, đặc biệt một nhắc nhở của Jan Bublanski gửi lúc 5 giờ 22 chiều. Thư điện tử này phê bình gay gắt cách quản lý cuộc điều tra sơ bộ của Ekstrom. Nó kết thúc với điều có thể coi như một tối hậu thư. Bublanski yêu cầu (a) phục hồi ngay lập tức và có hiệu lực công tác của thanh tra Modig; (b) định hướng lại tâm điểm của cuộc điều tra nhằm khai thác các giải pháp khác nữa cho hai vụ án mạng ở Enskede; và (c) cuộc điều tra cần tìm kiếm ngay lập tức một nhân vật chỉ mới được biết là Zala.
Các lời buộc tội Salander chỉ dựa vào một chứng cứ trực tiếp duy nhất – vân tay của cô gái in trên vũ khí gây án. Điều này, tôi xin nhắc ông, là chứng cứ rằng cô gái đã cầm vào vũ khí nhưng không là chứng cứ rằng cô ta đã bắn nó và càng không phải là bằng chứng rằng cô đã bắn các nạn nhân của vụ án mạng.
Nay chúng ta biết đã có các vai diễn khác dính líu vào. Cảnh sát Sodertalje đã tìm thấy (cho tới nay) hai xác người trong các mộ nông ở gần một căn nhà kho do một người anh em họ của Carl – Magnus Lundin sở hữu. Rút lại, không thể quan niệm nổi rằng Salander đã góp phần vào các cái chết này, tuy cô ta hung bạo và có bất kỳ chuyện gì ở trong lĩnh vực tâm lý.
Kết thúc Bublanski nói nếu yêu cầu của ông không được thỏa mãn, ông sẽ rời nhóm điều tra, và ông không có ý cho im ắng việc rời đi này. Ekstrom đáp lại là Bublanski thấy thế nào là tốt nhất thì cứ làm.
Ở ổ cứng của Armansky, Salander còn có được thông tin ngạc nhiên hơn nữa. Một trao đổi cụt lủn thư điện tử với phòng lương của Milton cho thấy Niklas Hedstrom đã rời công ty, có hiệu lực ngay tức thì. Anh ta sẽ được tiền nghỉ lễ và ba tháng trợ cấp cắt hợp đồng thuê mướn. Một email đến cho giám đốc trực nói rằng nếu Hedstrom quay lại cơ quan thì cơ quan sẽ cho người đi kèm anh ta đến bàn làm việc để lấy đồ đạc cá nhân rồi lại đi kèm ra ngoài. Một thư điện tử cho phòng kỹ thuật nói cần phải hủy thẻ chìa khóa từ của Hedstrom.
Nhưng thú vị nhất là trao đổi giữa Armansky và luật sư của An ninh Milton, Frank Alenius. Armansky hỏi trong trường hợp Salander bị bắt tạm giam thì làm thế nào đại diện được tốt nhất cho cô ấy. Alenius trả lời rằng Milton không có lý do nào mà lại đi dính vào một nhân viên cũ từng gây ra án mạng, việc ấy sẽ gây điều không hay cho An ninh Milton là công ty bị dây dưa vào chuyện đó. Armansky đáp cộc lốc lại rằng việc Salander dính líu vào bất cứ vụ án mạng nào vẫn là một câu hỏi để ngỏ và ông muốn ủng hộ một cựu nhân viên ông coi là vô tội.
Salander phát hiện Blomkvist không vào máy tính từ sớm hôm qua. Vậy là không có tin.
Bohman để tập hồ sơ lên bàn làm việc của Armansky. Ông nặng nề ngồi xuống. Fraklund mở ra đọc. Armansky đứng bên cửa sổ nhìn ra Gamla Stan.
– Đây là bản báo cáo cuối cùng tôi nộp. Tôi đã bị đá ra khỏi cuộc điều tra. – Bohman nói.
– Không, không phải lỗi của ông. – Armansky nói rồi ngồi xuống.
Ông đã để thành một chồng ở trên bàn họp tất cả tư liệu mà Bohman cung cấp trong hai tuần qua.
– Tôi đã nói chuyện với Bublanski. Ông làm tốt công việc đấy, Sonny. Mất ông, ông ta tiếc nhưng ông ấy không thể chọn lựa được vì Hedstrom.
– Chuyện đó OK thôi. Tôi nhận thấy ở đây, ở Milton này, tôi làm việc tốt hơn ở Kungsholmen dưới đó.
– Ông có thể cho chúng tôi một bản tóm lược không?
– Được, nếu mục tiêu là tìm Lisbeth Salander thì rõ ràng là chúng ta đã thất bại. Đây là một cuộc điều tra rất loạn gồm một số người ganh đua nhau và Bublanski thì không được toàn quyền kiểm soát cuộc tìm kiếm.
– Hans Faste…
– Faste đúng là thằng cha phá bĩnh. Nhưng vấn đề không phải là Faste và một cuộc điều tra luộm thuộm. Bublanski trông coi cho họ đều đem hết khả năng ra lần theo mọi đầu mối. Sự thật là Salander như ma giỏi che giấu tung tích.
– Nhưng việc của ông không phải chỉ có là tóm Salander.
– Đúng, tôi cảm ơn ông đã không bảo cho Hedstrom biết nhiệm vụ nữa của tôi là làm tay trong cho ông và trông nom cho Salander không bị kết tội bậy.
– Thế hôm nay ông nghĩ sao?
– Lúc mới bắt đầu thì tôi tin là cô ấy có tội. Hôm nay thì dù gì tôi cũng không chắc chắn. Quá nhiều cái không ăn khớp…
– Thế?
– À, tôi không còn coi cô ấy là nghi phạm số một nữa. Tôi ngày càng ngả về nghĩ rằng có một cái gì đó trong lập luận của Blomkvist.
– Nó có nghĩa là chúng ta phải nhận diện và tìm ra các tên giết người. Chúng ta có nên bắt đầu lại cuộc điều tra không? – Armansky nói và rót cà phê.
Salander có một đêm tồi tệ nhất trong đời. Cô nghĩ tới lúc cô ném quả bom xăng vào xe của Zalachenko. Lúc hết cơn ác mộng, cô thấy trong lòng êm ả vô cùng. Cô có các vấn đề khác nữa nhưng chúng luôn dính đến cô và cô có thể xử lý được. Bây giờ thì là vấn đề về Mimmi.
Mimmi đã bị đánh và phải nằm bệnh viện. Cô ấy vô tội. Cô ấy chả liên can gì đến chuyện này. Tội duy nhất của cô ấy là quen biết Salander.
Cô tự rủa mình. Những cảm nghĩ có tội với bạn cắn rứt cô. Cô đáng nhận lấy mọi trách móc. Địa chỉ của cô bí mật, cô đang an toàn. Rồi cô thuyết phục Mimmi đến sống ở nhà cô, tại cái địa chỉ bất cứ ai cũng tìm ra thấy kia.
Sao cô lại vô ý vô tứ như thế chứ? Bản thân cô cũng đáng bị đánh nốt.
Cảm thấy đau khổ quá cô ứa nước mắt. Song Salander không bao giờ khóc. Cô lau nước mắt.
10 giờ rưỡi, cô bồn chồn đến nỗi không thể ở trong nhà. Cô mặc áo khoác ngoài và đi bốt lên đường vào trong đêm tối, cô cuốc bộ xuống các phố bên trong cho tới lúc đến Ringvagen thì đứng ở cuối đường xe lượn vào bệnh viện Soder. Cô muốn đến phòng Mimmi đánh thức bạn dậy nói cho hay là mọi sự đều ổn cả. Rồi cô trông thấy ánh đèn xanh của xe cảnh sát ở gần Zinken thì rẽ vào một lối đi phụ để tránh bị nhìn thấy.
Ngay sau nửa đêm cô đã lại ở nhà. Rét cóng nên cô cởi quần áo bò toài lên giường. Cô không ngủ nổi. 1 giờ sáng, cô lại trở dậy, trần truồng đi trong căn hộ không bật đèn. Cô vào trong phòng ngủ để sẵn dành cho khách, ở đó có một cái giường và một bàn làm việc. Cô chưa bao giờ đặt chân vào đây. Cô ngồi xuống sàn, tựa lưng vào tường, nhìn đăm đăm vào bóng đêm.
Lisbeth Salander có một phòng ngủ để không. Trêu nhau thật.
Cô ngồi ở đó cho tới 2 giờ sáng, lúc đó cô lạnh run lên cầm cập. Rồi cô lại bắt đầu khóc.
Trời sắp sáng, Salander tắm và mặc quần áo. Cô mở máy pha cà phê, làm bữa lót dạ, rồi bật máy tính. Cô vào ổ cứng của Blomkvist.
Cô ngạc nhiên thấy anh không cập nhật nhật ký điều tra, cô bèn mở thư mục . Có một tư liệu mới mang đề [Lisbeth – QUAN TRỌNG]. Cô xem đặc tính tư liệu. Nó được tạo ra lúc 12 giờ 52 sáng. Cô nháy chuột hai cái.
Lisbeth, liên hệ ngay với tôi. Chuyện này tồi tệ hơn là tôi có thể hình dung. Tôi biết Zalachenko là ai và tôi nghĩ là tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi đã nói chuyện với Holger Palmgren. Tôi đã biết vai trò của Teleborian cũng như tại sao họ lại nhốt cô vào bệnh viện. Tôi nghĩ tôi đã biết ai giết Dag và Mia. Tôi cũng nghĩ tôi biết vì sao lại giết nhưng tôi đang thiếu một số tin thông tin cốt tử. Tôi không hiểu vai trò của Bjurman. HÃY GỌI TÔI! LIÊN HỆ NGAY VỚI TÔI. CHÚNG TA CÓ THỂ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC CHUYỆN NÀY. Mikael.
Salander thong thả đọc lại tư liệu. Blomkvist nhắng đã bận đây. Con lợn Tháo vát. Con lợn tháo vát chết giấp. Anh vẫn nghĩ có một cái gì cần phải giải quyết.
Anh có ý tốt. Anh đã muốn giúp. Anh không biết dù xảy ra chuyện gì thì đời cô cũng đã là xong.
Nó chấm hết trước cả khi cô mười ba tuổi.
Chỉ có một giải pháp.
Cô tạo một tư liệu mới, thử viết một hồi âm nhưng các ý nghĩ cứ quay cuồng trong đầu cô mà cô thì có quá nhiều điều muốn nói với anh.
Salander đang yêu chứ kìa. Trêu nhau thật.
Anh sẽ không thấy ra đâu. Cô sẽ không bao giờ cho anh toại nguyện.
Cô xóa tư liệu, nhìn đăm đăm vào màn hình trống không.
Nhưng anh không đáng nhận lấy im lặng hoàn toàn. Anh đã tin tưởng đứng ở bên cô như một chú lính chì kiên định.
Cô tạo một tư liệu mới và viết:
Cảm ơn đã là bạn của tôi.
Trước hết cô phải có một vài quyết định về hậu cần. Cô cần phương tiện đi lại. Dùng chiếc Honda màu vang chát vẫn để ở Lundagatan thì hấp dẫn nhưng xin miễn cho. Trong máy tính xách tay của công tố viên Ekstrom không có dấu hiệu cho thấy ai ở trong nhóm cảnh sát điều tra biết cô đã mua xe, điều này là có thể vì cô chưa tìm cách nộp hồ sơ đăng ký cùng giấy tờ bảo hiểm. Nhưng khi cảnh sát thẩm vấn Mimmi có thể đã nói đến chiếc xe và rõ ràng là Lundagatan thì vẫn bị bất chợt theo dõi.
Cảnh sát biết cô có một xe máy nhưng lấy nó ra khỏi chỗ để xe trong chung cư các căn hộ thì lại còn phiền phức hơn. Ngoài ra sau một số ngày giống như mùa hè, người ta đã dự báo thời tiết thay đổi và cô thì không hám lắm chuyện phóng xe máy trên xa lộ trơn láng nước mưa.
Dĩ nhiên có khả năng khác là thuê một xe với tên Irene Nesser nhưng như thế vẫn có những rủi ro liên quan đến chuyện thuê. Một ai đó có thể nhận ra cô và cô sẽ bị lấy mất căn cước giả. Sẽ là một tai họa; nó là con đường cô chạy trốn ra nước ngoài.
Rồi cô mỉm cười với mình. Có một khả năng nữa. Cô mở máy tính, vào mạng lưới An ninh Milton, dịch chuyển đến bãi xe do một văn phòng ở trong khu vực tiếp tân của An ninh Milton quản lý. An ninh Milton có trong tay gần bốn chục xe, một số chiếc mang logo của công ty dùng cho các chuyến đi công cán. Đa số là xe theo dõi không đánh dấu, để trong ga ra ở trụ sở chỉ huy của An ninh Milton gần Slussen. Thực tế ở ngay góc phố.
Nghiên cứu hồ sơ nhân sự, cô chọn nhân viên Marcus Collander, người vừa đi nghỉ hai tuần. Ông ta để lại số điện thoại của một khách sạn ở Quần đảo Canary. Cô đổi tên khách sạn và đảo rối lên con số điện thoại của cái nơi có thể liên hệ với ông. Rồi cô vào một thư ngắn nói việc làm cuối cùng của Collander là cho xuất một xe đi làm dịch vụ. Cô nhặt một chiếc Toyota Corolla tự động cô đã lái trước đây rồi ghi lại rằng nó sẽ được trả lại tuần sau.
Cuối cùng cô vào hệ thống kiểm soát, lập lại chương trình camera mà cô có thể đi qua. Giữa 4 rưỡi và 5 giờ các camera này sẽ cho chiếu lại cảnh của nửa giờ trước nhưng thời gian mã hóa đã bị thay đổi.
4 giờ 15, cô đóng đồ đạc vào ba lô. Hai bộ quần áo thay đổi, hai bình xịt Mace và khẩu súng bắn điện vừa sạc đầy. Cô nhìn hai khẩu súng lục cô tước được. Cô bỏ khẩu Colt 1911 Government của Sandstrom mà lấy khẩu Wanad P – 38 của Ba Lan đã bị thiếu một viên ở kẹp đạn. Nó mảnh hơn và vừa với bàn tay cô hơn. Cô để nó vào trong túi jacket.
Salander đóng máy tính xách tay PowerBook nhưng để máy tính ở trên bàn. Cô đã chuyển nội dung ổ cứng của cô sang một bản lưu mã hóa ở trên mạng rồi xóa hết ổ cứng bằng một chương trình cô viết lấy, nó bảo đảm đến ngay cô cũng không dựng lại được nội dung đã xóa. Cô không muốn ỷ vào chiếc PowerBook, tha nó theo sẽ vướng. Cho nên cô mang chiếc Palm Tungsten PDA theo.
Cô nhìn quanh khắp buồng giấy. Cô có cảm giác sẽ không quay về căn hộ ở Mosebacke và biết rằng mình đang để lại ở sau lưng những bí mật mà lẽ ra cô đã nên hủy. Nhưng nhìn đồng hồ cô biết mình không có nhiều thì giờ. Cô tắt đèn bàn làm việc.
Cô đi bộ đến An ninh Milton, vào ga ra xe, lên thang máy vào các văn phòng hành chính. Cô không gặp một ai trong hành lang trống không, và không chút khó khăn cô lấy các chìa khóa xe ở trong tủ phòng tiếp tân không khóa ra.
Nửa phút sau cô đã ở ga ra xe, bấm “bíp” mở khóa cửa chiếc Corolla. Cô ném ba lô vào ghế khách, chỉnh lại ghế người lái và kính chiếu hậu. Cô mở cửa ga ra xe bằng chìa khóa thẻ từ cũ. Đúng trước 5 giờ, cô đến Soder Malarstrand ở Vasterbron. Trời bắt đầu sáng.
Blomkvist dậy lúc 6 giờ rưỡi. Anh không để đồng hồ báo thức và mới chỉ ngủ có ba giờ. Anh dậy bật máy tính xách tay và mở thư mục để xem cô trả lời:
Cảm ơn đã là bạn của tôi.
—–
Blomkvist cảm thấy lạnh rợn xương sống. Không là câu đáp anh mong chờ. Mà như một lá thư vĩnh biệt. Một mình Salander chống chọi lại với thế giới. Anh vào bếp mở máy pha cà phê, rồi tắm. Anh mặc một jean cũ và nhận ra đã một tuần anh không giặt quần áo. Anh không có sơ mi sạch. Anh mặc một sơ mi dệt kim màu vang đỏ ở dưới jacket xám.
Khi làm bữa lót dạ ở trong bếp, anh bất chợt thấy một ánh kim loại trên quầy sau lò vi song. Anh lấy dĩa khều ra một chùm chìa khóa.
Chùm chìa khóa của Salander. Anh thấy chúng sau cuộc tấn công trên đường Lundagatan rồi để chúng lên trên lò vi sóng cùng với chiếc túi khoác vai của cô. Anh quên không đưa chúng cho thanh tra Modig cùng với cái túi khoác vai và chắc chúng đã rơi từ chiếc túi đó ra.
Anh nhìn chùm chìa khóa hồi lâu. Ba cái to và ba cái nhỏ. Ba cái to thì chắc một để mở cửa ra vào chung cư, một cho căn hộ, và một khóa vòng. Căn hộ của cô. Rõ ràng không phải căn hộ ở Lundagtan. Vậy cô đã sống ở chỗ của nợ nào đây?
Anh xem kỹ hơn ba chìa khóa nhỏ. Một chắc là của chiếc Kawasaki. Một nom có vẻ của một két an toàn hay một tủ chứa đồ. Anh cầm chiếc khóa nhỏ thứ ba lên. Trên nó có in con số 24914. Anh giật mình nhận ra là có chuyện gì.
Một bưu cục. Một hòm thư. Lisbeth Salander có một hòm thư bưu cục.
Anh tìm trong danh bạ điện thoại các trạm bưu điện ở Sodermalm. Cô đã sống ở Lundagatan. Ringvagen thì quá xa. Có lẽ Homsgatan. Hay Rosenlundsgatan.
Anh tắt máy pha cà phê, bỏ ăn lót dạ, lái chiếc BMW của Berger đến Rosenlundsgatan. Chiếc chìa không vừa. Anh lái đến Hornsgatan. Chiếc chìa vừa khuýp vào hộp thư số 24914. Anh mở nó ra và thấy hai mươi hai món thư tín và anh nhét cả vào ngăn ngoài của túi đựng máy tính xách tay.
Anh lái tiếp đến Hornsgatan, đỗ xe ở gần rạp xi nê Kvarter, ăn lót dạ ở nhà hàng Copabacana trên đường Bergsundsstrand. Trong khi chờ cà phê latte, anh xem từng bức thư một. Tất cả đều gửi tới Công ty Vò vẽ. Chín thư gửi từ Thụy Sĩ, tám từ Quần đảo Cayman, một từ Quần đảo Channel và bốn từ Gibraltar. Lương tâm chả hề cắn rứt, anh xé toạc các phong bì. Hai mươi mốt cái đầu tiên đựng các xác nhận của ngân hàng và báo cáo về các tài khoản cùng quỹ tiền khác nhau. Salander giàu như chú lùn ranh mãnh trong thần thoại.
Bức thư thứ hai mươi hai dầy hơn. Địa chỉ viết tay. Phong bì có in một logo và địa chỉ gửi đi là Nhà Buchanan, Ke Queensway, Gibraltar. Thư bên trong có tiêu đề của một cố vấn pháp luật, Jeremy S. MacMillan. Chữ ông viết gọn rõ.
Cô Salander,
Thư này là để xác nhận việc chi trả đúng hạn cho bất động sản của cô đã được hoàn tất ngày 2 tháng Một. Như đã thỏa thuận, tôi gửi kèm đầy các bản sao của tất cả các tài liệu còn bộ gốc thì tôi xin giữ. Tôi tin rằng cô được hài lòng với việc này.
Cho tôi nói thêm rằng tôi hy vọng mọi điều đều tốt đẹp với cô. Tôi rất vui được cô đột ngột đến gặp hồi mùa hè vừa rồi và tôi cần phải nói tôi hân hạnh được giao tiếp với cô. Tôi trông chờ, như là điều tất yếu, được tiếp tục phục vụ cô.
Chân thành,
J.S.M.
Bức thư đề ngày 24 tháng Một. Có vẻ Salander rất không hay mở hòm thư. Blomkvist nhìn các tài liệu đính theo về việc mua một căn hộ ở một chung cư tại Fiskargatan 9 ở Mosebacke.
Rồi anh suýt sặc cà phê. Giá căn hộ là hai mươi lăm triệu curon, và vụ mua bán được thanh toán trong một năm với hai lần chi trả riêng rẽ.
Salander nhìn một người đàn ông tóc đen, chắc nịch mở khóa cánh cửa hông của Chuyên môn – Ôtô ở Eskilstuna. Đây là một gara xe, một cửa hàng sửa chữa, một hãng cho thuê xe. Một chỗ kinh doanh hợp pháp điển hình. Đang là 6 giờ 50 và theo một giấy viết tay ở trên cửa chính thì đến 7 giờ rưỡi cửa hàng mới mở. Cô qua đường theo sau người đàn ông đi lối cửa hông vào trong tiệm. Ông ta nghe thấy cô bèn quay lại.
– Refik Alba?
– Vâng, cô là ai? Tôi chưa mở cửa.
Cô hai tay cầm khẩu súng P – 38 Wanad của Nieminen chĩa vào mặt ông ta.
– Tôi không kiếm lôi thôi với ông. Tôi chỉ muốn xem danh sách cho thuê xe của ông. Tôi muốn xem ngay. Ông có mười giây để đưa nó ra đây.
Refik Alba bốn mươi hai tuổi, một người Cuốc sinh ra ở Diyarbakir, trong đời ông đã nhìn thấy rặt là súng với súng. Ông đứng như trời trồng. Rồi ông kết luận cái con điên này đã mang súng vào đây thì thôi chả có gì nhiều để mà bàn luận với nó nữa sất cả.
– Sổ ở trong máy tính. – Ông nói.
– Bật lên.
Cô bảo sao ông làm thế.
– Sau cửa này là gì? – Cô hỏi trong khi máy tính bật lên và màn hình bắt đầu nhấp nháy.
– Chỉ là cái tủ.
– Mở ra.
Có một vài bộ quần áo lao động ở trong.
– OK. Đi vào trong đó, đứng im và tôi không làm ông bị thương đâu.
Ông nghe ngay không ỉ eo.
– Lấy máy tính ra, để lên sàn rồi đá ra cho tôi.
Ông làm theo y lời.
– Tốt, bây giờ đóng cửa tủ lại.
Đây là một máy tính cổ Window 95 và ổ cứng 280MB. Mất đến cả thế kỷ mới mở được tư liệu Excel có danh sách xe cho thuê. Chiếc Volvo trắng được thuê hai lần. Lần thứ nhất thuê hai tuần hồi tháng Một, rồi từ ngày 1 tháng Ba. Vẫn chưa trả lại. Người thuê trả một lệ phí hàng tuần cho việc thuê dài hạn.
Người thuê tên là Ronald Niedermann.
Cô xem các danh mục để ở giá trên máy tính. Một trong số có chữ KHÁCH HÀNG in hằn ở gáy. Cô lấy nó xuống giở qua tới chỗ Ronald Niedermann. Khi thuê chiếc xe vào tháng Một, hắn đã đưa hộ chiếu thay cho thẻ căn cuớc và Refik Alba đã sao chụp lại. Cô lập tức nhận ra ngay tên khổng lồ tóc vàng. Theo hộ chiếu, hắn người Đức, ba mươi lăm tuổi, sinh ở Hamburg. Việc Alba chụp sao hộ chiếu cho thấy hắn chỉ là khách hàng, không phải bạn.
Ở cuối trang, Alba viết số một di động và địa chỉ một hòm thư bưu điện ở Goteborg.
Salander để danh mục này về chỗ cũ và tắt máy tính. Cô nhìn quanh thấy một thảm cao su chùi chân ở gần cổng ra vào chính. Cô nhặt nó lên đi lại chỗ cái tủ rồi gõ báng súng vào cửa.
– Bên trong có nghe được không?
– Có.
– Ông có biết tôi là ai không?
Im lặng.
Cha có mù mới không nhận ra ta.
– OK. Ông biết tôi là ai. Ông có sợ tôi không?
– Có.
– Đừng sợ, ông Alba. Tôi sẽ không làm sứt mẻ gì ông cả. Tôi sắp xong ở đây rồi. Tôi xin lỗi đã để ông vào cảnh rắc rối này.
– U… OK.
– Có đủ không khí thở không?
– Đủ… dẫu gì thì cô muốn gì ạ?
– Tôi xem liệu hai năm trước một phụ nữ có thuê xe của ông không. – Cô nói. – Tôi không tìm ra cái cần tìm nhưng đó không phải là lỗi của ông. Vài phút nữa tôi rời đi. Tôi sẽ để cái thảm chùi chân ở dưới cửa tủ đây. Cửa khá mỏng để ông phá được ra song phải mất một lúc. Ông không phải gọi cảnh sát. Ông sẽ không bao giờ thấy tôi nữa. Ông có thể mở cửa hàng như thường lệ và bảo rằng chả có chuyện gì xảy ra.
Cơ may ông ta không gọi cảnh sát khá xa vời nhưng dù ông ta chọn lấy cách nghĩ này thì cũng chả có hại gì. Cô rời gara đi bộ đến chiếc Corolla Toyota ở góc phố, ở đấy cô nhanh chóng biến mình thành ra Irene Nesser.
Cô khó chịu vì là không tìm ra được địa chỉ nơi ở của Ronald Niedermann ở khu vực Stockholm, chỉ là địa chỉ hòm thư bưu điện ở phía bên kia Thụy Điển. Nhưng nó là đầu mối duy nhất cô có. Thôi được, đi Goteborg.
Cô đi đường E20 rồi rẽ về phía tây đến Arboga. Cô mở radio nhưng lỡ mất buổi phát tin, chỉ có vài đoạn quảng cáo. Cô nghe David Bowie hát “đổ xăng vào lửa”. Cô không biết tên bài hát nhưng coi câu hát là một điềm báo trước.