CUỘC GỌI TỪ THIÊN THẦN

Mặt khuất của vầng trăng



“Mỗi người trong chúng ta là một vầng trăng, với một mặt khuất mà không ai trông thấy được.”
– Mark TWAIN

Lower East Side 8 giờ sáng
Jonathan lách chiếc Smart vào giữa hai chiếc xe đậu vuông góc trên vỉa hè rồi xuôi xuống Bowery tới tận Phố 2. Sau một thời gian dài chịu tiếng khu phố xấu, Lower East Side giờ đã trở thành một trong những nơi thời thượng nhất với những quán cà phê nhỏ và những nhà hàng sành điệu. Jonathan đẩy cửa bước vào Peels, chỗ ăn trưa ưa thích của anh. Nơi đây rất độc đáo và tỏa ra một hơi ấm thực sự. Thường kín chỗ từ khoảng 11 đến 13 giờ nên quán yên tĩnh hơn vào buổi sáng.
Jonathan tìm Madeline trong căn phòng chan hòa ánh sáng. Quanh quầy bar dài bằng gỗ sáng màu, các khách hàng phóng túng và sành điệu đang chơi đánh chén nhiệt tình món bánh kếp vị chuối, uống cappucino.
Madeline không có ở đây. Chưa gì anh đã thấy lo. Có khi nào cô hối tiếc vì sự gần gũi đêm qua? Có khi nào cô nghĩ không thông suốt nên đã bỏ đi? Có khi nào…
Điện thoại di động của anh rung lên. “Em đang trên gác” , một tin SMS thông báo như vậy. Anh ngẩng đầu lên và nhìn thấy cô, đang nghiêng người qua lan can để giơ tay vẫy anh.
Yên tâm, anh leo cầu thang rồi tới bàn gặp cô. Những bức tường trắng và sàn gỗ màu vàng nhạt, những khung cửa kính rộng, những cây đèn trang trí đặt thiết kế riêng: căn phòng tạo cảm giác thật dễ chịu.
– Em tới lâu chưa?
Dù rất muốn nhưng anh không dám ôn hôn cô. Cô mặc một chiếc quần jean và áo vest da ôm sát khiến cô trông càng mảnh mai, anh gần như không nhận ra cô.
– Em vừa đến thôi. Nơi này dễ chịu thật. Anh vừa đi đâu về vậy?
– Qua nhà vợ cũ của anh. Rồi anh sẽ kể em nghe, anh nói rồi ngồi xuống phía đối diện cô.
Madeline làm ra vẻ thư thái; tuy nhiên, cô lại lặng ngắm anh đầy buồn bã, như thể họ đã mất nhau rồi… Jonathan muốn cầm tay cô nhưng cô rụt tay lại. Ánh mắt họ gặp nhau, im lặng kéo dài mãi. Cuối cùng Madeline cũng nhẹ nhàng đan những ngón tay mình vào ngón tay anh. Giờ đây, rõ ràng là họ không chỉ cảm thấy ham muốn nhau đơn thuần nữa, ngay cả khi họ còn chưa sẵn sàng định nghĩa mối quan hệ đang gắn kết hai người lại với nhau là “tình yêu” .
Đeo kính gọng to, mặc áo sơ mi ca rô và để râu kiểu xứ Gaule, người bồi bàn với vẻ bề ngoài đậm chất hipster tiến lại gần giúp họ gọi món. Jonathan nhìn lướt menu rồi gọi một tách expresso và Monkey Bread. Madeline chọn bánh kem Blueberry cùng một cốc sữa.

– Em đã mượn của bạn gái anh vài thứ quần áo. Hơi chật một chút, nhưng…
– Em mặc hợp lắm. Mà đó không phải “bạn gái anh” … Có tin tức gì từ Jim không?
– Chẳng có tin gì cả, cô rầu rĩ đáp. Gọi vào điện thoại di động của anh ấy cứ gặp trả lời tự động thôi. Em sẽ gọi trực tiếp tới sở cảnh sát xem sao.
Trong khi cô bấm số, Jonathan liếc qua tờ The New York Post một khách hàng bỏ lại trên băng ghế. Trên trang nhất tờ báo là vụ việc mà anh đã nghe thấy sáng nay qua sóng phát thanh:
KHAI MẠC PHIÊN TÒA XÉT XỬ NGƯỜI THỪA KẾ MỘT CARTEL MA TÚY
Phiên tòa đặc biệt xét xử Jezebel Cortes đã khai mạc hôm nay tại California. Mang biệt danh La Muneca [1], người phụ nữ này là con gái của Alfonso Cortes quá cố, một trong những thủ lĩnh đi vào lịch sử của một cartel hùng mạnh ở Mexico, bị một băng đảng cạnh tranh hạ sát hồi tháng Ba 2011.
Tới Los Angeles sinh sống dưới danh tính giả, Jezebel Cortes bị bắt giữ cách đây ba năm khi đang đi mua sắm trên Rodeo Drive. Chứng thư tố cáo buộc tội cô kiểm soát nhiều khâu trong việc xuất khẩu ma túy sang Mỹ cũng như thiết lập một hệ thống rửa tiền quy mô. Phiên tòa đã nhiều lần tạm hoãn do các luật sư bào chữa cho La Muneca khai thác triệt để những kẽ hở của thủ tục pháp lý.
Anh ngừng đọc ngay khi Madeline liên lạc được với sở Cảnh sát Manchester.
Cô bấm số nội bộ của người đồng đội cũ, nhưng bắt máy trả lời cô lại là thanh tra Trevor Conrad:
– Madeline hả? Rất vui được nghe giọng chị…
– Tôi đang tìm cách liên lạc với Jim từ tối qua. Anh ấy có trong phòng chứ? Đầu dây bên kia lặng đi trước khi thú nhận:
– Jim chết rồi, Madeline ạ.
– Làm sao có chuyện đó được? Cách đây hai ngày anh ấy còn gọi cho tôi kia mà!
– Tôi rất tiếc: sáng nay chúng tôi tìm thấy anh ấy trong phòng làm việc. Anh ấy đã tự sát.
Madeline ngước nhìn Jonathan bằng ánh mắt hoài nghi, lặng lẽ thốt lên hai từ: “Chết rồi!” Sững sờ, anh ngồi sát lại gần cô để theo dõi cuộc trò chuyện. Cô hỏi thêm thông tin:
– Khoan đã, Jim mà tôi biết không phải dạng người hành động một cách ngu ngốc. Anh ấy gặp phải vấn đề cá nhân nào chăng?
– Tôi không nghĩ thế.
– Chuyện xảy ra thế nào hả Conrad?
Chàng cảnh sát Manchester ngập ngừng chưa trả lời ngay.
– Cuộc điều tra đang được tiến hành. Tôi không thể tiết lộ gì thêm với chị.
– Đừng ngốc thế: Jim đã đồng hành với tôi suốt sáu năm trời! Đầu dây bên kia lại im lặng.

– Năm phút nữa tôi sẽ gọi lại cho chị, anh ta thông báo trước khi gác máy.

°

Vẫn còn choáng váng, Madeline đưa tay lên ôm đầu. Cái chết bất ngờ của Jim khơi dậy hàng loạt cảm xúc và vết thương lòng. Cô nhanh chóng đẩy lùi tất cả để không chọc thủng lớp vỏ bảo vệ của mình. Bàng hoàng trước tin dữ, Jonathan bối rối không biết phải làm gì. Anh cố gắng thể hiện một cử chỉ âu yếm nhưng Madeline đã thu mình khép kín.
– Chắc chắn Conrad sẽ gọi lại cho em bằng điện thoại di động hoặc từ bốt điện thoại công cộng. Mọi cuộc gọi từ sở cảnh sát đều có khả năng bị ghi âm. Em hình dung là cậu ấy không muốn chuốc lấy bất trắc thôi.
– Em không tin vào giả thiết tự sát đó sao?
– Em không biết, cô thú nhận. Nói gì thì nói, anh mới là người gặp lại anh ấy gần đây hơn em kia mà.
Jonathan hồi tưởng lại cuộc gặp với viên thanh tra và cố gắng khôi phục lại những ấn tượng của mình khi đó.
– Trông anh ấy mệt mỏi và cáu kỉnh, dành toàn tâm toàn ý cho cuộc điều tra về Alice Dixon và vội vã theo đuổi những hướng điều tra mới. Nhưng tự sát là một hành động bí ẩn, khó mà dự đoán hay lấy mốc cụ thể nào được.
Và anh là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết… Điện thoại réo chuông. Là Conrad gọi.
– Được rồi, chị muốn biết gì nào? Viên cảnh sát hỏi.
– Chuyện đã xảy ra thế nào?
– Jim ở trong phòng làm việc và tự nã một viên đạn vào đầu, khoảng bốn giờ rưỡi sáng.
– Anh ấy dùng súng công vụ chứ?
– Không, là một khẩu súng không có trong danh mục.
– Và cậu không thấy chuyện này kỳ lạ sao?
– Chị làm tôi phát bực đấy Madeline.
– Tất cả các cảnh sát có ý định tự sát đều nghĩ đến việc dùng vũ khí công vụ!
– Không phải tất cả đâu, Conrad vặc lại. Tôi biết một người dùng cách treo cổ trong phòng khác nhà mình cơ đấy.
Đòn động chạm bất ngờ, nhưng Madeline không chút nao núng.
– Nói cho tôi biết thêm về khẩu súng đó đi.
– Một khẩu Beretta 92 lắp ống giảm thanh.
– Quá sức vô lý! Một khi đã quyết định tự nã đạn vào đầu mình thì cậu đâu có thèm để ý đến việc đánh thức hàng xóm hay không!
Và tôi là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết, cô suýt buột miệng nói thêm.

– Nếu đã nghĩ theo chiều hướng đó thì có một chi tiết này nữa cũng khá khó hiểu, viên cảnh sát tiết lộ.
– Nói tôi nghe đi.
– Khẩu súng nằm trong tay phải Jim.
– Khốn nạn!
Flaherty vốn là người thuận tay trái.
– Chuyện này khó lý giải, nhưng cũng không chứng minh được điều gì hết, viên cảnh sát nói rõ hơn.
– Cậu coi thường tôi hả?
– Khi chị đã kề nòng súng lên thái dương thì đâu cần nhắm chính xác. Khó mà trật được mục tiêu dù chị có cầm súng bằng tay nào đi nữa…
Madeline bừng tỉnh.
– Lúc đó Jim đang làm gì?
Nhưng Conrad không sẵn sàng thú nhận tất cả.
– Tôi đã nói với chị đủ rồi. Tôi phải gác máy đây.
– Chờ đã! Cậu làm ơn chuyển tiếp cho tôi những bức mail cuối cùng Jim nhận được trong khoảng vài giờ trước khi chết được không?
– Chị đùa chắc? Chị đâu còn là người của sở cảnh sát nữa, Madeline?
– Jim là bạn tôi mà!
– Nài nỉ cũng vô ích thôi. Mà thậm chí nếu có muốn làm vậy, tôi cũng không thể?
– Tại sao?
– Từ sáng nay, máy chủ của sở cảnh sát đã bị nhiễm virus và lây sang tất cả các máy trạm. Không ai truy nhập được vào máy tính cá nhân cả.
– Cậu tìm cớ khác đi.
– Sự thật là vậy. Chị bảo trọng nhé, Madeline.

°

Cô đẩy ly sữa người lạ vừa đặt trước mặt cô ra xa rồi gọi thế vào đó một tách cà phê đen. Rồi cô lôi từ trong ba lô ra chiếc notebook của Jonathan.
– Em mang máy tính của anh theo. Em muốn xem lại hồ sơ Dixon. Anh nói đã tải nó về máy tính đúng không? Như vậy sẽ tra cứu dễ hơn trên điện thoại của em.
Jonathan bật máy lên.
– Em nghĩ Jim bị hạ sát sao?
– Em không rõ.

– Anh thì nghĩ người ta đã mưu sát anh ấy và việc này có liên quan đến thứ anh ấy vừa khám phá được về Alice.
– Anh đừng vội suy đoán. Mới cách đây một tuần, anh còn chưa nghe nhắc đến vụ việc này kia mà.
– Chính điều đó cho phép anh nhìn nhận mọi việc dưới góc nhìn mới mẻ hơn.
– Cách nhìn nhận đó đưa anh tới kết luận thế nào
– Anh nghĩ cảnh sát hoặc mật vụ đã làm mọi chuyện để dập tắt vụ bắt cóc này.
– Anh nói thế nào ấy chứ!
– Em muốn biết những chi tiết đáng ngờ không? Chính là các camera giám sát! Anh đọc hồ sơ rồi: hồi đó có khoảng mười hai máy quay hoạt động trên các con phố xung quanh trường Alice. Mười hai camera! Và như thế tình cờ, vào đúng ngày hôm đó chúng đều bị hỏng. Em không thấy chuyện này bất bình thường sao?
– Giả thiết âm mưu của anh mới quá đáng.
– Anh đã gặp Alice sáu tháng sau khi em nhận được trái tim cô bé đựng trong thùng ướp lạnh!
– Ta sẽ không bao giờ biết được đó có thực sự là cô bé hay không.
– Chính là cô bé! Và chính bởi Jim đã nắm được bằng chứng về việc đó nên anh ấy bị giết hại!
– Khẳng định mọi chuyện đâu có đủ. Cần phải chứng minh.
– Alice chưa chết, tin anh đi.
– Lòng tin chẳng liên quan gì trong chuyện này.
– Alice chưa chết, anh nhắc lại. Và cô bé còn sống là nhờ đã trải qua phẫu thuật ghép tim. Tuy thế, cuộc phẫu thuật đó lại không xuất hiện trong sổ lưu của bất kỳ bệnh viện nào. Em hình dung ra mạng lưới tòng phạm và các tổ chức cần thiết để thu xếp việc đó không? Ai có khả năng tiến hành một cuộc phẫu thuật tương tự ngoại trừ một tổ chức chính phủ?
– Anh xem quá nhiều phim truyền hình dài tập rồi. Nghe em này, khi em điều tra về Alice Dixon, tất cả mọi người đều tỏ ra không chút quan tâm tới cô bé: trước tiên là mẹ Alice, một con nghiện sống trong khu phố thối nát. Đứa bé này là con gái của một kẻ ất ơ, và em không hiểu chính phủ can thiệp vào chuyện này làm gì.
Madeline uống một hơi hết tách cà phê rồi, như đã từng làm vậy cả trăm lần trong quãng đời dĩ vãng, miệt mài đọc hồ sơ vụ Alice để ôn lại một lượt. Biên bản cuộc khảo cung đầu tiên với tên sát nhân hàng loạt Bishop cùng với nhiều tấm ảnh khác nhau hiện ra trên màn hình, những tấm chụp căn phòng gọn gàng ngăn nắp của Alice, những cuốn sách, những tấm áp phích hòa nhạc, những hộp bánh quy Oreo và những vỉ sữa dâu của cô bé.
Nhưng hình ảnh Jim vẫn khắc sâu trong tâm trí Madeline. Anh đã làm gì sau khi gặp Jonathan? Nếu là cô thì cô sẽ làm gì? Dĩ nhiên là anh đã thu xếp cho phân tích chữ viết và lấy dấu vân tay. Có lẽ là cả nghiên cứu gien nữa… Lục tìm trong danh bạ điện thoại, cô tìm thấy số của Tasha Medeiros, một trong những kỹ thuật viên chuyên phân tích ADN của phòng thí nghiệm pháp y Birmingham. Bà là một nhà sinh học xuất sắc, nhưng cũng khá dễ tính với các thủ tục trình tự.

Ngày trước, cô và Jim vẫn thường nhờ cậy bà bởi bà chấp nhận tiến hành các phân tích khẩn cấp mà không nhất thiết chúng phải nằm trong khuôn khổ luật định. Cần phải nói rằng Tasha vẫn thường tiêu thụ ma túy “có kiểm soát” , còn Jim, để duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa họ, vẫn đều đặn tuồn cho bà vài liều tịch thu được trong những cuộc vây bắt các đầu mối bán lẻ ma túy.
– Nguyên tắc đạo đức thật kỳ cục! Jonathan bình luận.
– Cảnh sát mà, không phải thế giới Gấu Bông! Madeline vặn lại rồi bấm số.
Hôm nay Tasha không làm việc. Bà đang ở nhà cùng con gái, nhưng bà khẳng định đúng là Jim đã nhờ bà làm phân tích. Đêm qua bà trực nên đã gửi kết quả cho Jim qua mail từ sáng sớm nay.
– Chị còn nhớ phân tích đó là gì không?
– So sánh hai mẫu ADN.
– Chị làm ơn gửi chuyển tiếp cho tôi bức mail đó nhé.
– Hôm nay thì hơi khó đấy.
– Chuyện quan trọng lắm Tasha ạ. Jim vừa chết rồi. Tôi đang cố tìm hiểu nguyên nhân.
– Khốn nạn thật…
– Tôi nhắn cho chị địa chỉ mail của tôi nhé.
– OK, tôi sẽ cùng Paola qua văn phòng. Chưa đến một tiếng nữa cô sẽ nhận được mail.

°

Trên máy tính, Jonathan đang tham khảo những bức ảnh chụp lại những cuộc tàn sát của Bishop. Hắn đã nhận về mình tội sát hại Alice mà không bao giờ đưa ra bất cứ bằng chứng nào. Giữa cơn đại hồng thủy máu và bạo lực này, Jonathan bỗng nhận ra rằng chính nhờ những tàn bạo này mà Madeline và anh bên nhau trong buổi sáng nay. Nếu Alice không mất tích, họ sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau…
Trong lúc bấm điện thoại để kiểm tra kết nối mạng, Madeline tiện thể xóa bớt thư rác. Có khoảng ba chục thư spam đủ loại xúi giục cô đặt hàng đồng hồ đeo tay sang trọng, thuốc kích dục hay các sản phẩm siêu việt có khả năng giúp cô giảm mười kí lô chỉ trong mười ngày.
– Nhìn này!
Giữa những bức thư không mong đợi ấy có một bức khiến cô chú ý. Nó được gửi đến cô hai mươi tư giờ trước, người gửi là Jim Flaherty!
Tim cô đập rộn. Tại sao mail của Jim lại bị phần mềm chống spam sàng lọc nhỉ? Có lẽ là do có nhiều file đính kèm với dung lượng nặng chăng? Cô bồn chồn mở mail ra đọc:
Từ: Jim Flaherty
Tới: Madeline Greene Chủ đề: Mổ khám nghiệm
Ngày: 22 tháng Mười hai 2011 18:36 Madeline thân mến,

Em không thấy điều gì bất thường trên một vài bức ảnh trong số ảnh này sao? Nếu có thì gọi cho anh nhé.
Bạn của em, Jim
Tiếp theo là một file PDF cùng nhiều bức ảnh. Madeline mở mail trên máy tính để nhìn các tài liệu đó ở chế độ toàn màn hình. Toàn bộ đều là ảnh chụp mổ khám nghiệm tử thi Danny Doyle, bố già Cheatam Bridge.
– Anh ta có liên quan gì ở đây vậy? Jonathan thắc mắc thành tiếng.
Anh cúi xuống đọc bản báo cáo khám nghiệm tử thi cùng Madeline. Như anh biết, họ tìm thấy xác Danny giữa một khu công nghiệp bỏ hoang, lãnh một viên đạn vào đầu, tay và chân bị chặt rời, răng bị nhổ. Cuộc hành quyết được quy cho một băng nhóm Ukraina có vị thủ lĩnh cũng đã phải chịu những trò vui tra tấn tương tự vài tháng trước. Báo cáo pháp y đúng như quy chuẩn: xác định giờ chết dựa vào độ cứng của tử thi, chụp rõ vết thuốc súng xung quanh vết thương, phân tích các cơ quan nội tạng và một vài mẫu phẩm – máu, chất lưu dạ dày, ADN. Chừng ấy yếu tố xác nhận không chút nghi ngờ danh tính của Danny Doyle.
Như thường thấy trong báo cáo khám nghiệm tử thi cùa các tội ác dã man, những bức ảnh khiến người xem có cảm giác buồn nôn: khuôn mặt bầm tím và biến dạng vì tra tấn, lồng ngực tái ngắt bị rạch xuống tận bụng dưới, hàng chục vết bầm do tụ máu rải khắp cơ thể. Danny đã bị tra tấn và lìa đời trong đau đớn. Nhưng Jim đã tìm thấy điều gì khác thường trong những bức ảnh này?
Madeline dùng chức năng zoom phóng to một vài vùng ảnh.
– Thậm chí chúng còn cắt mất của hắn một mẩu tai, Jonathan ghi nhận.
Madeline nhướng mày rồi xem xét kỹ lưỡng vùng ảnh anh vừa chỉ. Đúng thật: phần lớn dái tai phải của cái xác bị rạch mất. Nhưng vết thương này có vẻ đã cũ. Mà Danny lại chưa bao giờ bị rách tai, trái lại… Jonny, người em sinh đôi của hắn, thì có.
– Người này không phải Danny, là em trai hắn! Cô kêu lên.
Cô giải thích cặn kẽ cho Jonathan hiểu: hai đứa bé lọt lòng mẹ chỉ cách nhau năm phút, sự cạnh tranh của hai anh em, xu hướng bạo lực và tàn ác của Jonny vốn mắc chứng tâm thần phân lập và đã nhiều lần phải giam nhốt để điều trị tâm lý trước khi chìm đắm trong chứng nghiện rượu.
Cô giở báo cáo khám nghiệm tử thi ra để đọc lại đoạn nói về phân tích các cơ quan nội tạng. Gan của tử thi bị “thoái hóa mô có lẽ do hấp thụ rượu” .
Chứng xơ gan.
– Danny thỉnh thoảng có uống, nhưng hắn chưa bao giờ sa đà rượu chè.
– Làm sao cảnh sát có thể nhầm lẫn như thế được?
– Những cặp “sinh đôi cùng trứng” sở hữu cùng một di sản gien, điều này khiến cho việc phân biệt ADN của họ là không thể.
– Em có chắc không?

– Đã từng có nhiều vụ việc kiểu này mà, đặc biệt là một vụ trộm tại Đức và một vụ buôn lậu ma túy tại Malaysia. Trong cả hai trường hợp này, kẻ tình nghi đều có một người anh em sinh đôi và tòa buộc phải thả hắn ra do không thể nhận dạng tội phạm chính xác.
– Nhưng nếu cái xác là của Jonny…
– …nghĩa là Danny vẫn còn sống, Madeline khẳng định, vẻ tư lự.
Họ gọi thêm một bình cà phê. Suốt hồi lâu, họ miên man với những phỏng đoán cho đến khi Madeline nhận được thư điện tử của Tasha Madeiros, chuyên viên phân tích ADN của phòng thí nghiệm Birmingham.
Từ: Tasha Medeiros Tới: Madeline Greene Chủ đề:
Madeline,
Đây là kết quả phân tích Jim đã nhờ tôi thực hiện không qua kênh chính thống. Tôi hết sức đau buồn khi biết tin về cậu ấy.
Hy vọng kết quả này có thể giúp cô. Tasha
Hết sức tò mò, cô nhấp chuột vào danh mục file đính kèm trong khi Jonathan chồm qua vai cô để cùng xem: file đính kèm có dạng bảng phức tạp gồm khoảng mười lăm dòng và sáu cột. Mỗi ô có nhiều con số. Họ mất vài giây mới hiểu ra đây là một bảng test xác định quan hệ cha con. Họ di chuột cách quãng tới đoạn cuối cùng nêu kết quả, và những dòng sau khiến họ không thốt nên lời:
Test quan hệ cha con được thực hiện không kèm chất liệu gien của người mẹ. Dựa trên phân tích ADN.
Người cha viện dẫn: Daniel DOYLE. Người con: Alice DIXON.
Các gien tương ứng hiển thị rõ ràng trong 15 vị trí gien trên nhiễm sắc thể được phân tích. Xác suất có quan hệ cha con ước lượng lên tới 99.999%.
Trước khi chết, Jim đã có một trực giác tài tình. Sau ba năm điều tra, anh đã có thể chứng minh không chỉ việc Danny chưa chết, mà còn việc hắn chính là cha đẻ của Alice Dixon.
Một phát hiện khiến anh phải trả giá bằng cả mạng sống của mình.
——————————–

1. Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: Búp bê.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.