CUỘC GỌI TỪ THIÊN THẦN
Separate Lives [1]
“Thật kinh khủng khi sống có đôi có cặp mà vẫn cảm thấy cô đơn.”
– Paul MORAND
Jonathan gửi tin nhắn đầu tiên…
Tôi đang giữ điện thoại của cô, cô đang giữ điện thoại của tôi đúng không? Jonathan Lempereur
… Madeline hồi âm hầu như tức khắc: Phải! Anh đang ở đâu? Madeline Greene Ở San Francisco. Còn cô?
Ở Paris L Làm thế nào bây giờ?
Ở Pháp vẫn có bưu điện cơ mà, đúng không nhỉ? Ngay ngày mai tôi sẽ gửi lại điện thoại cho cô qua FedEx.
Thật tử tế… Tôi cũng sẽ làm vậy ngay khi có thể. Địa chỉ của anh là gì? Nhà hàng French Touch, 1606 phố Stockton, San Francisco, CA.
Địa chỉ của tôi: Tiệm hoa Khu Vườn Kỳ Diệu, số 3 phố Delambre, quận XIV Paris.
Cô chuyên bán hoa tươi phải không? Nếu đúng thì cô có một đơn hàng khẩn từ một tay Oleg Mordhorow nào đó: 200 bông hồng đỏ giao tại nhà hát Châtelet cho nữ diễn viên có cảnh trút bỏ y phục ở hồi ba. Nói riêng với cô nhé, tôi không nghĩ đó là vợ ông ta đâu…
Anh có quyền gì mà nghe tin nhắn thoại của tôi? Nhưng làm vậy chỉ để giúp cô thôi mà, đồ óc bã đậu!
Tôi thấy anh nhắn tin cũng thô thiển chẳng kém gì lúc nói năng! Vậy ra anh kinh doanh nhà hàng hả Jonathan?
Đúng vậy.
Vậy thì quán ăn hạng bét của anh có khách đặt chỗ đây: một bàn hai người vào tối mai, cho ông bà Strzechowski. Tóm lại, tuy sóng điện thoại hơi kém, nhưng đó là lời nhắn tôi nhận được…
Tuyệt lắm. Chúc ngủ ngon. Ở Paris mới có 7 giờ sáng…
Jonathan lắc đầu vẻ đầy tức tối rồi nhét điện thoại vào túi trong áo vest. Cô ả này khiến anh dựng tóc gáy.
San Francisco 21h30
Một chiếc 4L Renault kiểu cổ màu đỏ chót rời quốc lộ 101 để rẽ vào đường dẫn tới khu trung tâm. Chiếc xe cà tàng cũ kỹ bò lê trên đường Embarcadero như một con ngựa tồi, tạo cảm giác như đang chạy ở chế độ chậm nhất của động cơ. Hệ thống sưởi đã bật ở mức cao nhất nhưng không ăn thua, các cửa kính đều đầy hơi nước đọng lại thành giọt.
– Bố con tớ đến văng lên lề đường với đống sắt vụn của cậu mất! Jonathan than vãn, chỗ ngồi ghế cạnh lái của anh chật cứng.
– Không đâu, con xế của tớ chạy ngon đấy chứ! Marcus gạt phăng. Giá mà cậu biết tớ dồn tâm sức chăm sóc cho nó thế nào!
Mái tóc bù xù và dính bết, lông mày rậm rì, bộ râu mười tám ngày chưa cạo và mí mắt sùm sụp kiểu chó Droopy, trông Marcus như người tiền sử, thậm chí có những ngày nom anh còn nhưng người ngoài hành tinh. Bơi trong chiếc quần tụt và áo sơ mi Hawaii phanh cúc đến tận rốn, thân hình cò hương của anh như cố vặn vẹo và trật khớp để trụ lại trong khoang lái của ô tô. Chân đi đôi tông cũ, anh lái xe bằng một chân, gót đặt trên chân côn còn các ngón lần lượt đè lên chân ga và chân phanh.
– Con thì con rất khoái xe của chú Marcus! Charly vừa reo lên phấn khích vừa khua khoắng tay chân trên ghế sau.
– Cảm ơn cậu nhóc của chú! Anh đáp kèm với một cái nháy mắt dành cho Charly.
– Charly! Thắt ngay dây an toàn vào, thôi ngay cái trò ngọ nguậy liên hồi đó đi! Jonathan ra lệnh. Rồi anh quay sang bạn:
– Chiều nay cậu có ghé qua quán không?
– Ờ… không phải hôm nay chúng ta đóng cửa quán sao?
– Nhưng ít ra cậu cũng nhận mẻ vịt rồi chứ?
– Vịt nào?
– Mẻ đùi vịt và gà gô mà Bob Woodmark vẫn giao cho chúng ta thứ Sáu hằng tuần ấy!
– À, tớ đã tự nhủ rõ ràng mình quên khuấy mất việc gì đó mà!
– Đồ đại ngốc! Jonathan nổi cáu. Làm sao cậu có thể quên việc duy nhất tớ đã nhờ cậu thế hả?
– Chuyện cũng đâu đến nỗi nghiêm trọng… Marcus lẩm bẩm.
– Có chứ! Ngay cả khi Woodmark khó tính như ranh thì trang trại của hắn vẫn cung cấp cho chúng ta những sản phẩm tốt nhất. Nếu cậu cho hắn leo cây, hắn sẽ đâm ác cảm với chúng ta và cắt nguồn cung ứng. Thử vòng qua quán xem nào, tớ cá với cậu là hắn đã để lô hàng lại sân sau rồi đó.
– Tớ có thể ghé qua đó sau, Marcus nói chắc. Giờ tớ đưa bố con cậu về nhà cái…
– Không! Jonathan ngắt lời ngay. Cậu chỉ là một gã hậu đậu không ai có thể tin tưởng được, vậy nên tớ phải tự quán xuyến lấy thôi.
– Nhưng thằng nhỏ mệt lử rồi kia kìa!
– Không ạ, không hề đâu ạ!Charly hớn hở reo lên. Cháu cũng muốn ghé qua quán mà!
– Thế là xong rồi nhé, Jonathan dứt khoát. Tới ngã tư phố 3 thì rẽ đi, anh ra lệnh rồi dùng tay áo quệt hơi nước đang ngưng đọng lại trên kính chắn gió.
Chiếc 4L cũ kỹ không quen với sự thay đổi bất ngờ này. Bốn chiếc bánh xe không bám đường, cùng với thao tác chuyển hướng đột ngột này thiếu chút nữa đã gây ra tai nạn.
– Cậu thấy rõ rành rành là cậu không đủ sức kiểm soát đồ cặn bã này chưa! Jonathan gào lên. Khốn kiếp, cậu sẽ giết chúng ta mất thôi!
– Tớ đã gắng hết sức rồi đấy! Marcus vừa nói giọng chắc nịch vừa nắn lại vô lăng giữa một dàn hợp xướng những tiếng còi xe đầy phẫn nộ.
Trên đường ngược lên phố Kearney, chiếc xe cà tàng cũng chạy ổn định hơn được một chút.
– Chính vì vừa gặp lại chị gái tớ mà tâm trạng cậu thành ra thế hả? Marcus cất tiếng sau hồi lâu im lặng.
– Francesca chỉ là chị cùng cha khác mẹ với cậu thôi.Jonathan chữa lại.
– Cô ấy thế nào rồi?
Jonathan ném cho cậu bạn ánh mắt thù địch.
– Nếu cậu nghĩ là hai người bọn tớ đã nói chuyện phiếm thì…
Marcus biết chủ đề này hết sức nhạy cảm nên quyết định không hỏi thêm. Anh tập trung lái tới đại lộ Columbus rồi đỗ “bé cưng” của mình trước một quán bia treo biển tên French Touch nằm ở góc giao giữa phố Union và Stockton.
Đúng như Jonathan đã dự đoán, Bob Woodmark đã để lại lô hàng ở mé sau quán. Hai người khiêng các sọt hàng vào trữ trong phòng lạnh rồi vào phòng chính để kiểm tra xem mọi thứ đã ngăn nắp đâu vào đó chưa.
French Touch là một mảnh nước Pháp nằm gọn trong khu North Beach, khu phố Ý của San Francisco. Nhỏ bé nhưng ấm cúng, nơi đây tái hiện nội thất những quán rượu Pháp thập niên 30: gỗ ốp tường, gờ thạch cao trang trí, sàn ghép mảnh, những chiếc gương lớn của Thời Hoàng Kim, những tấm áp phích cũ có hình Joséphine Baker, Maurice Chevalier và Mistinguett. Thực đơn của quán chào mời một thứ ẩm thực Pháp kiểu truyền thống, giản dị, không chút phô trương kiểu cách. Trên tấm bảng đã đen treo tường người ta có thể đọc thấy: “Ốc sên xếp lớp mật ong, lườn vịt nấu cam, bánh tác Saint Tropez…”
“Con ăn kem được không bố?” Charly xin phép khi tới ngồi trước quầy bar bóng loáng nằm dọc căn phòng.
– Không được đâu con yêu. Con đã ních đến hàng kí lô kem trên máy bay rồi còn gì. Mà giờ đã quá khuya rồi, lẽ ra con phải nằm trên giường từ lâu rồi mới phải.
– Nhưng đang là kỳ nghỉ mà bố…
– Thôi nào, Jon’, tỏ ra dễ mến đi nào! Marcus cũng nằn nỉ.
– Ôi không, cậu không định xía vào chuyện này đấy chứ!
– Nhưng giờ là Giáng sinh cơ mà!
– Đúng là hai cậu nhóc! Jonathan không khỏi mỉm cười.
Anh ngồi ở phía cuối quán. Đằng sau quầy bếp để ngỏ cho phép thực khách theo dõi một phần công đoạn chuẩn bị các món ăn.
– Con thích ăn kem gì nào? anh hỏi cậu con trai.
– Một ly Bà Đầm Trắng ạ! cậu nhóc reo lên phấn khích.
Vô cùng khéo léo, “anh cấp dưỡng” bẻ vài khoanh sô cô la đen vào chiếc bát nhỏ để nấu chảy trong nồi hấp.
– Thế còn cậu? Anh hỏi Marcus.
– Chúng ta nên mở một chai vang…
– Tùy cậu.
Một nụ cười tươi rói rạng rỡ trên gương mặt Marcus. Anh háo hức rời chỗ ngồi tiến lại gần chốn thánh đường của riêng mình – hầm rượu nhà hàng.
Cùng lúc, trước ánh mắt thèm thuồng của Charly, Jonathan xếp hai viên kem va ni ăn kèm bánh lòng trắng trứng vào một chiếc cốc có chân. Đợi cho sô cô la tan chảy, anh cho thêm một thìa kem tươi rồi trộn đều. Anh trút sô cô la nóng lên hai viên kem lạnh rồi phủ lên trên cùng một lớp kem đánh dậy bọt và hạnh nhân sém cạnh.
– Thưởng thức thôi! Anh vừa nói vừa cắm một chiếc ô nhỏ trang trí trên chóp kem.
Bố và con trai cùng vào bàn, ngồi sát cạnh nhau trên băng ghế dài êm ái. Mắt sáng lấp lánh, Charly vớ lấy chiếc thìa dài và bắt đầu nếm thử.
– Nhìn cho kỹ kỳ quan này đi! Marcus hừng hực khí thế khi từ hầm rượu trở ra.
– Một chai Screaming Eagle 1997 ư! Cậu điên hay sao thế? Những chai như thế này phải được dành cho khách hàng chứ!
– Thôi nào! Cứ coi như đây là quà Giáng sinh cho tớ đi, anh xuống giọng nài nỉ.
Sau một thoáng ngần ngừ lấy lệ, Jonathan đồng ý mở chai rượu hảo hạng. Cân nhắc mọi bề thì thà rằng Marcus uống vài ly ngay tại quán còn hơn. Ít ra anh có thể trông chừng cậu bạn thân. Nếu không, anh chàng người Canada có nguy cơ đi lòng vòng khắp các quán bar và một khi đã ngà ngà say, anh chàng sẽ gây ra hàng loạt thảm họa. Đã rất nhiều lần, một vài gã bạn nhậu của Marcus đã lạm dụng lòng tốt và sự cả tin của anh để vặt sạch bách tiền bạc của anh qua vài ván bài poker rồi dụ anh ký những tờ giấy ghi nợ khống mà sau đó Jonathan phải khổ sở đủ đường mới trả gỡ lại được.
– Nhìn màu thứ rượu tiên này mà xem! Marcus phấn khích reo lên trong lúc san rượu vang vào một bình khác.
Là đứa con ngoài giá thú của cha ruột Francesca với một nữ ca sĩ nhạc đồng quê người Québec, Marcus không được thừa kế xu lẻ nào sau khi thân sinh của anh, một doanh nhân giàu nứt đố đổ vách người New York, qua đời. Mẹ anh mới mất cách đây ít lâu và anh chỉ duy trì mối quan hệ hết sức xã giao với người chị cùng cha khác mẹ. Không một đồng xu dính túi, anh từng sống trong một tâm thế vô tư lự, thờ ơ với vẻ ngoài của bản thân, lờ đi quy tắc cơ bản của phép lịch sự và những nguyên tắc sống trong xã hội. Anh ngủ triền miên mười hai tiếng mỗi ngày, đến giờ lại qua quán giúp một tay, nhưng những gò bó của cuộc sống và thời gian biểu làm việc dường như không tác động nhiều đến anh. Tử tế đến mức khờ khạo, chất phác và lôi cuốn, ở anh có cái gì đó chân thành và dễ tha thứ, ngay cả khi việc giải quyết những hậu quả do thói vô trách nhiệm thường nhật màMarcusgây ra luôn khiến người ta kiệt sức.
Suốt thời gian cuộc hôn nhân của anh vẫn còn êm ấm, Jonathan chỉ nhìn nhận Marcus như một gã đần mà anh chẳng có gì để chia sẻ. Tuy nhiên, khi Francesca rời bỏ anh, cậu em vợ ấy mới là người duy nhất trợ giúp anh. Thời điểm đó, bất chấp đã có Charly, Jonathan vẫn phó mặc bản thân trượt vào hố sâu trầm uất. Không có việc gì để làm, tâm trạng hoang mang cực độ, anh chìm đắm trong nỗi buồn, giao du hơi quá mức với các quý ông Jack Daniel và Johnnie Walker [2].
May thay, nhờ có phép mầu kỳ diệu, Marcus đã dẹp thói biếng nhác của mình sang một bên, và lần đầu tiên trong đời, đứng ra lo liệu mọi việc. Anh nhắm được một nhà hàng Ý cũ kỹ vừa đổi chủ, chạy vạy ngược xuôi để thuyết phục những người mua lại biến nơi này thành một quán rượu kiểu Pháp rồi giao phần việc bếp núc cho anh rể phụ trách. Sáng kiến này đã giúp Jonathan vững bước quay lại với cuộc sống bình thường. Vừa cảm thấy bạn bình tâm trở lại thì Marcus lập tức tái phát chứng lười vô phương cứu chữa.
– Chúc sức khỏe cậu! Anh vừa nói vừa đưa Jonathan một ly rượu.
– Vậy thì đây là Giáng sinh sớm nhé, anh chàng người Pháp kết luận rồi bật chiếc radio Art déco tậu được tại chợ trời Pasadena.
Anh chuyển sang kênh chuyên nhạc rock đang phát bản live ca khúc Light My Fire.
– Chà! Ra trò đấy! Marcus đang ngồi thoải mái trên chiếc ghế dài không tiếc lời khen ngợi, mặc dù cũng không rõ anh đang nói tới loại rượu vang đỏ hay âm nhạc của nhóm The Doors.
Jonathan cũng đang gắng thư giãn. Anh mở cúc cổ sơ mi rồi cởi hẳn áo vest, nhưng lại thấy phiền lòng ngay khi thoáng thấy chiếc điện thoại của Madeline trên mặt bàn. Câu chuyện cầm nhầm điện thoại này sẽ khiến mình mất khối khách đặt bàn! anh thở dài. Trong số các khách quen quả đã có vài người được biết số di động của anh: Một đặc quyền giúp họ có một bàn trống ngay cả trong những tối quán đông khách.
Trong khi Marcus cầm chiếc điện thoại lên, Jonathan ngắm nhìn con trai đang dần ngủ thiếp đi trên băng ghế. Anh những mong có được khoảng chục ngày nghỉ để chăm sóc Charly chu đáo hơn nhưng lại không thể tự cho phép mình làm vậy. Anh vừa mới thoát khỏi vòng xoáy nợ nần gần như đã nhấn chìm anh vài năm trước, và cơn hoảng loạn đó đã dạy anh biết tránh xa những hạn thanh khoản, những khoản thanh toán tiền mặt, những thương phiếu chưa thanh toán và các điều luật hình sự xử lý việc thanh toán chậm trễ.
Anh nhắm mắt trong tâm trạng rã rời và Francesca lại hiện lên, trong bộ dạng anh đã trông thấy tại sân bay. Đã hai năm trôi qua mà nỗi đau vẫn còn nguyên. Gần như không thể chịu thấu, anh mở mắt rồi nhấp một ngụm rượu để xua tan hình bóng cô. Anh đã không có được cuộc sống như hằng mong muốn, nhưng đó vẫn là cuộc đời anh.
– Này, cô nàng này không tệ đâu nhé! Marcus reo lên phấn khích trong khi lướt ngón tay không lấy gì làm sạch sẽ trên màn hình cảm ứng để xem ảnh chụp lưu trong chiếc điện thoại.
Tò mò, Jonathan ngó sang nhìn màn hình.
– Để xem nào.
Trong số hình chụp cô gái trẻ có một vài tấm người mẫu tạo dáng khá khêu gợi. Những tấm ảnh đó đều được đặt chế độ chụp đen trắng: đồ ren mỏng, dải đeo tất bằng xa tanh, bàn tay đưa lên e ấp che ngực hoặc để hờ trên đường cong nơi hông. Không có gì quá nghiêm trọng vào thời buổi này khi một số kẻ còn tung clip sex của chính mình lên mạng Internet…
– Cho con xem với được không? Charly hỏi khi bừng tỉnh giấc.
– Không, không. Con ngủ lại đi. Cái này trẻ con không xem được.
Dù sao thì cũng khá ngạc nhiên khi cô ả lắm chuyện ở sân bay, với điệu bộ cảnh vẻ như thế, lại có những tấm hình gợi tình đến thế này.
Có phần kinh ngạc hơn là thích thú, Jonathan chỉnh chế độ zoom vào mặt người mẫu. Nhìn bề ngoài, cô nàng có vẻ vui ra mặt, sẵn sàng cống hiến cho cuộc chơi, nhưng đằng sau nụ cười phô diễn ấy người ta có thể đoán được thái độ đầy ngượng ngùng. Rõ ràng những bức hình dạng này nói đúng ra là yêu cầu của người chụp cô nàng, kẻ trong một khoảnh khắc đã tự coi mình là Helmut Newton [3]. Ai là kẻ cầm máy ảnh đó? Chồng cô nàng? Người tình? Jonathan nhớ là đã gặp gã đó tại sân bay, nhưng anh không tài nào hình dung được khuôn mặt gã.
– Thôi nào, như thế đủ rồi đấy! anh quả quyết nói rồi tắt phụp điện thoại trước ánh mắt thất vọng của Marcus.
Bỗng cảm thấy mình chẳng khác nào một kẻ biến thái thích thị dâm, anh tự hỏi mình có quyền gì mà đi sâu vào lục lọi đời tư của người phụ nữ này.
– Cứ làm như cô nàng sẽ thấy ngại khi xem xét trong máy cậu ấy! anh chàng người Canada lưu ý anh.
– Tớ mặc xác. Đằng nào thì cô ta cũng chẳng bao giờ tìm thấy dạng ảnh đó trong điện thoại của tớ! Anh thốt lên rồi rót cho mình một ly Screaming Eagle. Cậu đừng tưởng là tớ thích thú với việc chụp ảnh Popaul…
Thứ rượu vang này đậm đà vị nho đỏ và bánh mì tẩm gia vị. Vừa nhấm nháp thứ đồ uống tuyệt hảo, Jonathan vừa thầm điểm lại những gì được lưu trong điện thoại di động của anh. Nói cho đúng ra thì anh hoàn toàn chẳng còn nhớ gì hết.
Dù thế nào đi nữa thì cũng chẳng có gì riêng tư hay nguy hại cả, anh tự trấn an. Về điều này thì anh đã nhầm hoàn toàn.
Paris 7h30
Được trang trí bởi những đường kẻ sọc trên nắp xe, chiếc Jaguar XF đời mới nhất lướt nhanh trong sắc xanh lơ lạnh lẽo như kim loại của vùng ngoại ô Paris. Với toàn những chất liệu sang trọng – da bọc trắng, gỗ hồ đào, nhôm xước – khoang lái toát lên vẻ xa hoa và tiện nghi. Trên ghế sau chất đầy hành lý có in họa tiết Monogram cùng với túi đựng đồ chơi gôn và một cuốn tạp chí Fig Mag.
– Em chắc chắn muốn mở cửa tiệm hôm nay chứ? Raphaël hỏi lại lần nữa.
– Anh ơi! Madeline kêu lên. Chúng ta đã nói chuyện này nhiều lần rồi mà.
– Ta có thể kéo dài kỳ nghỉ kia mà… anh nằn nì. Anh lái thẳng đến Deauville, ta sẽ nghỉ qua đêm ở Normandy rồi ngày mai sẽ dùng bữa sáng cùng bố mẹ anh.
– Nghe hấp dẫn quá, nhưng… thôi anh ạ. Mà hơn nữa, anh cũng có cuộc hẹn đưa khách hàng đi thăm công trường còn gì.
– Chính em là người quyết định, kiến trúc sư đầu hàng, rẽ sang đại lộ Jourdan.
Denfert-Rochereau, Montparnasse, Raspail: chiếc xe chạy gần như qua cả quận XIV trước khi đỗ trước số nhà 13 phố Campagne-Première có cánh cổng màu lục thẫm.
– Tối nay anh qua cửa tiệm đón em nhé?
– Thôi anh, để em đi xe máy tới.
– Em sẽ đóng băng mất!
– Có thể lắm, nhưng em yêu chiếc Triumph của em! Cô đáp rồi hôn anh.
Họ ôm siết nhau cho tới khi hồi còi vội vã của một tài xế taxi tàn nhẫn kéo họ ra khỏi thế giới của riêng hai người.
Madeline sập cửa xe lại rồi hôn gió tạm biệt người yêu. Cô bấm mã mở cánh cổng dẫn vào một khoảng sân lác đác cây cối. Ở đó, ngay sát khu vườn là căn hộ cô thuê từ ngày chuyển tới sống tại Paris.
– Chà! Nhiệt độ trong này chắc chỉ âm 15 độ! Cô run cầm cập khi bước vào căn nhà nhỏ hai tầng, điển hình cho các xưởng nghệ sĩ được xây dựng trong khu phố vào cuối thế kỷ XIX.
Cô quẹt diêm nhóm hệ thống sưởi lên rồi cắm bình siêu tốc để chuẩn bị pha trà.
Căn xưởng vẽ nguyên thủy từ lâu đã nhường chỗ cho một căn hộ hai phòng xinh xắn bao gồm một phòng khách, một khu bếp nhỏ và một phòng ngủ trên gác lửng. Nhưng trần nhà cao, những khung cửa kính màu khổ lớn trên bức tường chính và sàn nhà bằng gỗ sơn vẫn gợi nhắc khuynh hướng nghệ thuật ban đầu và góp phần tạo nên nét quyến rũ độc đáo cho nơi này.
Madeline bật kênh TSF Jazz, kiểm tra xem lò sưởi đã bật mức to nhất chưa rồi nhấm nháp trà, lắc lư theo nhịu kèn trompette của Louis Amstrong trong lúc chờ căn hộ ấm dần lên.
Cô tắm qua dưới vòi sen, rồi rùng mình bước ra khỏi phòng tắm mở tủ áokhoác vội chiếc áo phông giữ nhiệt, quần jean và một chiếc áo len Scotland dày sụ. Sẵn sàng lên đường, cô ăn vội một thanh Kinder Bueno, vừa nhai vừa khoác thêm chiếc áo bu dông da rồi quàng quanh cổ chiếc khăn dày nhất.
Lúc cô leo lên yên chiếc mô tô màu vàng lửa đã là hơn 8 giờ. Cửa tiệm của cô không mở cửa, nhưng cô muốn ghé qua nó trước khi đi gặp Raphaël. Tóc tung bay trong gió, cô phóng trên quãng đường khoảng trăm mét dọc con phố cô hằng yêu quý. Chính tại đây, Rimbaud và Verlaine đã sáng tác thơ, Aragon và Elsa đã yêu nhau, Godard đã lưu danh muôn thuở hồi kết bộ phim đầu tay của mình. Trong cảnh phim buồn vô hạn này Jean-Paul Belmondo “kiệt sức” ngã vật xuống đất sau khi nhận một phát đạn vào lưng, ngay trước mắt vị hôn thê người Mỹ.
Madeline rẽ sang đại lộ Raspail rồi men theo phố Delambre tới tận Khu vườn kỳ diệu, tiệm hoa được mở cách đây hai năm và giờ đã trở thành niềm tự hào của cô.
Cô vừa mở cửa sắt cuốn vừa nơm nớp lo. Chưa bao giờ cô đi vắng lâu đến thế. Suốt kỳ nghỉ ở New York, cô đã nhờ Takumi trông nom hộ cửa tiệm, anh chàng học việc người Nhật đã học xong khóa đào tạo dành cho người trồng hoa tại Paris.
Bước vào bên trong tiệm rồi, cô liền thở phào nhẹ nhõm. Takumi đã làm đúng lời cô dặn. Chàng trai trẻ người châu Á đã đi Rungis mua những đồ thiết dụng từ hôm qua và căn phòng đang tràn ngập hoa tươi: lan, tulip trắng, loa kèn trắng, trạng nguyên, râm bụt tím, mao lương, trinh nữ, thủy tiên bấc, hoa bướm, loa kèn đỏ. Cây thông Noel to mà họ đã cùng nhau trang trí đang lấp lánh khoe sắc, những bó tầm gửi và nhựa ruổi thì rủ từ trên trần xuống.
Đã thấy yên tâm, cô cởi áo khoác ra, đeo tạp dề vào, tập hợp dụng cụ làm việc – kéo tỉa, bình tưới, lưỡi xới – rồi hăm hở bắt tay vào những nhiệm vụ khẩn cấp nhất, lau chùi lá một cây sung, sang chậu một cây lan, cắt tỉa tạo hình một chậu bonsai.
Madeline đã thiết kế cửa tiệm hoa của cô như một xứ sở diệu kỳ và thơ mộng, một không gian lãng mạn, một chốn thanh bình và an toàn cách xa bầu không khí ồn ào náo động của thành phố. Dù một ngày trôi qua có buồn bã thế nào, cô vẫn muốn các khách hàng rũ bỏ được những phiền muộn sâu kín ngay khi bước qua ngưỡng cửa tiệm hoa. Vào mùa Giáng sinh, bầu không khí trong Khu vườn kỳ diệu trở nên đặc biệt quyến rũ, gợi nhớ lại những mùi hương thuở ấu thơ và những truyền thống xưa cũ.
Sau khi đã hoàn thành những bước cơ bản, cô lôi đám thông ra trang trí mặt tiền rồi mở cửa tiệm vào đúng lúc đồng hồ điểm 9 giờ.
Cô mỉm cười khi nhìn thấy khách hàng đầu tiên bước vào – trong nghề này, một câu ngạn ngữ cổ có nói rằng nếu khách mở hàng là đàn ông, ngày hôm đó sẽ đắt hàng, rồi lại mặt mũi sa sẩm trước yêu cầu của người khách ấy: Anh ta muốn gửi một bó hoa tới vợ mình mà không kèm theo danh thiếp. Đây là chiến thuật mới đang thịnh hành của các ông chồng ghen tuông: gửi tặng hoa nặc danh để chờ xem phản ứng của vợ mình như thế nào. Nếu khi anh chồng về tới nhà, cô vợ không kể gì về bó hoa, anh ta có thể kết luận nhanh chóng rằng vợ mình đang cặp bồ… Người khách thanh toán hóa đơn rồi rời khỏi tiệm, không thèm quan tâm xem bó hoa ấy gồm có những gì. Trong khi Madeline đang một mình bắt tay vào thiết kế bó hoa để Takumi kịp giao tới ngân hàng nằm trên phố Boulard vào lúc 10h thì bỗng nghe vang lên khắp tiệm tiếng ghi ta điện trong bài Jumpin’ Jack Flash. Cô chủ tiệm hoa nhướng mày đầy nghi hoặc. Bản nhạc nổi tiếng của Rolling Stones vọng ra từ chiếc ba lô có chứa điện thoại di động của gã Jonathan gì gì đó. Cô ngần ngừ chưa muốn bắt máy, nhưng cô còn đang mải cân nhắc thì tiếng chuông đã tắt. Im lặng được khoảng một phút, rồi lại có một âm thanh ngắn và trầm đục cho thấy người vừa gọi đã để lại một tin nhắn.
Madeline khẽ nhún vai. Dẫu gì cô cũng sẽ không nghe bất cứ cuộc gọi nào của người khác… Cô còn khối việc phải làm! Vả lại, cô mặc xác cái gã Jonathan gì gì vừa thô lậu vừa đểu cáng đó. Vả lại…
Chợt cảm thấy tò mò đến không thể cưỡng lại, cô ấn vào màn hình cảm ứng rồi áp điện thoại lên tai. Một giọng trầm và ngần ngại vang lên: Một phụ nữ người Mỹ, giọng nói pha chút âm sắc Ý, đang khó khăn lắm mới kìm được những tiếng thổn thức.
“Jonathan à, em đây, Francesca đây. Làm ơn gọi lại cho em. Chúng ta cần nói chuyện, chúng ta cần… Em biết em đã phản bội anh, em biết anh không hiểu tại sao em lại phá hỏng tất cả. Hãy quay lại đi, xin anh, hãy làm vậy vì Charly và hãy làm vậy vì chúng ta. Em yêu anh… Anh sẽ không quên, nhưng anh sẽ tha thứ cho em. Chúng ta chỉ có một cuộc đời này thôi, Jonathan, và chúng ta được sinh ra là để cùng nhau sống cuộc đời dó và có thêm những đứa con khác. Hãy tiếp tục thực hiện những kế hoạch của chúng ta, hãy tiếp tục sống như trước. Không có anh thì chẳng còn là cuộc sống nữa…”
Giọng người phụ nữ Ý tắc nghẹn trong một nỗi buồn thương vô hạn và tin nhắn thoại kết thúc ở đó.
Mất một lúc, Madeline ngồi bất động, xáo trộn bởi những gì vừa nghe được, và chợt cảm thấy tội lỗi. Hai cánh tay cô nổi da gà. Cô rùng mình rồi đặt chiếc điện thoại vẫn còn chất chứa nước mắt lên quầy, tự hỏi rằng cô đang định làm gì thế nhỉ.
——————————–
1. Tiếng Anh trong nguyên bản: Những mảnh đời riêng lẻ. (Mọi chú thích nếu không có gì thêm đều là của người dịch)
2. Tên các loại rượu mạnh.
3. Nhiếp ảnh người Úc gốc Đức, nổi tiếng với những bức ảnh khỏa thân đen trắng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.