12 giờ 36 phút sáng thứ ba
Họ mang tất cả quần áo và thực phẩm đến: gạo, đậu, trứng, pho-mát feta, bánh mì tròn và trà ngọt. Ông ta bốc một miếng nhỏ, sau đó đẩy cái đĩa ra phía trước cho Gabriel. Lúc đầu Gabriel từ chối, nhưng Ibrahim nài nỉ, và họ ngồi tại đó một lát, người tù và người thẩm vấn cùng ăn một bữa cơm đơn giản trong im lặng.
“Chúng tôi, những người Hồi giáo có tập tục được gọi là Eis”, Ibrahim nói. “Nếu tín đồ nào đó bị giết, thì người đó được cho ăn một bữa cuối cùng”. Hắn nhìn từ chân mình lên Gabriel. “Có phải đó là những điều anh đang làm phải không? Anh bạn, cho con chiên cúng tế của mình một bữa cuối cùng rồi chết phải không?”.
“Họ giam giữ ông bao lâu?”, Gabriel hỏi.
“Sáu tháng”, Ibrahim nói. “Và việc thả chẳng giống như việc bắt giam tôi. Họ đưa tôi đi vòng các đường phố của Minya với áo quần rách tả tơi và ra lệnh thả tôi về nhà. Khi tôi vào nhà, vợ tôi thét lên. Cô ấy tưởng tôi là ăn mày nên không nhận ra”.
“Tôi nghĩ là khi ông về đến nhà con gái của ông đã không còn ở đó nữa”.
Ibrahim xé một miếng bánh mì và quết nó quanh bát cơm. “Nó chết trong đêm đó, trong các phòng tra tấn của Minya. Nó bị mấy cảnh sát mật vụ hãm hiếp cho đến chết. Chúng chôn nó trong khu mộ của tội phạm, rìa sa mạc, và không cho tôi đi thăm. Theo chúng, đó là một kiểu tra tấn hiệu quả”.
Hắn hớp một ngụm trà, suy tư. “ Vợ tôi đổ lỗi cho tôi về cái chết của Jihan. Tất nhiên là cô ấy đúng. Giá mà tôi không tham gia vào tổ chức Thanh kiếm Allah thì Jihan không bao giờ bị bắt. Rất nhiều ngày sau vợ tôi tránh gặp tôi. Một tuần sau, tôi được trường đại học thông báo là không cần tôi dạy nữa. Tôi là một người đau khổ. Tôi mất tất cả. Công việc, con gái và cả số phận của mình”.
“Tôi không còn lựa chọn nào cả. Để tồn tại nghĩa là phải sống trong bóng tối. Tôi muốn cắt dây trói của mình với Thanh kiếm Allah. Tôi chẳng thích chính trị của người Hồi giáo tí nào. Tôi muốn có cuộc đời mới, tại một nơi mà người ta không giết hại những bé gái trong các phòng tra tấn”.
“Còn Amsterdam?”.
“Gia đình vợ tôi sống ở khu Tây. Họ bảo vợ chồng tôi rằng cộng đồng hồi giáo ở Hà Lan đang phát triển và đa số người Hà Lan đang chờ đón và tha thứ cho chúng tôi. Tôi xin visa tại toà đại sứ Hà Lan và được cấp ngay lập tức”.
“Tôi nghĩ là ông không thông báo với chính phủ Hà Lan về mối quan hệ của ông với Thanh kiếm Allah”.
“Chắc là tôi đã quên”.
“Và phần cuối câu chuyện ông đã kể cho tôi vào cái đêm ở Amsterdam”.
“Hoàn toàn đúng như vậy. Tôi làm đường. Sau đó tôi quét dọn. Tôi trang trí nội thất”, hắn ta đưa cánh tay bị thương lên và nói. “Thậm chí sau khi tôi bị mất mấy ngón tay”.
“Và ông không còn tiếp xúc với các thành viên Thanh kiếm Allah khác?”.
“Hầu hết trong số họ trốn từ Ai Cập sang Mỹ hay định cư ở Luân Đôn. Thỉnh thoảng có người đi khắp Amsterdam”.
“Lúc nào?”
“Tất nhiên, họ cố lôi kéo tôi về lại cuộc chiến. Tôi bảo họ là tôi chẳng ham thích gì về chính trị Hồi giáo cả. Tôi bảo họ là tôi muốn sống đời sống riêng của một người Hồi giáo và muốn bỏ lại các vấn đề cai trị và đất nước cho những người khác”.
“Và Thanh kiếm Allah đã làm theo mong ước của ông?”.
“Tuy nhiên, con trai tôi lại không chấp thuận mong ước của tôi”.
“Ông có nghĩ là, vì con trai ông mà chúng ta ở đây tối nay?”
Ibrahim gật đầu.
“Thằng con, một nửa là Ai Cập và một nửa là Palestine – một sự pha trộn dở hơi”.
“Rất dở hơi”.
“Tên nó là gì?”
“Ishaq”, gã đàn ông Ai Cập nói. “Tên nó là Ishaq”.
“Sự việc bắt đầu bằng những câu hỏi vô hại, loại câu hỏi bất kỳ thanh nhiên nào nghi ngờ cũng có thể hỏi cha mình. Tại sao chúng ta bỏ quê hương ở Ai Cập sang châu Âu? Tại sao cha đang là Giáo sư trường đại học lại đi quét đường? Tại sao chúng ta sống trên một vùng đất xa lạ mà không sống ở quê hương Hồi giáo? Đã nhiều năm, tôi chỉ kể cho qua chuyện với nó, nhưng khi nó lên mười lăm tuổi, tôi mới nói sự thật”.
“Ông có kể với nó rằng ông là một thành viên của Thanh kiếm Allah không?”.
“Có”.
“Ông kể với nó về việc ông bị bắt, bị tra tấn và cái chết của Jihan?”.
Ibrahim gật đầu. “Tôi hy vọng rằng qua việc kể cho Ishaq sự thât, tôi sẽ dập tắt những cục than hồng thánh chiến đang cháy âm ỉ trong lòng nó. Nhưng câu chuyên của tôi lại có tác dụng ngược. Ishad lại càng bị lôi cuốn vào chính trị Hồi giáo nhiều hơn; nó càng trở thành thằng bé hung dữ; nó bắt đầu căm ghét chế độ Ai Cập và người Mỹ, những người đã trợ giúp chế độ đó”.
“Và nó muốn trả thù”.
“Có một điều mà anh và những người Mỹ dường như không bao giờ hiểu hết”, Ibrahim nói. “Khi chúng tôi bị đối xử không đúng, chúng tôi phải tìm cách trả thù. Điều đó nằm trong văn hoá, trong dòng máu của chúng tôi. Mỗi khi các anh giết hay tra tấn ai đó trong chúng tôi nghĩa là các anh đã tạo ra một dòng họ thù hằn, buộc phải trả thù”.
Hơn ai hết, Gabriel biết Ibrahim nói đúng. Anh xúc một ít cơm, đậu và bánh mì rồi ra hiệu cho Ibrahim kể tiếp.
“Ishaq bắt đầu rút khỏi xã hội người Hà Lan, không giữ mối quan hệ bạn bè với bọn con trai Hà Lan nữa mà chuyển sang liên hệ thường xuyên với bọn con gái Hà Lan, mấy con dân chơi và đĩ thoã. Nó đội mũ Kufi và mặc đồ Galabiya. Nó chỉ nghe nhạc Arập và không uống bia. Khi lên mười tám tuổi, nó bị bắt vì đã đánh một gã đồng tính bên ngoài quán rượu ở Leidseplein; và tôi phải tìm đến gã bị thương đó, xin bồi thường thương tật”.
“Nó có học đại học không?”.
Ibrahim gật đầu. “Lúc mười chín tuổi, nó được vào học ở Khoa học Điện toán và Thông tin đại học Erasmus ở Rotterdam. Tôi hy vọng rằng những yêu cầu về việc học sẽ làm dịu cơn sốt Hồi giáo trong nó, nhưng khi nó ở Rotterdam, nó càng hướng về Hồi giáo nhiều hơn. Nó theo một nhóm Hồi giáo trẻ cùng xu hướng. Nó thường đi tới các vùng biên giới khác nhau và dự các cuộc họp. Nó để râu. Nó giống như tôi hồi còn trẻ, ai cũng tưởng như đó chính là tôi trẻ lại”.
Hắn ta ăn một lúc rồi tiếp. “Tôi sang châu Âu để lánh xa chính trị Hồi giáo. Tôi muốn có một cuộc sống khác cho tôi và cho con trai nhưng nền chính trị Hồi giáo cực đoan quái thai đó cũng đã tràn đến phương Tây. Dưới nhiều phương diện, quan điểm chính trị này càng cực đoan và độc hại hơn Hồi giáo ở phương Đông; nó bị làm băng hoại bởi đồng tiền của Arập và các lãnh tụ Arập. Đó là Wahhabi và Salafist trong viễn cảnh của nó. Nó là đứa độc hại và tội phạm”.
“Rồi sau đó nó dính líu đến các hoạt động của bọn khủng bố?”.
Ibrahim lắc đầu. “Nó quá bối rối để hứa hẹn với bất kỳ một tổ chức hay một lý tưởng nào. Nó không chắc mình là người Ai Cập hay người Palestine. Rồi một ngày, nó làm bạn với một số kẻ thuộc phe Hamas; sau đó nó ca ngợi và cổ vũ cho Mujahideen ở Afghanistan”.
“Rồi điều gì xảy ra?”.
“Osama Bin Laden cho máy bay đâm vào các toà nhà ở New York và Washington”, Ibrahim nói. “Và mọi việc đã thay đổi”.
Đúng là Gabriel chưa sẵn sàng bỏ ý nghĩ chờ đợi chuyến bay ở Mỹ nên anh gõ mạnh hai tiếng lên cửa phòng khách để gọi Sarah và nói thầm vài tiếng vào tai cô về việc hoãn khởi hành chuyến bay vài phút. Sau đó anh nhìn Ibrahim và nói. “Ông đang kể tôi nghe về vụ 11/9. Tiếp đi”.
“Đó là một trận động đất, nó xé toang tấm màn lịch sử – không chỉ đối với phương Tây mà cả với chúng tôi”.
“Hồi giáo à?”.
“Những người theo Hồi giáo”, hắn sửa lại lời Gabriel. “Những người Mỹ đã sai lầm nghiêm trọng sau vụ 11/9. Họ thấy những tín đồ Hồi giáo nhảy múa trên các con đường của thế giới Arập và ở châu Âu, do đó họ cho rằng tất cả các tín đồ Hồi giáo và những người theo Hồi giáo đều ủng hộ cho Osama. Họ gộp chúng tôi lại với những kẻ thánh chiến trên thế giới giống như Bin Laden và Zawahiri. Họ không nhận ra rằng đối với người nào đó, như tôi chẳng hạn, là một người Hồi giáo tử tế, các cuộc tấn công ngày 11/9 đúng là bất lương và tàn bạo đối với những gì đã diễn ra trên thế giới văn minh này. Chúng tôi thuyết phục những người theo Hồi giáo hiểu rằng Osama và al-Qaeda vô cùng sai lầm khi tấn công vào Hoa Kỳ và gây ra cuộc chiến không thể nào thắng. Chúng tôi cho rằng Osama là tên bịp bợm đã gây ra nhiều đau thương cho người Hồi giáo hơn tất cả những chế độ tục bội giáo cộng lại. Và hơn nữa, chúng tôi cho rằng các cuộc tàn sát hàng ngàn người dân vô tội là một hành động phi Hồi giáo ghê tởm đã làm hại đến luật pháp và thuần phong mỹ tục Hồi giáo. Mười chín tên không tặc này được mời như những vị khách ở Mỹ và rồi chúng đánh mất danh dự vì đã gây ra chuyện đó. Thực ra chúng đã phản lại sự tiếp đón nồng hậu. Tôi không quan tâm đến việc ông nghĩ sao về chúng tôi và về đạo của chúng tôi. Tín đồ Hồi giáo là những người hiếu khách. Chúng tôi không đánh mất sự hiếu khách”.
Hắn ta đẩy cái đĩa lại phía Gabriel. Gabriel lấy một nửa quả trứng luộc và một miếng feta.
“Tôi cho rằng Ishaq không xem đó là cách của con trai ông”.
“Không phải như thế”, Ibrahim nói. “11/9 đã đẩy nó đến bờ vực thẩm”.
“Vậy thì cái gì đã đẩy nó xuống vực thẳm?”.
“Irắc”.
“Vậy nó được tuyển dụng ở đâu?”.
“Nó ở Amsterdam cùng lúc với vợ nó, một cô gái Ai Cập tên là Hanifah, và một đứa con, tên Ahmed. Trong những ngày xâm lược của Mỹ, nó đến Ai Cập, nơi nó đã cam kết tham gia tổ chức Thanh kiếm Allah. Tổ chức này đã huấn luyện cơ bản cho nó trong các trường bí mật và trong các trại ở sa mạc. Rồi họ giúp nó sang Irắc, nơi đó, nó được huấn luyện và thực tập với al-Qaeda ở Mesopotamia, nơi nó tiếp xúc gần gũi với một gã đàn ông tên là Samir Al-Masri. Một tháng sau, nó chuyển gia đình đến Copenhagen và xin việc ở một tổ chức có tên Hội đồng Ngoại giao Hồi giáo ở Đan Mạch. Tôi e rằng, hội này chẳng có gì ngoài việc làm bình phong cho các hoạt động của bọn thánh chiến”.
“Con ông đã lập một tổ chức thứ hai từ Copenhagen?”.
“Có lẽ thế”.
“Và do đó khi Samir và tổ chức của hắn biến khỏi Amsterdam vài ngày trước khi tấn công, ông quyết định tiếp cận tôi. Ông cung cấp cho tôi đầy đủ thông tin với hy vọng làm lệch đi các hoạt động này, để con ông không thể tham gia vào đó được”.
Ibrahim lắc đầu chua chát.
“Ông đã nói dối tôi”, Gabriel nói, “ông đã lừa tôi để cứu mạng con ông”.
“Bất kỳ người cha tốt nào cũng làm thế cả”.
“Không, Ibrahim, vì cuộc sống của những người dân vô tội bị đe doạ. Đã có hơn ba trăm người chết vì ông và con trai của ông. Nếu ông kể cho tôi nghe sự thật – hoàn toàn sự thật – có thể chúng ta đã ngừng chiến đấu với nhau rồi. Thay vì ông đưa cho tôi những mảnh vụn, ông nên đưa những mảnh tương tự cho SSI cách đây hai mươi năm khi ông cố cứu mạng sống cho con gái của mình”.
“Và nếu tôi kể cho anh nghe nhiều hơn về đêm đó? Tôi nên kết thúc ở chỗ nào? Những người Mỹ khi đó sẽ cho tôi là tên khủng bố. Họ sẽ đưa tôi lên máy bay và đưa tôi trở về Ai Cập để tra tấn”.
“Ông có biêt Luân Đôn là mục tiêu không? Ông có biết họ đang vạch kế hoạch bắt cóc Elizabeth Halton và dùng cô ta để cứu chuộc anh bạn Sheikh Abdullah của ông?”.
“Tôi không biết gì về các kế hoạch của họ cả. Những tên này được đào tạo rất kỹ. Người nào giỏi chuyên môn sẽ bị lôi kéo vào hàng ngũ”.
Gabriel ngập ngừng. “Có kẻ đã làm thế. Có thể chính là ông, Ibrahim?. Có thể ông là người chỉ đạo toàn bộ các hoạt động. Có thể ông là một người mà họ gọi là Sphinx”.
“Sẵn sàng tin vào những chuyện vu vơ là căn bệnh của dân Arập, anh Allon, không phải là bệnh của một người Do Thái phục quốc. Anh càng phí công theo đuổi những chuyện ngớ ngẩn như thế chúng ta càng ít có thời gian để tìm con gái ngài đại sứ và đem cô ấy về quê hương”.
Gabriel chộp ngay một tiếng riêng biệt mà Ibrahim vừa nói, từ chúng ta.
“Và chúng ta sẽ cùng nhau làm việc đó như thế nào?”.
“Tôi tin rằng Ishaq là một trong những tên khủng bố đang giữ cô gái Mỹ đó làm con tin”.
Gabriel ngả người lên ghế. “Tại sao ông lại nghĩ thế?”.
“Ishaq rời Copenhagen cách đây hai tuần. Nó bảo Hanifah rằng nó đi Trung Đông, đại diện cho Hội đồng Ngoại giao Hồi giáo đi nghiên cứu. Để che đậy chuyện bịa đặt của mình, tối nào nó cũng điện về nhà lúc thằng Ahmed đã đi ngủ”.
“Làm sao ông biết?”.
“Bởi vì Hanifah nói với tôi”.
“Ông có nói chuyện với nó không?”.
“Tôi để lại tin nhắn cho nó, nhưng nó chẳng bao giờ gọi cho tôi”.
Gabriel đặt tập giấy và bút xuống bàn rồi đẩy sang cho Ibrahim.
“Tôi cần địa chỉ của căn nhà ở Copenhagen và số điện thoại đó”.
“Hanifah và Ahmed chẳng dính líu gì vào chuyện này cả”.
“Họ chẳng có gì mà phải sợ cả”.
“Tôi muốn anh phải hứa với tôi rằng chúng sẽ không bị hại gì nhé”.
“Ông đã ở tù mà còn dám đưa ra yêu sách, Ibrahim?”.
“Hứa với tôi đi, anh Allon, hứa với tôi là anh sẽ không làm hại gì chúng đấy”.
Gabriel gật đầu một cái. Ibrahim viết những thông tin ra giấy sau đó đẩy tập giấy về phía Gabriel và đọc lẩm bẩm hai dòng từ trang hai mươi hai của cuốn Genesis.
Sáng sớm hôm sau, Abraham dồn hết đồ đạc lên con lừa và đem theo hai người hầu của mình cùng người con trai tên là Isaac. Ngài chẻ miếng gỗ ra để đốt lửa làm lễ. Ngài bắt đầu lên đường tìm miền đất mà Chúa đã bảo với ngài.
“Ông biết kinh Hebrew à?”, Gabriel nói. “Nhưng nó không là con của ông, Ibrahim. Nó bị nhiễm virut của bọn thánh chiến rồi. Nó là con quái vật”.
“Cho dù vậy, nó vẫn mãi là con tôi”, hắn nhìn xuống tập giấy ngượng ngùng. “Nếu tôi nhớ không lầm, người Do Thái tin rằng Abraham đến Beersheba sau khi vượt qua thử thách của Chúa. Nhưng điều gì sẽ xảy đến với tôi? Tôi có được đưa về Ai cập để thẩm vấn nữa không hay vẫn phải ở đây?”. Hắn ta nhìn quanh phòng. “Đây là đâu?”.
“Tôi cho rằng điều đó phụ thuộc vào người Mỹ”.
Cái nhìn khinh khỉnh trong đôi mắt của Ibrahim làm cho ngườ ta hiểu rõ hơn rằng hắn nghĩ như thế nào về người Mỹ. “Tôi cho là nên gạt người Mỹ ra khỏi chuyện này”, hắn nói. “Tốt hơn tôi và anh nên qua cầu Jahannan một mình. Anh quyết định như thế nào thì cứ làm nhanh đi. Con gái của ngài đại sứ đang ở trong tay của một thằng thanh niên mà chị của nó đã bị giết bởi tay sai của Pharaoh. Nếu nó được lệnh giết cô ấy, thì nó chẳng nương tay đâu”.