10 giờ 15 phút đêm Giáng sinh.
Anh đỗ xe vào nơi hướng dẫn, trên đường Constantine ở mũi phía nam khu Hampstead Heath. Không có xe cộ nào khác lưu thông trên đường, và khi đến nơi, Gabriel không thấy dấu hiệu theo dõi nào, cho dù là phe ta hay phe địch. Anh tắt máy, nhấn nút mở ngăn chứa đồ bên trong xe, rồi mở bảng điều khiển bỏ chìa khoá vào trong. Mưa bắt đầu nhẹ hạt. Khi bước ra khỏi xe, anh tự trách sao mình lại không mang theo mũ.
Anh bước ra sau xe mở túi đựng đồ. Khi đang cố vươn người đến chiếc túi, anh nghe có tiếng ồn ào sau lưng, anh quay người lại thì thấy một đám trẻ trong dàn đồng ca vui vẻ tiến về chỗ anh. Có điều gì đó không bình thường, anh tự hỏi đó có phải là những kẻ theo dõi của Sphinx hay không, nhưng anh nhanh chóng gạt suy nghĩ đó khi chúng hát tặng anh bài hát mừng giáng sinh rồi diễu hành qua chỗ anh một cách vui vẻ. Anh đặt chiếc túi thứ hai lên đường rồi đóng cốp xe lại. Những đứa trẻ trong dàn đồng ca đang hát bài “O Come All Ye Faithful” bên ngoài một ngôi nhà gạch nhỏ treo đầy đèn lễ. Một bảng nhỏ trên cửa sổ ghi dòng chữ. HÃY CHO CHÚNG TÔI SỰ YÊN BÌNH TRONG ĐỜI.
Gabriel kéo hai chiếc túi đi vài thước dọc con phố, rồi băng qua một chiếc cầu, đi bộ tiếp qua một loạt những thanh ray đường sắt đã bị chìm dưới nước để vào bãi hoang. Bên phải anh là một con đường tối đen như mực. Trên chỗ nghỉ chân bên ngoài cánh cổng đã móc khoá, bốn người thanh niên nhập cư khoảng 20 tuổi đang đá bóng dưới ánh sáng vàng vọt của chiếc đèn natri. Họ dường như chẳng thèm để ý đến hành động của Gabriel khi anh lê bước chân mệt mỏi qua chỗ họ rồi lên dốc đồi, đến cái ghế đá mà bọ chúng đã bảo anh đợi người liên lạc tiếp theo. Anh bước đến chiếc ghế và thấy một người đàn ông nhỏ thó mặc chiếc áo khoác đã sờn và có hàm râu bện lại đang ngồi đó mất rồi. Ông ta nói giọng miền Đông Luân Đôn và đầy hơi men.
“Chúc mừng Giáng sinh nhé, anh bạn. Anh cần gì?”.
“Ông có thể rời khỏi cái ghế được không?”.
“Tối nay nó là của tôi mà”.
“Không còn là của ông nữa đâu”, Gabriel nói. “Xuống đi”.
“Xéo”.
Gabriel rút khẩu Browning của Adrian Carter rồi chĩa vào đầu ông ta. “Ông hãy biến khỏi đây và quên chuyện đã gặp tôi. Hiểu không?”.
“Rõ như ban ngày”.
Người đàn ông nhanh chóng đứng dậy biến vào màn đêm khu Heath. Gabriel lấy tay dò phía sau và bên dưới ghế, anh tìm thấy một chiếc điện thoại di động gắn ở phía dưới, bên trái ghế ngồi. Anh nhanh chóng tháo pin và tìm xem có thiết bị nổ nào được giấu trong điện thoại không. Sau đó nối pin lại rồi nhấn nút POWER. Khi điện thoại hoạt động trở lại, anh nói khẽ vào micro trong cổ họng.
“Nokia E50”.
“Số mấy?”, Uzi Navot hỏi.
Gabriel lặp lại.
“Có cuộc gọi gần đây không?”.
“Danh sách cuộc gọi không có gì”.
“Có tin nhắn không?”.
“Không”.
Gabriel nhìn xuống những ánh đèn của Luân Đôn rồi chờ chiếc điện thoại reo. Mười lăm phút sau, anh nghe một bản Adhan chói tai, bài cầu nguyện của người Hồi giáo. Anh tắt nó bằng cách bấm một nút rồi đưa điện thoại lên tai nghe. Chúng chỉ mất ba mươi giây để đưa ra một loạt chỉ dẫn kế tiếp. Gabriel bỏ điện thoại vào cái thùng rác cạnh chiếc ghế, sau đó xách hai cái túi rồi bắt đầu bước đi.
Tại trung tâm chỉ huy tạm thời bên trong Đại sứ quán Israel, Uzi Navot đặt tay cầm của chiếc đài an ninh xuống rồi chụp lấy ống nghe điện thoại. Anh nhanh chóng quay số gọi dinh Thames, Tổng hành dinh cạnh bờ sông của MI5 và 10 giây sau đã nghe tiếng Graham Seymour.
Seymour hỏi. “Giờ anh ta ở đâu?”.
“Đang đi ngang qua Hampstead Heath đến khu vực Highgat. Chúng vừa bảo anh ta rằng nếu có thiết vô tuyến hay vũ khí gì ở chặng dừng kế tiếp, Elizabeth Halton sẽ bị giết ngay. Vài giây nữa, anh ta sẽ rời khỏi tầm liên lạc của sóng điện thoại”.
“Chúng tôi phải làm gì?”.
“Truy tìm số điện thoại”.
“Cho chúng tôi tất cả những thông tin anh có”.
Navot đưa cho Seymour sơ đồ và số điện thoại.
“Tôi cho rằng chúng không ngu ngốc đến độ để lại thông tin trong phần lưu các cuộc gọi”.
“Điện thoại đó không có số nào, Graham”.
“Chúng ta sẽ cho chương trình chạy rồi xem có tìm được gì không. Tuy nhiên tôi không có nhiều hy vọng. Không may là không thiếu những tên thánh chiến trong ngành viễn thông của chúng ta. Chúng cực kỳ thông minh khi phải che đậy dấu vết bằng điện thoại”.
“Hãy cho chúng tôi bất cứ thứ gì ông tìm được”.
Navot dập điện thoại, cầm tai nghe máy vô tuyến trở lại. Anh làu bàu vài tiếng bằng thứ ngôn ngữ Hebew cụt ngủn rồi nhìn Shamron đang đi trong phòng, dựa người vào chiếc gậy.
“Anh đang phí thời gian bằng cách tra cứu chiếc điện thoại đó, Uzi. Thay vào đó anh nên đuổi theo những tên theo dõi”.
“Tôi biết mà sếp. Nhưng những tên theo dõi ở đâu ra?”.
Shamron dừng lại trước màn hình máy tính, nhìn vào hình ảnh bốn thanh niên đang chơi đá bóng bên ngoài đường chạy Hampstead Heath.
“Ít nhất một tên trong bọn chúng ở trước mặt anh đấy, Uzi”.
“Chúng ta đã theo dõi chúng từ trước khi Gabriel đến. Không có điện thoại. Không nhắn tin. Chỉ có bóng đá”.
“Thế thì anh nên giả định đó là những gì Sphinx bảo hắn ta phải làm”, Shamron nói. “Đó là cách mà trong trường hợp đó, tôi sẽ làm – một tín hiệu hữu hình, theo kiểu bài bản trường lớp. Nếu Gabriel sạch, cứ việc chơi bóng. Nếu Gabriel đang có người theo, hãy tranh cãi nhau. Nếu Gabriel có máy vô tuyến, hãy hút điếu thuốc nghĩ ngơi cái đã”. Shamron chúi người vào màn hình. “Như anh chàng đang làm ngoài kia ấy”.
“Ông nghĩ một trong số đó là kẻ chỉ điểm sao?”.
“Tôi đánh cược mạng sống của mình đó, Uzi”.
“Điều đó có nghĩa là có ngừơi nào khác trong khu vực có thể nhìn thấy anh ta – người nào có mang theo điện thoại di động hay máy nhắn tin hai chiều”.
“Chính xác”, Shamron nói. “Tuy nhiên anh sẽ không bao giờ tìm thấy hắn. Giờ hắn đã biến mất. Phương án duy nhất của anh là theo dõi tên chỉ điểm”.
Navot nhìn vào màn hình. “Tôi không có đủ người theo dõi hết bốn tên”.
“Không cần phải theo dõi bốn tên, chỉ cần theo dõi một tên thôi. Phải chắc chắn là anh chọn đúng người”.
“Người nào?”.
“Eli có linh cảm rất tốt về những chuyện như thế này”, Shamron nói. “Hãy để cho Eli quyết định. Cho dù làm gì, phải bảo đảm anh có một ký hiệu nữa cho Gabriel trước khi anh ta rời Highgate. Nếu bị mất dấu thì ta có thể chẳng bao giờ tìm lại được anh ta”.
Navot vươn người đến chiếc máy vô tuyến. Shamron lại tiếp tục đi lòng vòng trong phòng.
Gabriel vứt khẩu Browning và máy vô tuyến vào một tán cây ở giữa khu Hampstead Heath, sau đó băng qua con đê giữa hồ Highgate rồi tiến ra đường Millfield. Một bức ảnh chụp chiếc BMW xanh đậm gắn trên chiếc cột đèn gần nhất. Bản thân chiếc xe cũng nằm cách đó 50 thước dọc theo con đường, bên ngoài một căn nhà gạch lớn đứng trơ trọi có một đàn tuần lộc đang vui đùa trên bãi cỏ. Gabriel mở cửa sau nhìn vào trong. Chìa khoá nằm giữa khoang chứa hàng. Anh rút chúng ra, đặt chiếc túi vào trong, sau đó kiểm tra toàn bộ chiếc xe trước khi leo vào sau tay lái, ngập ngừng xoay chìa khoá.
Động cơ khởi động ngay. Gabriel mở hộp chứa găng tay và nhìn thấy một tờ giấy, anh đã kiểm tra nó trong ánh sáng hắt ra từ bảng điều khiển. Trang giấy có một loạt những chỉ dẫn khá chi tiết – một chuyến xe sẽ đưa anh từ Highgate đến mũi đất cách Essex khá xa có cái tên khá phù hợp Foulness Point – Điểm bẩn thỉu. Trên ghế dành cho khách có tập bản đồ đường phố Bartholomew có nhiều chỗ bị sờn, ghi năm 1995 và mở đến số bản đồ 25. Điểm đến được đánh dấu X. Vùng nước xung quanh được ghi màu đỏ: KHU VỰC NGUY HIỂM.
Gabriel vào số rồi lướt qua khúc quanh dưới ánh mắt dõi theo của một con tuần lộc đang mỉm cười. Anh rẽ vào đường Merton, theo lời hướng dẫn, đi theo hướng đông dọc theo rìa của nghĩa trang Highgate. Trên đường Hornsey, một khách bộ hành mặc chiếc áo mưa xấu xí bước xuống đường. Gabriel đạp phanh gấp, nhưng không tránh được cú va chạm nhỏ làm vị khách bộ hành văng xuống đường nhựa. Người đàn ông nhanh chóng bật dậy giận dữ đấm mạnh lên mui xe, rồi vừa khi vươn người đến gần bánh xe phía ghế hành khách, anh ta bỏ đi. Gabriel nhìn anh ta bước đi rồi chạy qua đường Archway. Anh rẽ trái rồi hướng đến M25.
Cùng lúc đó ở Hampstead Heath, kẻ lang thang trở về chỗ ngồi của mình. Anh ta lục tung thùng rác mất vài giây, dường như đang tìm miếng gì có thể ăn được, rồi nằm trên băng ghế nhìn xuống cảnh thành phố Luân Đôn. Suy nghĩ của anh ta không tập trung vào thức ăn hoặc đồ uống mà là vào bốn thanh niên đang đi thành hàng trên chiếc cầu đi bộ nối qua đường Constantine. Chúng tôi nghĩ một trong bọn chúng là kẻ chỉ điểm, Uzi Navot đã nói. Sếp lớn muốn anh quyết định. Anh chọn tên mặc chiếc áo vải bông chéo, giày Converse đế cao màu đen, mũ len Bob Marley. Hắn trông khá bảnh bao và già dặn so với một thanh niên trẻ như vậy, nhưng Lavon còn bảnh hơn. Lavon bảnh bao hơn lúc nào hết. Anh chờ đợi cho đến khi bốn tên thanh niên đi khỏi tầm mắt mới tháo bộ râu giả và chiếc áo khoác cũ mèm rồi bắt đầu theo dõi chúng.
Trong chín mươi phút đầu tiên trong chuyến hành trình của Gabriel, bầu trời chỉ có mưa phùn rả rích, nhưng khi anh băng qua chiếc cầu kéo dẫn đến mũi Foulness, trời mưa như trút nước biến phố thành dòng sông uốn quanh. Kính chiếu hậu không cho thấy có đèn đường và hướng ngược lại cũng không có. Gabriel, khi lướt nhanh qua những nông trại yên bình và những con mương màu xanh, cho phép mình suy nghĩ vẩn vơ. Đây có phải là hình ảnh cuối cùng của mình trên thế giới này hay không – không phải là thung lũng Jezreel nơi anh sinh ra, không phải là Jerusalem hay những con phố nhỏ hẹp của Viên yêu dấu, mà là mũi đất đầy gió ở rìa Biển Bắc.
Cách 5 dặm bên kia chiếc cầu kéo, giữa cơn mưa, Gabriel thoáng thấy một dấu hiệu báo hiệu con đường sắp kết thúc. Vì những lí do chỉ có anh mới biết, anh cẩn thận lưu ý về thời gian, lúc đó là 12 giờ 35. Một phần tư dặm sau, anh rẽ vào một chỗ đỗ xe trống trải ở mũi Foulness và theo như hướng dẫn, anh tắt máy. Cứ để chìa khoá trong ổ, giọng đã nói với anh ở Hampstead Heath. Hãy mang túi xách ra mũi đất để lên bờ biển. Trong vài giây tuyệt vọng, anh nghĩ đến chuyện ném tiền vào một chỗ nào đó rồi lái xe với tốc độ ánh sáng để trở về Luân Đôn. Tuy nhiên, anh lại chầm chậm kéo chiếc túi qua một chỗ hở trên đê chắn sóng bằng đất, xuống một con đường cát dẫn đến bờ biển hẹp.
Khi gần đến mép nước, anh nghe một tiếng động giống như gió thổi vào đám cỏ trên đụn cát. Sau đó, từ khoé mắt, anh chú ý hoạt động của một vật gì màu đen mà nếu là trong một đêm trăng sáng, anh có thể nhầm với một bóng trăng đang đi qua. Anh không nhìn thấy người tung ra cú đấm như búa tạ vào một bên đầu, anh cũng không nhìn thấy cây kim đâm vào một bên cổ. Chiara xuất hiện, mặc bộ váy trắng dính đầy máu, van nài anh đừng chết. Sau đó cô biến thành một ánh sáng xanh xẹt qua rồi biến mất.
Shamron và Navot đứng cạnh nhau trong khu vực chỉ huy, im lặng nhìn ánh sáng xanh đang loé sáng. Trong mười phút qua, nó chưa di chuyển. Shamron biết nó sẽ không bao giờ di chuyển.
“Tốt hơn anh nên cử người nào ra đó để xem xét”, ông nói. “Chỉ để cho chắc chắn”.
Navot cầm máy vô tuyến lên.
Yossi đi theo tín hiệu dẫn đường của Gabriel đến tận khu vực biển Bắc. Anh đang tìm chỗ nghỉ ngơi trong quán cà phê mở suốt đêm nhìn xuống cửa sông Thames thì nhận được cuộc gọi của Navot. Ba mươi giây sau, anh ngồi sau bánh lái của chiếc Renault và lái xe hết tốc độ để đến mũi Foulness. Khi xe rẽ vào chỗ đỗ xe, anh nhìn thấy chiếc BMW đang đậu, cửa sau mở, chìa khoá vẫn còn nằm trong ổ khởi động. Anh rút chiếc đèn pin từ hộp đựng găng tay, đi theo một loạt dấu chân trên bờ biển ra mép nước. Những dòng chảy này được khơi dòng bằng ngón chân một người đàn ông, Yossi nghĩ dấu hiệu đó chứng tỏ người đàn ông này đã bất tỉnh, hay tệ hơn, là đã chết. Anh dùng máy vô tuyến gọi cho Navot ở trung tâm chỉ huy. “Gabriel mất dấu rồi”, Yossi nói. “Có vẻ như chúng mang anh ta đi bằng thuyền”.
Navot hạ ống nghe xuống nhìn Shamron.
“Tôi nghĩ những kẻ này đa đưa anh ta vào khu vực Biển Bắc rồi”. Shamron nói.
“Tôi đồng ý với ông. Nhưng chúng đã đưa anh ta đi đâu?”.
Shamron bước qua chỗ đặt bản đồ. “Đây này”, ông nói rồi chỉ vào một điểm ở phía bên kia của sông Crouch. “Có nhiều bến và những nơi khác cho thuyền nhỏ neo đậu. Cách duy nhất để đến đó vào giờ này trong đêm là bằng thuyền, có nghĩa là ta sẽ phải đi đường vòng khá xa”.
Navot quay lại chiếc máy vô tuyến lệnh cho các đội thực hiện việc truy đuổi. Sau đó, anh nhấc điện thoại thông báo tin này cho Graham Seymour ở tổng hành dinh MI5.