Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng

PHẦN 2: VÙNG ĐẤT CỦA NHỮNG NGƯỜI XA LẠ – CHƯƠNG 11: SỞ CẢNH SÁT LUÂN ĐÔN



Tôi sẽ chẳng than phiền nhiều lắm về một cú đánh hiểm ác lên đầu mình”.
Chiếc Limousine của Graham Seymour tiến chầm chậm ra khỏi sân trước của Sở cảnh sát Luân Đôn và rẽ vào đường Broadway. Người đàn ông thuộc MI5 trông rất mệt mỏi. Ông có quyền mệt mỏi. Bom đã nổ trên đường xe điện ngầm ở khu Mái vòm cẩm thạch, rạp xiếc Piccadilly, quảng trường Leciester và ngã tư Charing. Sáu nhà ngoại giao người Mỹ và nhân viên an ninh bị sát hại ở công viên Hyde Park, đặc biệt con gái của ngài đại sứ, Elizabeth Halton, đang mất tích và được cho là bị bắt cóc. Đến giờ, chỉ có một người bị bắt là Gabriel Allon.
Gabriel nói. “Họ yêu cầu tôi giơ tay lên và bỏ súng xuống. Tôi đã làm theo lệnh”.
“Phải cố hiểu điều đó xét theo quan điểm của họ. Anh sắp bắn vào đầu một người và xung quanh là tám xác chết. Anh thật may mắn là họ đã cho anh cơ hội để đầu hàng. Lẽ ra họ đã có thể sử dụng vũ khí theo thẩm quyền. Đó là công việc họ được huấn luyện khi đối diện với người mà họ tin là khủng bố”.
“Thật vậy ư? Chẳng lẽ người cố gắng ngăn chặn vụ tấn công như tôi lại bị cảnh sát Luân Đôn giết chết”. Trước sự im lặng giận dữ của Graham Seymour, Gabriel nhấn mạnh vấn đề. “Lẽ ra ông nên nghe tôi, Graham. Ông nên nâng mức báo động và đánh động vài tên khủng bố. Và có lẽ Elizabeth Halton và những người Mỹ còn lại nên ở lại trong Đại sứ quán thay vì chạy bộ trong công viện Hyde Park”.
“Tôi đã bảo anh đứng ngoài cuộc”.
“Đó có phải là lý do tại sao ông để tôi ngồi trong buồng giam 16 tiếng đồng hồ không Graham? Có phải đó là lí do ông để họ kết tội tôi và ông để họ lấy dấu tay và chụp ảnh tôi không?”.
“Hãy tha lỗi cho tôi vì không đến cứu anh sớm hơn, Gabriel. Tôi hơi bận”.
Gabriel nhìn ra những con đường trơn ướt của khu Westminster. Những con đường vắng tanh, trừ những sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục đứng gác ở mỗi góc phố. Graham Seymour cũng có lí do. Luân Đôn vừa trải qua một ngày đẫm máu nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ II. Gabriel hầu như không thể than phiền về chuyện đã phải ngồi gần như một ngày ở Sở cảnh sát Luân Đôn.
“Có bao nhiêu người chết vậy, Graham?”.
“Con số người chết cao hơn vụ tấn công tháng7 năm 2005”, Seymour đáp. “Đến giờ đã có 300 người chết, hơn 2.000 người bị thương. Tuy nhiên những vụ đánh bom này rõ ràng còn có mục đích khác là nhằm tạo ra bầu không khí hỗn lạo ở thủ đô. Điều đó cho phép những tên khủng bố cao chạy xa bay dễ dàng hơn. Không may là, chuyện này đã diễn ra thật hoàn hảo. Kẻ nào lên kế hoạch vụ tấn công này đúng là một thiên tài tàn ác”.
“Ông đã có thông tin gì về nhận dạng cũng như quan hệ của những kẻ đánh bom chưa?”.
“Chúng đều là những thanh niên người Anh thế hệ thứ hai từ khu Finsbury Park và Walthamstow ở Đông Luân Đôn. Cả bốn người đều có gốc Ai Cập và cả bốn đều là thành viên của một nhà thờ Hồi giáo khu trung tâm nhỏ ở Walthamstow gọi là nhà thờ Salam”.
“Nhà thờ Hoà bình”, Gabriel nói. “Thật phù hợp làm sao”.
“Thầy tế đã biến mất cũng như nhiều thành viên khác trong nhóm. Dựa trên những gì chúng tôi được biết đến giờ, có vẻ như những thanh niên địa phương đã thực hiện chiến dịch đánh bom này, còn anh chàng Samir của anh và cộng sự của hắn đảm nhiệm vụ bắt cóc”.
“Ông có thể dò tìm mấy chiếc xe bán tải nhỏ đó không?”.
“Toàn bộ xe được những công ty do một người tên là Farouk Al Shahaki sở hữu hay kiểm soát. Ông ta là doanh nhân gốc Ai Cập sinh ra ở Anh có những nguồn lợi khắp nước Anh và Trung Đông”.
“Ông ấy đâu?”.
“Đã đáp chuyến bay đi Pakistan tối qua. Chúng tôi đã yêu cầu ISI Pakistan (Cơ quan tình báo Pakistan) tìm ông ta”.
“Chúc may mắn”, Gabriel nói. “Các ông có thể theo dõi chúng bằng camera quan sát khi chúng rời công viên Hyde Park mà?”.
“Chỉ một lúc thôi”, Seymour nói. “Sau đó chúng rẽ vào một con hẻm không có camera quan sát và chúng tôi mất dấu. Chúng tôi tìm thấy những chiếc xe này trong gara ở khu Maida Vale do một trong những kẻ đánh bom tự sát thuê”.
“Có ai nhận trách nhiệm gì không?”
“Có quá nhiều tên khủng bố mà chúng ta có thể nghi ngờ. Rõ ràng là vụ này có dấu vết của một cuộc tấn công kiểu al-Qeada. Tôi cho rằng chúng tôi sẽ biết được nhiều hơn khi đám bắt cóc đưa ra yêu sách”.
“Nếu như ông tìm thấy Elizabeth Halton trước khi những kẻ bắt cóc đưa ra yêu sách thì sẽ tốt hơn cho mọi người”.
“Chúng tôi đang hành động theo giả định là cô ta vẫn còn ở nơi nào đó bên trong lãnh thổ Anh. Chúng tôi có người ở tất cả các sân bay, nhà ga xe lửa, bến tàu trên khắp đất nước. Lực lượng tuần tra bờ biển cũng đang cố gắng phong toả bờ biển, đây là một công việc không dễ dàng vì bờ biển chúng tôi có chiều dài gần tám ngàn dặm. Lực lượng SO 13 đang thẩm vấn những nguồn tin và những người bị tình nghi là có quan hệ với đám khủng bố, cùng với cái tên tay sai của những kẻ đánh bom tự sát. Họ cũng đang thực hiện việc lục soát từng nhà ở những khu vực có người Hồi giáo sinh sống chiếm đa số trong thành phố. Những người Hồi giáo ở đất nước chúng tôi đang nổi giận. Nếu không cẩn thận, mọi thứ sẽ nhanh chóng vượt ngoài tầm kiểm soát”. Seymour nhìn Gabriel. “Thật tệ là anh không tìm cách làm bị thương một hay hai tên khủng bố anh đã giết ở công viên Hyde Park. Chúng tôi rất cần thông tin”.
Gabriel nói. “Tôi đã làm được điều đó”.
“Anh đang nói gì thế?”.
“Tôi bắn nhiều phát vào phía sau một trong những chiếc xe bán tải. Hãy theo dõi những người Arập vào cấp cứu ở các bệnh viện có những vết thương do đạn bắn mà không lý giải được”.
Chiếc Limousine rẽ vào đường Millbank, hướng dọc theo sông Thames đến cầu Lambeth. Điện thoại di động của Seymour nhấp nháy. Ông đưa lên tai nghe, lầm bầm vài lời rồi ngắt điện thoại.”Người Mỹ”, ông vừa nói vừa giải thích. “Như anh có thể đoán được, họ đang bắt đầu chiến tranh rồi đấy. Họ đặt Đại sứ quán, toàn bộ nhân viên và các bộ phận trực thuộc trong tình trạng phong toả. Họ đã phát đi báo động về việc đi lại ở Luân Đôn, điều chưa bao giờ có ở phố Downing hay Bộ Ngoại giao, vì điều đó đặt chúng tôi ngang hàng với Pakistan, Afghanistan và Libăng. Hai trăm nhân viên điều tra của CIA, FBI và các Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp đã đáp máy bay xuống phi trường Heathrow tối nay và dựng lại hiện trường ở quảng trường Grosvenor. Họ mở đường dây liên lạc với Lực lượng Đặc nhiệm của Bộ Ngoại giao ở Washington và một đường dây nữa với COBRA, một uỷ ban đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Nội vụ đứng đầu xem xét phản ứng của chính phủ Anh đối với tình trạng khẩn cấp cấp quốc gia như thế này”.
“Họ có đang cư xử lịch sự không?”
Seymour thở mạnh. “Như được mong đợi, trong hoàn cảnh này. Đến giờ, vấn đề này cơ bản thuộc về cảnh sát Anh, có nghĩa là họ không có việc gì làm ngoài việc ngồi đó và ép chúng tôi phải truy tìm nhanh hơn và ráo riết hơn. Họ đã nói rõ là cho dù có người Anh nào mất mạng thì ưu tiên số một vẫn là phải tìm ra Elizabeth Halton. Họ cũng nói rõ là họ không có ý định đàm phán để cô ấy được thả”.
“Nếu họ không đàm phán, sẽ không có nhà ngoại giao Mỹ nào trên thế giới được an toàn trong tương lai”, Gabriel nói. “Đây là một bài học khó khăn mà chúng ta đã học được cách đây lâu rồi”.
“Chúng tôi thích giải quyết vấn đề theo cách mềm dẻo hơn. Nếu một cuộc đàm phán tốt có thể mang người phụ nữ đó còn sống trở về, thì tôi thấy đâu có thiệt hại gì”.
“Tôi cho rằng điều đó tuỳ thuộc vào những gì các ông phải hy sinh để mang cô ấy về”. Gabriel trông ra cửa sổ ngắm nhìn sông Thames. Tám ngàn dặm bờ biển, vô số bến tàu và sân bay tư nhân…theo kinh nghiệm cá nhân, anh biết rằng một tên khủng bố có đủ trí thông minh và tiền bạc để có thể di chuyển con tin theo ý của mình. Một năm trước, vợ anh đã bị bắt cóc từ phòng ngủ trong một bệnh viện tâm thần ở Anh. Vợ anh được đưa lên tàu đi Pháp trước khi người ta biết cô ấy mất tích.
“Hình như ông và người Mỹ có mọi thứ trong tay”, anh nói. “Điều đó có nghĩa là tôi không còn gì để làm ngoài việc rời khỏi Luân Đôn và giả vờ chưa bao giờ có mặt ở đây”.
“Tôi e là điều đó sẽ không thể được, Gabriel”.
“Không thể được với nước Mỹ hay với các ông?”.
“Cả hai”.
Seymour lấy một tờ báo Times sáng hôm đó từ vali ra trao cho Gabriel. Dòng tít với nhan đề KHỦNG BỐ VÀ BẮT CÓC Ở LUÂN ĐÔN. Nhưng chính tiêu đề ở cuối trang mới thu hút sự chú ý của Gabriel. SĨ QUAN TÌNH BÁO ISRAEL THAM GIA VỤ MAI PHỤC Ở CÔNG VIÊN HYDE PARK…Dưới đầu đề là hình ảnh hơi mờ của Gabriel đang chĩa súng vào mặt Samir Al Masri. Trang trong có hình ảnh thứ hai: tấm ảnh thẻ căn cước của anh chụp ở Sở cảnh sát Luân Đôn vài giờ sau vụ tấn công.
“Bức ảnh của anh trong công viên được một người đi gang qua chụp bằng điện thoại di động. Chất lượng xấu nhưng rất kịch tính. Chúc mừng anh Gabriel. Tôi cho rằng hiện còn có một nhóm khủng bố khác đang muốn lấy đầu của anh”.
Gabriel mở đèn đọc báo trên xe và lướt qua bài báo. Bài báo có nói về tên anh, cùng với mô tả khá chính xác về những thành tích trong nghề của anh.
“Thế cơ quan của ông phải có trách nhiệm về việc này chứ?”.
“Tin tôi đi, Gabriel. Tôi đã đủ đau đầu vào lúc này rồi nên không cần chuốc lấy rắc rối thêm nữa. Nguồn tin không rõ ràng, nhưng chắc chắn vụ rò rỉ này phải xuất phát từ một người ở Sở cảnh sát thành phố. Nếu phải đoán thì tôi cho người đó là một sĩ quan cao cấp đang tìm cách mang một đặc ân đến cho tờ báo quan trọng này. Cho dù xảy ra thế nào, điều đó có nghĩa là anh sẽ không được phép rời khỏi đất nước này cho đến khi toàn bộ câu hỏi về sựu dính líu của anh trong vụ này được lọc ra và công bố trước công luận”.
“Chi tiết về sự dính líu của tôi trong vụ này rất rõ ràng đấy, Graham. Tôi đã đến Luân Đôn để cảnh báo cho ông rằng một nhóm khủng bố từ Amsterdam tới, có thể có mặt ở Anh để chuẩn bị cho một vụ tấn công. Ông đã chọn cách bỏ qua lời cảnh báo đó. Thế ông có muốn tôi công bố điều đó trước công luận không?”.
Seymour có vẻ suy nghĩ kỹ về câu hỏi trước khi trả lời. “Anh bị buộc tội vì những vi phạm nghiêm trọng, trong đó có việc vào nước Anh bằng hộ chiếu giả, sở hữu vũ khí bất hợp pháp, sử dụng vũ khí ở chốn đông người bất hợp pháp”.
“Tôi sử dụng vũ khí để bắn vào ba tên giết người đấy thôi”.
“Điều đó không quan trọng. Anh phải ở lại cho đến khi chúng tôi giải quyết xong vụ này. Thả anh bây giờ sẽ gây nên những lời đàm tiếu từ nhiều phía”.
Seymour hơi mỉm cười. “Đừng lo, Gabriel. Chúng tôi đã bố trí một chỗ ở dễ chịu cho anh rồi. Anh may mắn đấy. Anh sẽ được rời Luân Đôn. Còn chúng tôi phải ở lại đây sống với hậu quả của cuộc tấn công này”.
“Thế cơ quan của tôi có biết là tôi bị giữ không?”.
“Họ sẽ biết sớm thôi. Chúng tôi đã thông báo cho chuyên viên về luật pháp ở Đại sứ quán của anh, cũng như Trưởng chi nhánh của anh”.
Chiếc xe rẽ vào toà nhà Thames, trụ sở đồ sộ bên bờ sông của MI5. Ngã tư Vauxhall, Tổng hành dinh của MI6 – một cơ quan tình báo hải ngoại, nằm ở phí đối diện con sông nhìn xuống bờ đê Albert.
“Lái xe của tôi sẽ chở anh đến một trong những ngôi nhà an toàn của chúng tôi”, Seymour nói. “Đừng nghĩ đến việc chạy trốn nhé. Anh ta có súng và là tay súng thiện xạ đấy”.
“Tôi sẽ đi đâu được Graham? Tôi làm gì có hộ chiếu”.
“Tôi tin là anh có thể xoay sở được”.
Seymour đã ra đến cửa nhưng dừng lại. “Anh có muốn nói gì nữa không, Gabriel? Còn gì có thể giúp chúng tôi xác định vị trí của Elizabeth Halton?”.
“Tôi đã nói cho ông nghe hết những gì tôi biêt rồi”.
“Mọi thứ trừ tên nguồn tin của anh ở Amsterdam”.
“Tôi đã hứa sẽ bảo vệ anh ta, Graham. Ông cũng biết bảo vệ nguồn tin có nghĩa là gì rồi đấy”.
“Vào những lúc như thế này, nguồn tin không phải đẻ bảo vệ mà phải được sử dụng và đốt nóng”.
“Tôi sẽ không đốt nóng nguồn tin này đâu Graham. Anh ta đã liều mình đến với chúng tôi”.
“Anh có xem xét khả năng anh ta có thể liên quan đến vụ này không?”.
“Không có đâu”.
“Hy vọng anh đúng”, Seymour nói. “Kinh nghiệm của tôi cho thấy người tiết lộ thông tin hiếm khi nói thật. Thực ra, họ nói dối nhiều hơn để thân phận không bị lộ. Đó là lí do họ chịu làm người đưa tin”.
Ngôi nhà tạm thời của Gabriel hoá ra lại là một ngôi nhà bằng đá vôi duyên dáng, được bao quanh bởi hai trăm mẫu đất tư nhân, trong khu đồi uốn lượn vùng Cotswolds. Quản lí khu này là một cựu nhân viên MI5 có mái tóc dựng đứng màu gừng tên là Spencer, ông ta nói vắn tắt cho Gabriel biết về những quy định đối với khách lưu trú vào buổi sáng hôm sau trong một bữa ăn nhà nhã tại căn phòng đầy ánh sáng. Gabriel được quyền xem ti vi, radio và các tờ báo luân Đôn, dĩ nhiên là không được dùng điện thoại. Toàn bộc căn phòng của ngôi nhà chính đều dành cho anh sử dụng, dù vậy anh phải giữ mối liên lạc với nhân viên nhà nghỉ ở mức tối thiểu. Anh có thể tản bộ một mình, nhưng nếu muốn đi vào làng, thì cần phải có người hộ tống. Nhất cử nhất động của anh sẽ được theo dõi và thu hình. Bất kỳ nổ lực đào thoát nào cũng đều thất bại và sẽ làm anh mất quyền ưu đãi.
Gabriel giết thời gian bằng cách theo dõi diễn biến về cuộc điều tra của cảnh sát Anh. Anh thức dậy mỗi buổi sáng, đọc chồng báo Luân Đôn trong phòng ăn sáng cùng với trà và những món ăn yêu thích. Sau đó anh quay về thư viện tìm kênh tin tức của Anh và Mỹ để được nghe những thông tin đáng tin cậy về việc nhận dạng những kẻ thực hiện vụ tấn công và số phận của Elizabeth Halton. 72 giờ sau khi cô bị bắt cóc, vẫn không có ai đứng ra chịu trách nhiệm và vẫn chưa có yêu sách nào từ phía bọn bắt cóc. Đại sứ Halton, cũng như Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã lên tiếng yêu cầu bọn bắt cóc thả con tin. Ngày tháng trôi qua, các chuyên gia bình luận trên truyền hình bắt đầu đoán già đoán non là con gái ngài đại sứ đã bị bọn bắt cóc sát hại hoặc có thể đã bị giết trong vụ tấn công ban đầu. Gabriel cho rằng lời tiên đoán này là còn quá sớm và gần như sai lầm. Anh đã xem xét một cách chi tiết về chiến dịch này. Anh biết cuối cùng bọn bắt cóc sẽ lộ diện và đòi yêu sách.
Vào buổi chiều ngày thứ tư bị giam lỏng, anh dành một giờ để đi lang thanh khắp các cửa hiệu trên phố. Anh mua một chiếc áo khoác len cho Chiara và một cây gậy bằng gỗ sồi rất đẹp cho Shamron. Khi trở về ngôi nhà, anh thấy Spencer đang đợi ở sân trước lát đầy sỏi, vẫy một tờ giấy như thể nó chứa đựng tin tức quan trọng được gửi tới từ nơi nào xa lắc xa lơ. Đúng là có tin mới. Người Anh đồng ý bỏ tất cả lời buộc tội chống lại Gabriel, đổi lại anh sẽ là chứng choi cuộc điều tra chính thức về vụ tấn công. Một chỗ ngồi đã được dành riêng cho anh trong chuyến bay tối hôm đó đi Tel Aviv và người ta đã sắp xếp cho anh lên máy bay bằng lối riêng một cách nhanh chóng. Xe sẽ đến đón anh trong một tiếng nữa. Tuy nhiên, cuối cùng lại hoá ra là một đoàn xe. Những chiếc xe này được Mỹ sản xuất, cũng như người đàn ông nhìn rất sang trọng mặc đồ ngoại giao màu xám, ngồi ở hàng ghế phía sau chiếc Limousine. “Xin chào, anh Allon”, Đại sứ Robert Halton nói. “Để tôi cho anh đi nhờ ra sân bay. Tôi muốn nói chuyện một chút”.
Ngài đại sứ nói. “Anh phải cảm ơn tôi vì nhờ tôi mà anh được tự do. Khi tôi thấy anh bị giam lỏng, tôi đã gọi điện cho Thủ tướng bảo ông ấy trả tự do cho anh ngay”.
“Tôi biết người Mỹ có ảnh hưởng khá lớn đối với phố Downing, nhưng tôi không bao giờ biết ông có quyền trả tự do cho tù nhân”.
“Điều cuối cùng mà ngài Thủ tướng muốn là nhìn thấy tôi đưa ra yêu cầu trước công luận. Những cuộc thăm dò cho thấy hiện tôi là người được hâm mộ nhiều nhất ở Anh đấy. Hãy cho tôi biết tại sao báo chí lại để tâm đến việc thực hiện một cuộc thăm dò như thế?”.
“Tôi đã từ bỏ những cố gắng nhằm hiểu báo chí, thưa ngài đại sứ Halton”.
“Cuộc thăm dò này cũng cho thấy đa số người Anh tin rằng chính tôi đã mang đến tai hoạ này cho mình vì mối quan hệ bạn bè với Tổng thống và sự ủng hộ thẳng thắn của tôi đối với cuộc chiến ở Irắc. Chiến tranh hiện được các kẻ thù của chúng tôi sử dụng để minh chứng cho mọi tội lỗi. Ngoài ra cũng là vì sự ủng hộ của chúng tôi dành cho nhà nước Israel”.
“Tôi em rằng mình còn lâu mới thay đổi được điều đó”.
Ông đại sứ rút kính ra, di di sống mũi. Hình như mấy ngày qua ông chưa ngủ. “Tôi chỉ mong ước con gái mình được giải thoát bằng một cú điện thoại. Người có quyền lực bị biến thành vô dụng quả là cảm giác không dễ dàng chút nào. Tôi đã có mọi thứ mình muốn trong cuộc sống nhưng họ đã lấy của tôi một thứ mà tôi không thể nào mất được”.
“Ước gì tôi có thể đến sớm hơn”, Gabriel nói. “Có thể tôi đã ngăn chúng bắt con gái ông”.
“Đừng tự trách mình về những chuyện đã xảy ra. Nếu phải trách ai thì người đó phải là tôi. Tôi là người đã đảm nhận công việc này. Tôi là người yêu cầu Elizabeth dừng mọi hoạt động của nó để đến đây với tôi. Và tôi cũng là người để cho nó chạy bộ trong công viên Hyde Park ba buổi sáng một tuần dù tôi đã sợ có chuyện sẽ xảy ra”.
Ông đại sứ Mỹ đeo lại kính, nhìn Gabriel đầy suy tư. “Nhưng hãy tưởng tượng tôi ngạc nhiên thế nào khi nghe chuyện người đàn ông bí mật giết ba tên khủng bố trong công viên Hyde Park chính là anh. Tổng thống là bạn thân nhất của tôi, anh Allon à. Nếu không phải nhờ anh thì ông ta đã bị sát hại ở Vatican đầu năm nay rồi”.
Thực ra, chính thư ký riêng của Giáo hoàng, Monsighor Luigi Dopnati đã cứu mạng sống Tổng thống. Gabriel chỉ giết chết tên ám sát, một tên cải đạo sang Hồi giáo cấp tiến đã tìm cách xâm nhập vào hàng ngũ Vệ binh Thuỵ Sĩ.
Anh hỏi. Thế người Anh có cho ông biết về triển vọng tìm con gái ông không?”.
“Tôi e là hy vọng đó quá nhỏ nhoi. Hôm nay họ thực hiện những cuộc bao vây ở ba địa điểm nơi họ nghĩ chúng có thể giữ con gái tôi. Tin tình báo hoá ra không đúng. Điều tôi không hiêu chính là tại sao bọn khủng bố chưa ra yêu sách gì”.
“Bởi vì sự chờ đợi sẽ khiến ông đau đớn và tuyệt vọng. Chúng muốn ông phải biết ơn khi vào phút cuối cùng chúng xuất hiện và đưa ra yêu sách”.
“Anh chắc là chúng cần gì để trao đổi chứ?”.
“Đúng vậy thưa ngài đại sứ. Ông hãy chuẩn bị tâm lí cho sự thật đi. Chắc chắn là một điều gì đó ông không thể đáp ứng cho chúng”.
“Tôi đang cố nhắc mình rằng mình có những nguyên tắc và vấn đề chính sách còn quan trọng hơn số phận con gái tôi”, ông đại sứ nói tiếp. “Tôi dang chuân rbị cho khả năng con gái mình có thể phải chết để cho những phái đoàn ngoại giao khapws thế giới được an toàn. Nhưng đây không phải là cuộc đổi chác công bằng, Allon. Tôi không chắc chắn về cái giá mà con gái mình phải trả. Trong thực tến tôi tin chắc mình sẽ đáp ứng bất kỳ thứ gì chúng muốn để đưa con gái còn sống trở về”.
“Chính quyền của anh có kinh nghiệm về những vấn đề này. Anh nghĩ chúng muốn gì?”.
“Tù nhân”, Gabriel nói. “Đó hầu như lúc nào cũng là điều chúng muốn. Có thể là vài tù nhân hoặc là một tù nhân quan trọng nhất”.
“Ví dụ như một trong những tên lên kế hoạch vụ 11/9 mà chúng tôi đang giữ phải không?”.
“Tôi đang nghĩ đến việc trao thưởng một cách xứng đáng cho ai có thể cung cấp thông tin”.
“Cỡ bao nhiêu?”.
“5 triệu đô la Mỹ”.
“Một phần thưởng như thế sẽ làm xuất hiện những tê lừa bịp. Rồi sau đó người Anh sẽ tìm thấy những người đó bị chôn vùi dưới đống tuyế dày với những thông tin giả. Điều đó chỉ mất công điều tra hơn thôi. Trong thời điểm này, tôi đề nghị ông đóng hầu bao lại, thưa ngài đại sữ”.
“Nghe có vẻ như là một lời khuyên hữu ích đấy”, ông nhìn Gabriel một lúc. “Tôi không cho rằng có cách nào đó có thể thuyết phục anh ở lại Luân Đôn thêm vài ngày để hỗ trợ tìm con gái tôi”.
“Tôi e là mình phải về nước lo chuyện xì-căng-đan của mình trên báo chí. Ngoài ra, đây là chuyện của ông và người Anh. Dĩ nhiên là nếu chúng tôi có được thông tin tình báo nào, thì chúng tôi sẽ chuyển cho ông ngay”.
Ngài đại sứ cầm ống nghe và đưa lên tai nghe. Ông nghe điện thoại một lúc, gương mặt căng thẳng rồi nói nhỏ. “Cảm ơn ngài, ngài Thủ tướng”. Ông gác điện thoại rồi nhìn Gabriel. “Cảnh sát thành phố vừa đột kích một ngôi nhà ở khu Walthamstow phía Đông Luân Đôn. Không tìm được gì”. Ông im lặng suy tư một lúc. “Hình như đối với tôi lúc này, anh là người cuối cùng nhìn thấy con gái tôi – nói đúng hơn là người tử tế cuối cùng nhìn thấy con gái tôi”.
“Vâng thưa ông đại sứ, tôi cho là vậy”.
“Thế anh có nhìn thấy mặt con gái tôi không?”.
Gabriel gật đầu. “Có, tôi có nhìn thấy mặt cô ấy”.
“Chúng có làm hại gì con bé không?”.
“Hình như cô ấy không bị thương”.
“Con bé có sợ không?”.
Gabriel trả lời chân thật. “Tôi chắc là cô ấy rất sợ, thưa ngài, nhưng cô ấy không bước đi theo ý chúng mà cô ấy chống lại chúng”.
Mắt ông đại sứ bỗng ngấn lệ.
“Tôi mừng là con bé đã chống lại chúng”, Robert Halton nói. “Hy vọng ngay lúc này con bé cũng vẫn đang chống lại chúng”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.