Khi Lỗi Thuộc Về Những Vì Sao

CHƯƠNG BỐN



Tối hôm ấy tôi lên giường sớm hơn thường lệ một chút, mặc chiếc quần đùi con trai và áo phông rồi chui vào dưới tấm ga của chiếc giường
[19]
cỡ vừa với gối liền, một trong những chốn yêu thích của tôi trên cái thế giới này. Rồi tôi bắt đầu đọc cuốn Nỗi đau tột cùng lần thứ một triệu.

NĐTC kể về một cô gái tên Anna (cũng là người dẫn truyện) và bà mẹ một mắt của bạn ấy, một thợ làm vườn chuyên nghiệp bị ám ảnh với hoa tulip, sống một cuộc sống bình dị thuộc tầng lớp hạ trung lưu trong một thị trấn nhỏ miền trung California cho đến khi Anna mắc căn bệnh ung thư máu hiếm gặp.

Nhưng đây không phải một cuốn sách về ung thư, bởi những cuốn như thế quá nhạt nhẽo. Hẳn là sẽ có một bệnh nhân nào đó lập ra một quỹ từ thiện chống lại bệnh ung thư đúng không? Và rồi sứ mệnh từ thiện này nhắc nhở bệnh nhân ung thư về bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và khiến anh/cô ta cảm thấy được yêu thương và được khích lệ vì cô/anh ta sẽ để lại một di sản dành cho việc chống ung thư. Nhưng trong NĐTC, Anna quyết định rằng nếu một bệnh nhân ung thư kêu gọi ủng hộ một quỹ vì ung thư là có hơi tự sướng, nên cô lập ra một hội từ thiện có tên là Quỹ Anna Dành Cho Bệnh Nhân Mắc Ung Thư Muốn Chữa Dịch Tả.

Còn nữa, Anna rất thành thật với mọi chuyện theo cái cách mà không phải ai cũng làm được như thế: Xuyên suốt cuốn sách, cô ấy nói về mình như là một ảnh hưởng phụ, mà điều đó thì hoàn toàn đúng. Bệnh nhi ung thư chỉ là ảnh hưởng phụ của sự biến đổi không ngừng gây ra cái gọi là đa dạng sinh học của sự sống trên trái đất này. Câu chuyện cứ thế tiếp diễn trong khi bệnh tình của Anna ngày một nặng hơn, các liệu pháp điều trị và chính căn bệnh đua nhau giết chết cô ấy, trong khi mẹ cô ấy đem lòng yêu một người buôn hoa Tulip mà Anna gọi là Chú Tulip Hà Lan. Chú Tulip Hà Lan có rất nhiều tiền cùng một lốc những ý tưởng lập dị về việc điều trị ung thư, nhưng Anna nghĩ có thể lão này chỉ là một tay lừa đảo và thậm chí có khi còn không phải là người Hà Lan nữa, và ngay khi chú Hà Lan và mẹ cô ấy sắp sửa đám cưới cũng là lúc Anna chuẩn bị bắt đầu liệu pháp điều trị điên rồ với cỏ lúa mỳ và thạch tín liều thấp thì câu chuyện kết thúc ngay giữa một

Tôi biết đó là một quyết định đầy tính văn chương và mọi thứ cũng như có lẽ phần lý do sao tôi thích cuốn sách đến thế, nhưng cần có thứ gì đó gợi ý một câu chuyện đến đây đã kết thúc. Và nếu nó không thể kết thúc, ít nhất hãy cứ kéo dài bất tận như những cuộc phiêu lưu của quân đoàn Thượng sĩ Max Mayhem.

Tôi hiểu câu chuyện kết thúc do Anna đã chết hoặc quá yếu để có thể viết tiếp và cái câu lỡ dở này phản ánh cái cách mà cuộc sống vẫn hay kết thúc như thế hay sao đó, nhưng còn có những nhân vật khác ngoài Anna trong câu chuyện, và nó thật không công bằng cho tôi khi không thể biết được những gì xảy ra với họ sau đó. Tôi đã viết, gửi qua nhà xuất bản, hàng tá lá thư đến Peter Van Houten, mỗi lá đều tìm kiếm câu trả lời cho chuyện gì đã xảy ra khi câu chuyện kết thúc: liệu chú Tulip Hà Lan có phải tay lừa đảo, liệu mẹ Anna có cưới chú không, chuyện gì xảy đến với con chuột hamster ngốc nghếch của Anna (mà mẹ cô rất ghét), liệu bạn bè của Anna cuối cùng có tốt nghiệp không – tất cả những chuyện ấy. Nhưng ông ấy chưa bao giờ trả lời bất cứ lá thư nào của tôi.

NĐTC là cuốn duy nhất Peter Van Houten từng viết, và tất cả những ai có vẻ quen biết ông ta đều chắc rằng sau khi xuất bản cuốn sách ông đã rời Mỹ về Hà Lan bắt đầu một cuộc đời ẩn dật. Tôi tưởng tượng rằng ông ấy đang viết tiếp câu chuyện lấy bối cảnh ở Hà Lan – nơi có thể mẹ của Anna và chú Tulip Hà Lan đã đến định cư và bắt đầu một cuộc sống mới. Nhưng đã mười năm trôi qua kể từ khi Nỗi đau tột cùng được phát hành, và Peter Van Houten thì không xuất bản nhiều như người ta viết blog. Tôi không thể cứ đợi mãi được.

Khi đọc lại cuốn sách đêm đó, tôi cứ bị phân tâm tưởng tượng đến cảnh Augustus Waters cũng đang cùng đọc những dòng tương tự. Tôi tự hỏi liệu cậu ấy có thích nó không, hay bỏ qua vì nghĩ tôi khoe để đấy. Rồi tôi nhớ ra tôi đã hứa sẽ gọi cậu ấy sau khi đọc xong Cái giá của Bình minh, tôi tìm số điện thoại ở ngay trang bìa rồi nhắn tin.

Nhận xét về Cái giá của Bình minh: Quá nhiều xác chết. Không đủ tính từ. NĐTC thì sao?

Một phút sau cậu ta nhắn lại:

Tớ nhắc lại, cậu hứa GỌI sau khi đọc xong, không phải nhắn tin.

Thế là tôi gọi cậu ấy.

“Hazel Grace,” cậu ta bắt máy.

“Cậu đọc nó chưa?”

“Ừ, nhưng chưa đọc xong. Nó dài những sáu trăm năm mươi mốt trang mà tớ chỉ có hai mươi tư giờ.”

“Cậu đến đâu rồi?”

“Bốn trăm năm mươi ba.”

“Và?”

“Tớ sẽ không nhận xét gì cho đến khi đọc xong. Nhưng mà phải nói là tớ thấy hơi xấu hổ khi đưa cậu quyển Cái giá của Bình minh.”

“Không phải xấu hổ đâu. Tớ đọc sang Vĩnh biệt Mayhem rồi.”

“Một phần bổ sung sáng giá cho bộ truyện. Được rồi, thế gã tulip có phải một tay lừa đảo không? Tớ có linh cảm không hay về hắn.”

“Nói trước mất hay,” tôi đáp.

“Nếu hắn không phải là một quý ngài tử tế thì tớ sẽ móc mắt hắn ra mất.” “Cậu cũng thích truyện này nhỉ.”

“Chưa nói được gì đâu. Tớ có thể gặp cậu lúc nào?”

“Chắc chắn không chừng nào cậu chưa đọc xong Nỗi đau tột cùng,” tôi cảm thấy thích việc câu giờ.

“Thế tớ nên cúp máy và đọc tiếp đây.”

“Cậu nên thế,” tôi nói. Cậu ấy cúp máy ngay mà chẳng nói một lời.

Tán tỉnh là trò mới mẻ, nhưng tôi thích nó.

Buổi sáng hôm sau tôi có lớp Thơ Ca Mỹ Thế kỷ Hai Mươi ở MCC. Cô giáo già nua này đang giảng một bài dài chín mươi phút về Sylvia
[20]
Plath mà còn chẳng thèm trích một chữ của Sylvia Plath.

Khi tôi ra khỏi lớp, mẹ vẫn đang nổ máy chờ ở lề đường trước dãy nhà. “Mẹ lại đợi ở đây suốt buổi học à?” tôi hỏi trong khi bà vội vã giúp tôi đẩy cái giá và bình ôxy vào trong xe.

“Không, mẹ đi lấy đồ giặt là xong đến bưu điện.” “Sau đó?”

“Mẹ có một cuốn sách cần đọc,” bà nói.

“Và con mới là người cần tận hưởng cuộc sống.” Tôi cười, và bà cũng cố gắng mỉm cười theo, nhưng có chút gì ngượng nghịu trong đó. Một giây sau tôi nói, “Mẹ muốn đi xem phim không?”

“Có chứ. Bất cứ phim gì con muốn xem?”

“Mẹ cứ làm xong việc đi trong lúc mình đến rồi xem có gì chiếu sau.” Bà đóng cửa xe giúp tôi rồi đi vòng qua xe sang bên tay lái. Chúng tôi đến rạp Castleton và xem một bộ phim 3D về chuột nhảy biết nói. Nó thực sự cũng buồn cười.

Khi ra khỏi rạp tôi, nhận được bốn tin nhắn từ Augustus.

Nói cho tớ sách còn thiếu hai chục trang cuối hay sao đi.

Hazel Grace, nói với tớ là chưa đến kết truyện đi.

ÔI CHÚA ƠI HỌ CÓ ĐỊNH CƯỚI HAY KHÔNG ÔI CHÚA ƠI CHUYỆN GÌ THẾ NÀY

Tớ đoán Anna chết và thế là hết hả? TÀN NHẪN. Gọi tớ nhé.

Hi vọng mọi chuyện vẫn ổn.

Thế nên ngay sau khi về đến nhà tôi vòng qua sân sau rồi ngồi trên một chiếc ghế lưới mắt cáo han gỉ rồi gọi điện cho cậu ấy. Hôm ấy trời đầy mây, một ngày điển hình ở Indianna: kiểu thời tiết ngột ngạt khó chịu. Nổi bật trên mảnh sân nho nhỏ ấy là một chiếc ghế đu thời thơ ấu của tôi, giờ nhìn nó ướt nhèm nhẹp thảm thương.

Augustus nghe sau hồi chuông reo thứ ba. “Hazel Grace,” cậu ấy nhấc máy.

“Chào mừng cậu đến với sự tra tấn ngọt ngào của Nỗi đau –” tôi ngừng lại vì nghe thấy tiếng sụt sịt rõ to bên đầu dây kia. “Cậu ổn chứ?” tôi hỏi.

“Tớ tuyệt lắm,” Augustus trả lời. “Tuyệt, nhưng tớ đang ở cạnh Isaac, nó đang suy sụp.” Tiếng khóc ngày một rõ hơn. Nghe giống như tiếng kêu trước khi chết của mấy con thú bị thương. Gus quay sang Isaac. “Này. Này. Hazel Nhóm Tương Trợ sẽ khiến mày thấy tốt hơn chứ hay tệ hơn hả? Tập. Trung. Vào. Tao.” Một phút sau Gus nói với tôi, “Cậu có thể đến nhà gặp bọn tớ khoảng, xem nào, hai mươi phút nữa được không?”
“Được chứ,” tôi nói rồi gác máy.

Nếu có thể lái xe theo một đường thẳng thì chỉ mất có năm phút đi từ nhà tôi đến nhà Augustus, nhưng không thể lái xe theo một đường thẳng được vì Công viên Holliday nằm chắn giữa.

Mặc dù đó là cả một sự bất tiện về mặt địa lý, nhưng tôi thực sự thích Công viên Holliday. Hồi còn bé tôi thường tung tẩy dưới Sông Trắng[21] cùng bố, khoảnh khắc tuyệt vời khi ông quăng tôi lên giữa khoảng không, đơn giản là tung tôi lên rồi tôi dang hai tay như thể đang bay vậy và ông sẽ đưa tay ra đón lấy, nhưng rồi ông nhận ra tay ông không với được tới tôi còn tôi thì chẳng có ai đỡ ở dưới, điều đó làm cả hai bố con đều sợ vãi mật, rồi tôi rơi tõm người xuống nước một lúc rồi lại trồi lên chẳng hề hấn gì, làn sóng đẩy tôi lại về phía ông và tôi nằn nỉ nữa đi, Bố, nữa đi.

Tôi đỗ ở lối vào ngay cạnh một chiếc Toyota mui kín cũ màu đen mà tôi đoán là xe của Isaac. Kéo chiếc bình đằng sau lưng, tôi bước đến gỡ cửa. Bố Gus ra mở cho tôi.

“Hazel Được Rồi,” bác ấy nói. “Rất vui được gặp lại cháu.” “Augustus nói cháu ghé qua một chút ạ?”

“Ừ, thằng bé và Isaac đang ở dưới tầng hầm ấy.” Một tiếng khóc vọng lên ngay lúc đó. “Chắc Isaac đấy,” bố Gus nói, khẽ lắc đầu. “Bác Cindy đã phải lái xe ra ngoài, âm thanh đó…” ông bỏ lửng. “À, bác đoán chắc cháu sẽ muốn xuống hầm đấy. Có cần bác giúp mang cái, ờ, bình này không?” ông hỏi.

“Dạ không, cháu tự mang được. Dù sao cũng cảm ơn bác, Bác Waters.”

“Cứ gọi bác là Mark,” ông bảo.

Tôi có cảm giác sờ sợ lúc đi xuống. Nghe người khác than khóc không phải là trò giải trí ưa thích của tôi. Nhưng tôi vẫn bước tiếp.

“Hazel Grace,” Augustus nói khi nghe thấy tiếng bước chân của tôi. “Isaac, Hazel Nhóm Tương Trợ đang xuống đấy. Hazel, một lời nhắc nho nhỏ: Isaac đang trong giai đoạn khủng hoảng tinh thần.”

Augustus và Isaac đang ngồi trên chiếc ghế lười hình chữ L, chằm chằm nhìn cái màn hình khổng lồ. Màn hình được chia làm hai, phần bên trái của Isaac và bên phải của Augustus. Họ là những người lính chiến đấu trong một thành phố hiện đại bị dội bom. Tôi nhận ra đó là một cảnh trong truyện Cái giá của Bình minh. Khi mới tới tôi còn chẳng nhận ra điều gì khác thường cả: chỉ là hai thằng con trai ngồi khuất trong quầng sáng của màn hình to vĩ đại đóng vai đi giết người ta.
Đến khi tôi đứng ngang tầm họ tôi mới thấy khuôn mặt Isaac. Nước mắt ràn rụa qua đôi gò má đỏ ửng thành dòng, khuôn mặt căng lên đau khổ. Cậu ấy vẫn ngó chăm chăm vào màn hình, chẳng thèm liếc nhìn tôi, khóc rống lên, trong khi tay vẫn bấm lia lịa vào tay cầm điều khiển của mình. “Cậu khỏe chứ, Hazel?” Augustus hỏi.

“Tớ ổn mà,” tôi đáp. “Isaac?” Không một tiếng đáp lại. Không một tí ti dấu hiệu nào cho biết cậu ấy để ý đến sự hiện diện của tôi. Chỉ nước mắt và nước mắt vẫn chảy thẫm từ khuôn mặt xuống chiếc áo phông đen của cậu.

Augustus thỉnh thoảng liếc nhìn tôi qua màn hình TV. “Cậu trông thật tuyệt,” cậu ta nói. Tôi đang mặc chiếc váy chớm-qua-đầu-gối tôi có lâu lắm rồi. “Bọn con gái nghĩ họ chỉ được phép mặc váy vào những dịp lễ quan trọng, nhưng tớ thì thích phụ nữ kiểu, cậu biết đấy, tớ chuẩn bị đến gặp một anh chàng thần kinh không ổn định, một anh chàng chỉ còn cảm nhận mong manh về thị giác, và ôi mẹ nó, tớ sẽ mặc váy cho anh chàng đó xem.”

“Ừ nhưng,” tôi nói, “Isaac còn chẳng buồn liếc nhìn tớ. Vẫn rất yêu Monica, tớ đoán thế,” và nhận ngay kết quả là một tiếc nấc não lòng.

“Chuyện đó hơi nhạy cảm đấy,” Augustus giải thích. “Isaac, không biết mày thế nào nhưng tao linh cảm chúng ta đang bị tấn công bên mạn sườn đấy.” Rồi quay sang với tôi, “Isaac và Monica không đi lại với nhau nữa. Nhưng nó không muốn nói về chuyện đó. Nó chỉ khóc lóc đòi chơi trò Counterinsurgence 2: Cái giá của Bình minh thôi.”

“Tớ hiểu rồi,” tôi nói.

“Isaac, tao thấy không ổn về vị trí bọn mình. Nếu đồng ý thì mày chạy qua chỗ trạm điện đi tao sẽ yểm trợ.” Isaac chạy thẳng đến một tòa nhà chẳng biết gọi là gì trong khi Augustus vừa xóc một loạt đạn súng máy vừa chạy đằng sau.

“À này,” Augustus nói với tôi, “nói chuyện sẽ không làm tổn thương nó đâu. Nếu cậu có bất cứ lời khuyên tế nhị nào của phái nữ ấy.”

“Thực ra tớ thấy phản ứng của cậu ấy như vậy cũng là phải thôi,” tôi nói trong khi tràng đạn tuôn ra từ súng của Isaac vừa giết một tên địch mới ló đầu ra khỏi chiếc xe thùng đã cháy rụi.

Augustus gật đầu với cái màn hình. “Nỗi đau là để cảm nhận,” cậu ấy nói, một câu trong Nỗi đau tột cùng. “Mày chắc không còn thằng nào sau mình chứ?” cậu ấy hỏi Isaac. Một lúc sau những viên đạn vạch đường bắt đầu rít lên bên trên đầu họ. “Ôi mẹ nó, Isaac,” Augustus kêu lên. “Tao không có ý trách móc gì mày trong khoảng thời gian yếu đuối của mày đâu, nhưng mày đã để mình bị chọc thủng sườn rồi, giờ thì chẳng còn gì chắn giữa đám khủng bố và trường học nữa.” Nhân vật của Isaac chạy về phía đám cháy, ngoắt ngoắt ngoéo ngoéo qua một con hẻm hẹp.

“Cậu có thể đi tới chỗ cây cầu và vòng lại,” tôi nói, một chiến thuật tôi biết được nhờ đọc Cái giá của bình minh.

Augustus thở dài. “Buồn thay, cây cầu đã nằm dưới tầm kiểm soát của quân nổi dậy nhờ chiến lược hỏi chấm của thằng đồng đội quẫn trí đây.”

“Tao?” Isaac nói, giọng phì phì. “Tao?! Chính mày là thằng đề nghị chạy đến núp chỗ trạm điện khỉ gió kia mà.”

Gus rời mắt khỏi màn hình trong tích tắc và bắt đầu nụ cười nhếch miệng của mình. “Tao biết mày sẽ mở mồm ra mà thằng gà,” cậu ta nói. “Giờ thì đi cứu lũ trẻ thôi.”

Họ cùng nhau chạy dọc theo con hẻm, vừa nổ súng vừa ẩn nấp cho đến khi tới một phòng học đơn một tầng. Họ núp sau một bức tường chặn ngang qua phố và tỉa dần từng tên một.

“Tại sao chúng lại muốn chiếm trường học?” tôi hỏi.

“Chúng muốn giữ lũ trẻ làm con tin,” Augustus trả lời. Đôi vai cậu ấy vồng lên che khuất tay cầm điểu khiển, vẫn lia lịa bấm nút, cẳng tay căng ra, những ven máu nổi rõ. Isaac nghiêng người về phía màn hình, các ngón tay thanh mảnh nhảy múa trên tay cầm điều khiển. “Chết mày chết mày chết mày,” Augustus hét. Làn sóng quân khủng bố vẫn tiếp tục túa ra, và họ xử lý từng thằng một, những phát bắn chuẩn xác kinh người, tất nhiên phải thế, nếu không đạn sẽ trúng vào trường học.
“Lựu đạn! Lựu đạn!” Augustus hét lên khi có một vật bay vòng qua màn hình, dội về phía cổng trường rồi lăn vào cửa.

Isaac buông tay cầm điều khiển trong nỗi thất vọng. “Nếu mấy thằng chết tiệt này không bắt sống được con tin, bọn nó sẽ giết họ rồi đổ cho chúng ta.”

“Yểm trợ cho tao.” Augustus nói trong khi cậu nhảy vọt ra khỏi bức tường và lao về phía trường học. Isaac lúng túng chộp lấy tay cầm bắt đầu bắn lia lịa trong khi đạn rớt như mưa xuống đầu Augustus, dù đã bị trúng một rồi hai viên đạn nhưng vẫn cố gắng chạy, Augustus hét lên, “BỌN MÀY KHÔNG THỂ HẠ MAX MAYHEM!” và với một loạt kết hợp những phím bấm lần cuối cùng, cậu nhảy lên ôm quả lựu đạn đang phát nổ ngay dưới. Cơ thể cậu ấy nổ tung tóe như một mạch nước rồi cả màn hình chuyển sang màu đỏ. Một giọng khàn khàn cất lên, “NHIỆM VỤ THẤT BẠI,” nhưng dường như Augustus không nghĩ thế bởi lẽ cậu ấy mỉm cười khi nhìn những tàn tích còn sót lại của mình trên màn hình. Cậu ấy thò tay vào túi quần, móc một điếu thuốc ra và đặt nó giữa hai hàm răng. “Bọn trẻ đã an toàn,” cậu ấy nói.

“Tạm thời thôi,” tôi chỉnh lại.

“Mọi sự cứu vớt chỉ là tạm thời,” Augustus đáp. “Tớ đã đem lại cho chúng một phút. Có thể một phút đó sẽ kéo dài thêm được một giờ, một giờ đó có thể sẽ kéo dài thêm được một năm. Không ai kéo dài được mãi mãi, Hazel Grace, nhưng mạng sống của tớ đã đem lại cho bọn trẻ thêm một phút. Điều đó không phải là không có ý nghĩa.”

“Whoa, được rồi,” tôi nói. “Chúng ta đang nói trò chơi thôi mà.”

Cậu ấy nhún vai, như thể cậu ấy tin rằng trò chơi có thể thực sự có thực. Isaac lại bắt đầu khóc lóc. Augustus quay đầu về phía cậu ấy. “Nhận lại nhiệm vụ này không, đồng chí?”

Isaac lắc đầu. Cậu ấy nhoài người qua Augustus để nhìn tôi và nói với giọng trầm trầm, “Rốt cuộc thì cô ấy cũng không còn muốn tiếp tục nữa.”

“Cô ấy không muốn phải bỏ rơi một người bị mù,” tôi nói. Cậu ấy gật đầu. Nước mắt không rơi từng giọt nữa mà nhiều như một chiếc máy gõ nhịp thầm lặng – đều đặn, không ngừng.

“Cô ấy nói cô ấy không thể đối mặt với điều đó,” cậu ấy nói. “Tớ sắp mất thị lực và cô ấy không thể đối mặt với điều đó.”

Tôi đang nghĩ về từ đối mặt, và về tất cả những thứ không thể đối mặt cuối cùng vẫn được giải quyết. “Tớ rất tiếc,” tôi nói.

Cậu ấy lau khuôn mặt đầy nước mắt của mình bằng ống tay áo. Đằng sau cặp kính đó, đôi mắt của Isaac trông lớn đến nỗi mọi chi tiết khác trên khuôn mặt cậu như thể đều biến mất, cặp mắt vô hồn như lìa ra chòng chọc nhìn tôi – một mắt thật, một mắt giả. “Không thể chấp nhận được,” cậu ấy nói với tôi. “Hoàn toàn không chấp nhận được.”

“Nhưng công bằng mà nói,” tôi bảo, “Tớ nghĩ, có thể cô ấy không thể đối mặt với chuyện này. Cậu cũng vậy. Nhưng cô ấy không nhất thiết phải đối mặt với chuyện đó, mà cậu thì bắt buộc.”

“Lúc nào tớ cũng nói ‘luôn luôn’ với cô ấy, ‘luôn luôn luôn luôn luôn luôn,’ cô ấy thì cứ nói chuyện này chuyện nọ mà chẳng hề nhắc lại từ ấy với tớ. Cứ như thể tớ đã biến mất rồi ấy, cậu hiểu không? ‘Luôn luôn’ là một lời hứa! Làm sao mà cứ phá vỡ một lời hứa như thế được?”

“Đôi khi người ta không hiểu được cái lời hứa họ tạo nên khi nói nó ra đâu,” tôi nói.

Isaac ném cho tôi một cái nhìn. “Phải rồi, dĩ nhiên. Nhưng ít ra cũng phải giữ lời chứ. Đấy mới là tình yêu. Tình yêu là giữa lời hứa dù có chuyện gì đi nữa. Cậu không tin vào tình yêu đích thực sao?”

Tôi không trả lời. Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi nghĩ nếu tình yêu đích thực có tồn tại, thì đó hẳn là một định nghĩa hoàn hảo dành cho nó.

“Tớ thì có tin vào tình yêu đích thực,” Isaac nói. “Và tớ yêu cô ấy. Và cô ấy đã hứa. Cô ấy đã hứa sẽ luôn luôn,” cậu ấy đứng dậy rồi bước một bước về phía tôi. Tôi cũng nhổm mình đứng dậy, nghĩ cậu ấy cần một cái ôm gì đấy, nhưng cậu ấy chỉ đứng nhìn mọi thứ xung quanh như thể chính mình cũng không nhớ nổi ý định đứng dậy để làm gì, rồi cả tôi và Augustus đều nhận thấy cơn thịnh nộ bùng lên khuôn mặt cậu ấy.
“Isaac,” Gus gọi.

“Sao?”

“Trông mày…xin lỗi nó hơi đa nghĩa, nhưng bạn ạ, có thứ gì đó hơi đáng ngại trong mắt mày.”

Đột nhiên Isaac đạp cái ghế cậu vừa ngồi khiến nó lộn nhào về phía giường của Gus. “Nào bắt đầu nào,” Augustus nói. Isaac với theo kéo cái ghế lại rồi đạp thêm phát nữa. “Chuẩn rồi,” Augustus tiếp tục. “Tóm lấy nó. Đạp chết nó đi!” Isaac đá cái ghế thêm vài phát đến khi nó lăn lóc cạnh giường của Gus, rồi cậu ấy túm lấy một cái gối và bắt đầu đập nó vào khoảng tường giữa chiếc giường và giá cúp bên trên.
Augustus nhìn qua tôi, điếu thuốc vẫn còn trên miệng, nửa khóe miệng cười. “Tớ không thể ngừng nghĩ về cuốn sách.”

“Tớ biết mà, nhỉ?”

“Ông ấy chưa bao giờ nói chuyện gì đã xảy đến với các nhân vật khác sao?”

“Chưa,” tôi đáp lời cậu ấy. Isaac vẫn đang hành hạ bức tường bằng chiếc gối. “Ông ấy chuyển tới Amsterdam, khiến tớ đã nghĩ có thể ông ấy sẽ tiếp tục câu chuyện với chú Tulip Hà Lan, nhưng ông vẫn chưa xuất bản gì thêm cả. Ông ấy chưa bao giờ trả lời phỏng vấn. Cũng không lên mạng. Tớ đã viết một lô một lốc những lá thư để hỏi chuyện gì đã xảy ra với mọi người, nhưng ông ấy cũng không bao giờ hồi đáp. Thế…ừm,” tôi ngừng nói vì có vẻ Augustus không chú ý. Thay vì đó, cậu ấy liếc sang Isaac.

“Đợi nhé,” cậu ấy thì thầm với tôi. Cậu ấy đi về phía Isaac và chộp lấy hai vai cậu ta. “Thằng điên, gối vỡ sao được. Kiếm cái gì vỡ được đi.”

Isaac với lấy chiếc cúp bóng rổ ở giá phía trên chiếc giường và cứ giữ nó trên đầu như thể còn đợi lệnh. “Đúng rồi,” Augustus nói. “Ném đi!” Chiếc cúp lao thẳng xuống nền nhà, tay anh cầu thủ bóng rổ bằng nhựa đứt rời ra, vẫn nắm chặt quả bóng. Isaac giẫm lên chiếc cúp. “Đúng rồi!” Augustus nói. “Tiếp đi!”

Và rồi quay lại với tôi, “Tớ đã cố tìm cách để nói với bố rằng thật ra tớ ghét bóng rổ, tớ nghĩ chúng ta đã tìm ra rồi đấy.” Các chiếc cúp lần lượt lần lượt bị lôi xuống, Isaac tiếp tục giẫm đạp lên chúng và hò hét trong khi Augustus và tôi đứng cách đó chỉ vài feet[22], chịu đựng việc phải chứng kiến cơn điên cuồng. Những mảnh vụn của các cầu thủ bóng rổ bằng nhựa sứt sẹo và đáng thương vương vãi khắp dưới thảm: đây, một bàn tay vỡ đang ôm quả bóng; kia, đôi chân cụt thân vẫn trong tư thế nhảy lưng chừng. Isaac vẫn tiếp tục đập phá những chiếc cúp, nhảy lên chúng bằng cả hai chân, hò hét, hổn hển, đẫm mồ hôi, cho đến khi cuối cùng cậu ngồi sụp xuống đống đổ nát của những chiếc cúp vỡ tan tành.

Augustus bước về phía cậu ấy và nhìn xuống. “Thấy đỡ hơn chứ?” cậu ấy hỏi.

“Không,” Isaac lầm bầm, lồng ngực cậu phập phồng.

“Đó là câu chuyện về nỗi đau,” Augustus nói, và rồi liếc lại nhìn tôi. “Nỗi đau là để cảm nhận.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.