Một Ngàn Con Đường Quê

Chương 12



Shorty

Sau khi đổi máy bay ở Denver, Carlisle McMillan xuống Seattle vào chiều ngày thứ Hai. Tối thứ Ba, Cú Muỗi Cummings chơi nhạc ở Shorty. Carlisle đã được khẳng định qua điện thoại, trước khi đặt vé.

– Vâng, Cú Muỗi biểu diễn vao các tối ngày thứ Ba suốt năm năm nay. Tôi cho rằng tối thứ Ba tới, ông ta sẽ ở đây như thường lệ, – người bồi rượu nói.

Carlisle nhận phòng ở một khách sạn trong khu thương mại, rồi đi loanh quanh trong một ngày nắng đẹp hiếm hoi của mùa này ở Seattle; anh cảm thấy hơi phân vân vì có quá nhiều người đến và đi. Trong mươi phút, anh nhìn thấy nhiều người xoay tít quanh anh hơn trong mười năm ở Salamander, Nam Dakota. Cuộc dạo chơi ngẫu nhiên đưa anh tới phố Spring, và mới được nửa chừng là khối nhà có câu lạc bộ Shorty, đúng nơi người ta bảo anh.

* * *

Đúng hôm thứ Hai đó, ở đầu kia của Reno và rẽ hướng tây vào California, Robert Kincaid ghé vào một thị trấn tên là Soda Springs chỉ vì ông thích cái tên đó. Ông thay dầu cho chiếc Harry và mua tạp phẩm, chất vào cái thùng lạnh mòn vẹt nào kem, bánh mì, hoa quả và rau tươi, và tất nhiên là những thanh kẹo Milky Way. Giữa trưa, ông vòng khoảng ba chục dặm qua hồ Clear và hai giờ sau, đến Thái Bình Dương ở pháo đài Bragg. Cách chọn đường không hẳn là tùy hứng Ông có thể nhanh chóng quyết định đi theo những con đường ít người qua lại, nhưng ông biết vì sao lại chọn đường này: pháo đài Brasg, California chỉ cách Mendocino mười dặm về phía bắc.

Bóng tối đã bao trùm khoảng hai mươi phút và các cửa hàng đang đóng, Robert Kincaid rời đường Một vào Mendocino lúc cuối chiều. Ông đỗ xe ở khu nhà đối diện với phòng trưng bày nghệ thuật, để Con Đường lại trong xe và đi trên vỉa hè, cho đến lúc trông thấy các bức ảnh của Heather Michaels bày trong cửa kính.

Kincaid dừng lại bên cửa, không biết chính xác sẽ làm gì hoặc nói gì với người phụ nữ mà ông nhìn thấy trong chuyến thăm Mendocino gần đây, và ông giật mình khi thấy bà hiện ra ở bên kia cửa kính. Wynn McMillan cầm tấm biển “Mở cửa” đung đưa trên một sợi dây và quay mặt “Đóng cửa” ra. Làm được nửa chừng, bà ngừng lại, tay trái vẫn cầm tấm biển. Bà nhìn chăm chú qua lớp kính vào người đàn ông cao, gầy, mớ tóc hoa râm dài, đeo dây quần, quần jeans, áo len dài tay màu đen, con dao đeo ở thắt lưng. Bà chợt nhớ ra bài giảng ngắn về việc cần đeo dây quần trên bãi biển ở Big Sur gần bốn chục năm trước.

Hình như thời gian tự quay trở lại, bà từ từ mở cửa và đứng một lát, nhìn vào cặp mắt xanh biếc, điềm tĩnh trên gương mặt rám nắng và đầy nếp nhăn vì nhiều năm dãi dầu dưới nắng. Người đàn ông liếm môi như định nói, nhưng dường như không thể thốt nên lời. Ông cố nói lần nữa và lại thất bại. Ông nhìn đôi giày ống của mình, rồi nhìn người đàn bà, gương mặt ông nghiêm trang và thoáng ửng hồng.

– Tôi tên là Robert Kincaid, – ông nói, rồi không biết nói gì nữa.

Wynn McMillan mỉm cười dịu dàng:

– Em nghĩ có lẽ chúng ta đă quen biết nhau, từ trước đây rất lâu.

* * *

Trong nhà hàng và bar Sea Gull, Wynn McMillan ngồi ở bàn, đối diện với Robert Kincaid. Những ngọn gió tây bắc đầu tiên thổi vào đại dương thành sóng bạc đầu, và tiếng sóng đập vào những tảng đá ven bờ nghe rất rõ qua cửa sổ mở. Kincaid gọi bia, Wynn chọn vang trắng. Ông đan hai bàn tay trên bàn và nhìn chúng đăm đăm, rồi ngước mắt ngắm Wynn McMillan và mỉm cười, cố nghĩ ra câu gì để nói. Nhưng ông chỉ có thể buột ra một tiếng thở dài, chầm chậm, dường như ông đã giữ nó một thời gian, và để nụ cười ngập ngừng lan trên mặt.

– Là anh phải không? Chắc chắn chứ? – Wynn hỏi, nửa như nói chuyện, nửa như muốn khẳng định lần cuối.

– Nếu em hỏi về người đàn ông cưỡi xe máy vào Big Sur năm 1945 và làm tình với một cô gái xinh xắn, trẻ trung chơi xenlô trên một bãi biển hẻo lánh, thì câu trả lời là đúng, – ông nói. – Việc này rất khó xử cho tôi, và chắc với em cũng vậy.

Họ ngồi như những người bạn cũ hơn là những người tình. Big Sur là một quãng đường xa xăm về trước, và hồi đó họ ở bên nhau chỉ có vài ngày.

– Anh đã đến Mendocino tuần trước phải không? – Wynn hỏi.

– Phải. Tôi nhìn qua cửa kính của gallery và thấy em. Tôi không nhận ra em, ngoài cách em cử động đôi bàn tay và vấn tóc y như hồi ấy, thỉnh thoảng em lại sờ lên cái lược.

Robert Kincaid nhìn thẳng vào Wynn McMillan, và ông nhận thấy sự cách biệt mười ba năm về tuổi tác của họ lúc này dường như lớn hơn hồi năm 1945. Ở tuổi sáu mươi tám, ông đã ở bên rìa tuổi già và biết vậy. Nhưng bà mới năm mươi nhăm và vẫn giữ được một số nét trẻ trung.

– Em vẫn chơi xenlô chứ? – Ông hỏi.

– Vâng, phần lớn là với bạn bè thôi. Thỉnh thoảng, bọn em tổ chức những buổi hòa nhạc nhỏ ở đây. Còn anh? vẫn chụp ảnh ư?

– Phải, trong suốt những năm ấy tôi lang thang trên đường khá nhiều. Nhiều công việc ở nước ngoài nữa. – Ông uống cạn cốc bia, đúng lúc người hầu bàn ghé qua. Kincaid gọi cốc bia thứ hai. Ông rút bao Camel ra, nhưng nhận thấy không có gạt tàn trên bàn, và lại đút vào túi. – Sau khi rời Big Sur, tôi đã viết cho em hai hoặc ba lần, – ông nói, lúc người hầu bàn đi khỏi.

– Sau khi anh đi, em ở lại đấy không lâu. – Bà chỉ nói thế, và thế là đủ giải thích cho việc không bao giờ nhận được thư từ.

Phần tiếp theo sẽ khó nói hơn, và Wynn McMillan phân vân một lúc, liệu có cần nhắc tới Carlisle không. Bà quyết định người đàn ông này có quyền được biết, người mà họ của ông bà còn chưa nhớ ra, cho đến khi ông tự giới thiệu hai mươi phút trước.

– Anh có kết hôn, có gia đình không? – Bà hỏi, như một cách chuyển vào chủ đề.

– Tôi cưới một phụ nữ dễ thương vào năm 1953. Chúng tôi đã ly hôn sau đó vài năm, không có con. Công việc của tôi không thuận lợi cho hôn nhân, tôi phải đi quá nhiều. Còn em?

Đây là lúc để nói. Wynn McMillan nhấm nháp ly vang một lát, nhìn ra ngoài cửa sổ vào làn nước xôn xao, Thái Bình Dương chuyển động dữ dội hơn khi gió tây bắc làm thủy triều mạnh thêm. Hai nam và một nữ ngồi cùng nhau ở quầy phá lên cười đinh tai vì một câu mà người bồi rượu vừa nói. Kincaid liếc nhìn nhiều loại di vật của biển cả trang trí các bức tường nhà hàng, rồi lại nhìn xoáy vào Wynn McMillan lúc bà bắt đầu nói.

– Hồi ngoài ba mươi tuổi, em kết hôn với một người trong sáu năm, – bà kể. – Ước mơ thành nhạc công xenlô trong dàn giao hưởng đã tàn, có lẽ vì em không bao giờ đủ giỏi giang về mặt kỹ thuật, cũng có lẽ vì thành kiến với phụ nữ của các giám đốc nghệ thuật hồi ấy. Dù sao, em cũng chuyển hướng quá nhanh và loạng choạng lao vào một cuộc hôn nhân mà ngay từ đầu, em đã thấy là một ý tưởng ngu ngốc, và thời gian trôi qua, em càng thấy rõ nhiều thứ hơn. Tuy vậy, em hạnh phúc. Em đã gặp vài người đàn ông dễ thương ở đây, trên bờ biển phía bắc này. – Bà đang tránh né điều mà bà biết là phải nói và nhận ra.

Người hầu bàn trở lại, mang bia cho Kincaid và bỏ đi.

– Em không có con ư? – Kincaid hỏi, ông kéo thẳng một dây đeo quần, chỉnh lại thắt lưng, sờ con dao đeo ở đó.

Wynn McMillan nhớ lại những động tác này từ những ngày họ ở Big Sur, Robert

Kincaid kiểm tra xem trang bị có đâu vào đấy không, để biết chắc mọi thứ đã sẵn sàng. Bà sửa lại khăn ăn trên lòng, bỏ kính và đặt lên bàn. Sau khi nhìn ông một lúc lâu, bà vươn tay và nắm bàn tay ông vào trong tay bà.

– Chúng ta… chúng ta có một con trai, Robert Kincaid ạ… anh và em có một đứa con trai. Tên nó là Carlisle.

* * *

Sáng ngày thứ Ba, Carlisle McMillan ghé vào tòa soạn tờ Seattỉe Times và tự giới thiệu với Ed Mullins, biên tập viên ảnh đã nói chuyện với anh qua điện thoại.

– Chào anh McMillan. Rất mừng anh đã ghé vào. Tôi không biết anh có ý định tới Seattle. Tôi đã tìm ra tác phẩm “Những thanh sắt bỏ trên cao” của Kincaid tối hôm qua. Nó ở trong ô tài liệu đề “tàu hỏa”, vì một lý do ngớ ngẩn nào đó. Lẽ ra phải đề “Kincaid”. Như thế càng ấn tượng hơn. Chúng ta hãy đến máy Xeros kia kìa, tôi sẽ chụp cho anh một bản.

Hình như Mullins quá bận, điện thoại của anh reo không ngừng, nhiều người tạt vào bàn hỏi nhiều câu hoặc gợi ý, đề nghị các đề tài. Sau khi chụp bài báo, Carlisle cảm ơn biên tập viên lần nữa và ra đi. Ở khách sạn, anh uống một cốc bia vào bữa trưa, vừa ăn vừa đọc bài báo và sau đó ngủ một giấc dài. Anh chi muốn giết thời gian, càng đến gần thời điểm quyết định, anh càng có cảm giác đề phòng. Cú Muỗi Cummings sẽ lên sân khấu lúc chín giờ. Khi Carlisle tỉnh giấc, anh vẫn còn sáu tiếng nữa để đợi. Anh quyết định khoảng tám giờ sẽ đến Shorty, phòng trường hợp Robert Kincaid đến sớm.

Trong lúc anh tập dượt những lời sẽ nói, hình như chẳng có lời nào ổn. Tất cả dường như quá tò mò, tọc mạch, nếu không xấc xược. Từ những điều anh biết qua cuộc trò chuyện với biên tập viên và cuộc gặp ngắn ngủi với Goat Phillips – anh ta đã rời phòng làm ảnh vài phút để nói chuyện với Carlisle, – anh biết Kincaid là người khép kín và hình như khó tiếp cận. Thực ra, họ coi ông là người lập dị.

Carlisle tập những câu có thể nói với Kincaid, và càng tập, anh càng thấy ngớ ngẩn. Trên thực tế, nói toạc chuyện này ra thật tức cười.

– Xin chào, tôi là Carlisle McMillan, và tôi có lý do để tin rằng có thể tôi là con hoang của ông.

Hoặc:

– Xin chào, tôi nghe nói ông có một chiếc mô tô Ariel Four. Một loại xe máy kinh khủng.

Hoặc:

– Chào ông. Ông đã từng làm tình với một phụ nữ ở Big Sur, Califomia?

Hay có thể là:

– Ông đã từng nghe về một phụ nữ chơi xenlô tên là Wynn McMillan bao giờ chưa?

Với mức độ “khéo léo” như thế, cũng dễ hiểu nếu Kincaid đứng phắt dậy và bỏ đi, nếu không chạy ra khỏi cửa, kết thúc toàn bộ sự việc mãi mãi.

Cuối cùng, Carlisle quyết định sẽ làm giống như quy trình của nghề mộc. Cứ đến Shorty, liếc qua một cái rồi lúc đó sẽ bắt đầu hình dung công việc. Bảy giờ, ngoài cửa sổ, thành phố đã lên đèn, anh mặc cái quần kaki thụng, sơmi flanen và áo khoác da.

Thang máy đưa anh tới hành lang. Đường phố đưa anh tới Shorty.

Người gác cửa nói vé vào cửa là ba đôla.

Ông ta nói thêm:

– Ở đây chỉ có một bàn hai chỗ, ở cạnh tường kia kìa, và Cú Muỗi của chúng tôi thường dành riêng cho một người bạn của ông ấy, gần như tối thứ Ba nào cũng tới. Vì anh chỉ có một mình, chúng tôi sẽ rất cảm kích nếu anh ngồi ở quầy.

Carlisle nói anh hiểu, và ngồi bên quầy, anh gọi bia, nhìn đăm đăm vào cái bàn gần tường có biển “Dành riêng” nghễu nghện trên tấm khăn trải bàn kẻ ô vuông màu xanh lơ. Trên sân khấu nhỏ cách cái bàn dành riêng ấy không xa, một tay trống đang điều chỉnh đồ nghề.

* * *

Robert Kincaid và Wynn McMillan trò chuyện gần hết đêm thứ Hai. Dở chừng câu chuyện, ông chợt nhớ ra, ân hận và tự trách mình vẫn để Con Đường trên xe. Họ cùng Con Đường đi trong gió mạnh, mây che kín một phần tư mặt trăng. Bà kể với ông những năm nuôi dạy Carlisle, và trở lại nhà hàng họ đã đặt bữa ăn muộn, bà miêu tả dưới bàn tay huấn luyện của một người tên là Cody Marx, con trai họ đã thành một thợ mộc cừ khôi.

Wynn McMillan kể với ông về việc Carlisle đi tìm một người đàn ông tên là Robert Kincaid, anh đã tìm ra cái tên này qua cuộc tìm kiếm, kết hợp với những gì mà bà còn nhớ được. Kincaid lắng nghe, cố điều chỉnh thầm trong tâm trí, thay đổi sao cho cuộc đời ông dường như bỗng nằm ở phía trước và đằng sau ông. Cho đến lúc này, những sự thật thầm kín của ông, ý nghĩa lớn lao là người đơn độc trên đời bỗng lẫn lộn lung tung vì những điều Wynn McMillan kể với ông suốt bốn giờ qua.

Khoảng mười một giờ, bà nói:

– Robert à, em nghĩ chúng ta nên gọi điện cho Carlisle và bảo nó là anh đang ở đây.

Kincaid đồng ý và cùng bà tới bốt điện thoại công cộng ở sau quán bar. Vào giờ đó, khách còn đông nửa quán và vẫn trò chuyện náo nhiệt. Wynn quay số của Carlisle ở Nam Dakota và cuối cùng đặt lại ống nghe sau mười hồi chuông.

– Trời mới biết thằng bé ở đâu, – bà nói và mỉm cười. – Nó hơi giống bố nó, luôn di chuyển đây đó. Em hơi chán không khí quán bar rồi, và nếu anh không ngại, có lẽ chúng ta về nhà em và nói chuyện tiếp.

Sau đó, khoảng hơn một giờ sáng, ông đề nghị bà chơi cho ông nghe bản nhạc bà đã chơi ở Big Sur. Wynn ngồi trên cái ghế lưng thẳng và chơi nhạc phẩm của Schubert. Robert Kincaid ngồi trên cái xích đu bằng gỗ, lắng nghe, đầu cúi xuống, hai bàn tay đan vào nhau trên lòng.

Lúc bà chơi xong, ông cảm ơn và nói:

– Wynn, anh luôn nhớ cát ấm biết chừng nào trong tháng Chín năm 1945. Đó là một trong những điều anh luôn nhớ.

Wynn nghiêng đầu và dịu dàng mỉm cười với ông.

– Em biết, Robert Kincaid ạ. Em cũng nhớ như thế.

Kincaid có một công việc nhỏ, chụp ảnh minh họa cho tạp chí Seattle ra hàng tháng. Họ sẽ trả ba trăm đôla, và ông cần tiền. Wynn và ông đã thỏa thuận, bằng cách này hay cách khác, ba người – Wynn, Kincaid và Carlisle – sẽ gặp và chia sẻ thời gian cùng nhau.

– Em không chắc chúng ta có đủ tư cách thành một gia đình, – bà nói. – Nhưng dường như là một việc đúng đắn cho tất cả chúng ta ngồi và lắng nghe các câu chuyện về cuộc sống của nhau, những việc chúng ta đã làm và chưa làm, kể lại những thất bại và nhớ đến những thành công.

Ông tình nguyện lái xe đưa bà đến Nam Dakota, nếu cần. Nhưng vì công việc, Wynn nói sẽ bảo Carlisle về thăm nhà và rất có thể anh sẽ bay ngay chuyến đầu tiên sau khi nghe mẹ kể diễn biến của sự việc.

Wynn mời Kincaid nghỉ lại trên chiếc đi-văng, song ông lịch thiệp từ chối, nói ông thích gặp bà để ăn sáng, và như thế hay hơn. Ông cảm thấy cần phải ở một mình, suy nghĩ và sắp xếp mọi điều Wynn kể với ông theo đúng trình tự.

Sáng hôm sau, ngày thứ Ba, hai người đứng cạnh xe ông một lúc, vì ông đã sẵn sàng về Seattle. Trong ánh nắng, lúc Kincaid thanh thản thò tay vào cửa xe vỗ về Con Đường, bà có thể nhận ra những dấu vết riêng của chàng trai cưỡi xe máy ở Big Sur. Hiện giờ ông hơi lê chân một chút, nhưng đôi vai rộng và thân hình mảnh dẻ vẫn không thay đổi. Và xúc cảm mãnh liệt vẫn y nguyên. Cái nhìn mà bà vẫn nhớ, cái nhìn thấu suốt và xa hơn bất cứ thứ gì ông nhìn thấy, chỉ ông mới có thể nhìn thấy và không thể nói thành lời, trừ diễn đạt qua ống kính máy ảnh của ông.

Bà mỉm cười với ông. Ông giơ tay bắt tay bà và bước tới, vòng tay ôm bà và ngửi mùi tóc bà như ông đã ngửi trên bãi biển ở Big Sur, ba mươi sáu năm trước. Bà tựa đầu lên ngực ông và chỉ ra đại dương:

– Vào tháng Ba, cá voi vẫn đến, – bà thì thầm.

****

Cú Muỗi Cummings bước lên sân khấu lúc chín giờ hai phút, tiếng vỗ tay ran khắp ba phần tư phòng, ông bắt đầu bật ngón tay và tiếng vỗ tay lặng bặt. Ông nâng cây kèn xắcxô têno Selmer đã cũ lên. Nhóm tứ tấu ngừng và bắt đầu bài Đêm huyền diệu, tiếng kèn têno của Cú Muỗi uyển chuyển, mượt mà, những thanh âm sắc, lạnh của khúc nhạc pop ẩn dưới sự dịu ngọt.

Cái bàn dành riêng gần tường vẫn trống. Carlisle McMillan cố tập trung vào tiếng nhạc, nhưng không thể. Cứ mỗi phút anh lại nhìn cái bàn, rồi nhìn ra cửa.

Là con trai của Wynn McMillan, nhạc công xenlô, được dạy dỗ cẩn thận nên thẩm âm của Carlisle McMillan khá sành, nhưng không phải cho dòng nhạc này. Tuy Cú Muỗi Cummings đã giới thiệu bài, ông nói vào micro rất dịu nhẹ và khẽ khàng như thể ai cũng biết tên các bản nhạc, ông nhắc đến chúng chỉ là hình thức chứ không phải vì cần thiết. Carlisle nghe được một bài là phố Cá heo xanh, bài khác là Oleo do một người nào đấy có họ Rollins (Sonny Rollins, sinh năm 1930, nhạc công xắcxô nổi tiếng của Mỹ/ được coi là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nhạc jazz) viết, còn anh không thể nghe được Cú Muỗi nói tên là gì.

Sau phần đầu tiên, cái bàn hai chỗ duy nhất, dành riêng vẫn để trống, Cú Muỗi Cummings đến quầy và gọi một ly Glenlivet. Ông đứng cách Carlisle độ một mét và dựa vào quầy, nhấp từng ngụm và quan sát đám đông. Nhiều người dừng lại, những người hâm mộ thân thiết, căn cứ vào cách họ bắt tay nhau và trò chuyện rất am hiểu về âm nhạc.

– Phải, – Cú Muỗi nói với một người trong bọn, kiểu nói của ông khẽ khàng, lôi cuốn. – Joey đánh một hợp âm phụ thứ bảy, ngay trước âm chủ – anh ấy thường không làm thế trong bản Những ngôi sao rơi xuống Alabama – và tôi nghe như có một âm thanh trong đầu mà tôi không sao kết hợp được với hòa âm trước đó.

Một người khác yêu cầu bài Lá thu, Cú Muỗi liền đáp:

– Chúng tôi sắp chơi bài ấy, có lẽ ở phần sau. Có một người bạn của tôi luôn thích nghe bài này, và tôi đang đợi xem tối nay ông ấy có đến không.

Lúc chỉ còn một mình, Cú Muỗi liếc nhìn Carlisle và nói:

– Xin chào. Tôi không nghĩ trước đây đã gặp cậu ở câu lạc bộ này.

– Tôi đến đây vì một lý do đặc biệt, – Carlisle mỉm cười.

Cú Muỗi nheo mắt lại:

– Có thể là gì đây?

– Tôi đang tìm một người tên là Robert Kincaid.

Mặt Cú Muỗi thản nhiên:

– Tại sao cậu tìm người có tên đó?

Carlisle nói một hơi về cây phả hệ, hy vọng Cú Muỗi có thể cho biết tin tức. Cú Muỗi nhấp một ngụm Glenlivet nữa và lặng thinh.

Sau khi đợi một lát cho phải phép, Carlisle nói tiếp:

– Tôi biết ông ấy sắp tới đây, ông và ông ấy có lẽ là bạn.

– Nếu chúng tôi là bạn, tôi sẽ không nói gì hết. Tôi không bao giờ nói về bạn bè trừ khi họ muốn tôi nói. Đấy là một cách hay để không mất những người bạn tốt. Rất vui được gặp cậu. Tôi phải đi chuẩn bị cho phần sau đây.

Cú Muỗi tiến thẳng đến chỗ sân khấu, cầm cây xắcxô têno lên và thư giãn, những ngón tay màu đen của ông lướt trên các phím màu vàng nhanh đến khó tin trong các gam Mi giáng trưởng, trong lúc ba nhạc công kia vào chỗ.

* * *

Tám giờ tối thứ Ba, Robert Kincaid về đến nhà, cho Con Đường ăn và dọn giường cho mình. Ông ngồi trong bếp và nhớ lại mọi thứ.

Wynn McMillan kể với ông. Một cuộc đời kỳ lạ, trong hai mươi tư giờ qua càng trở nên kỳ lạ hơn. Ông đến tủ đựng tài liệu và lấy ra một hộp ảnh. Ông ngồi đó một lúc, ngắm Francesca Johnson. Vài ngày trước, ông đã đứng trong không gian của bà và nhớ lại. Trời ạ, ông vẫn yêu bà biết bao, dẫu ông phải thừa nhận với mình rằng những việc như thế nhớ lại thường đẹp hơn là có thực.

Về mặt nào đó, Francesca nên biết về Wynn và Carlisle. Ông không chắc vì sao lại cần như thế, hình như lúc ấy ông thấy thế là đúng, là một việc chân thành và trung thực. Ba năm trước, ông đã để lại cho luật sư của ông một bức thư. Trong thư chỉ dẫn nếu có chuyện xảy ra với ông, luật sư sẽ gửi bức thư này cùng những thứ kèm theo tới một địa chỉ ở quận Madison, Iowa. Ông quyết định thảo lại bức thư và sẽ gửi đến văn phòng luật sư nếu có dịp.

Nhìn đăm đăm bức ảnh Francesca, ông bắt đầu khóc, và tiếng khóc biến thành những tiếng thổn thức, tắc nghẹn, không rõ ràng.

“Lạy Chúa… Chúa ơi… suốt thời gian này… tất cả thời gian này, tất cả… suốt thời gian dài cô đơn, khốn nạn này… mình đã không chỉ có một mình.” Con Đường đến ngồi cạnh ông, huých vào cánh tay Kincaid.

Lúc này, Robert Kincaid phải đương đầu với mặc cảm tội lỗi sâu sắc. Có lỗi vì sinh ra một đứa con trai mà không ở đó, đỡ đần Wynn McMillan trong những năm nuôi dạy Carlisle. Wynn đã cố hết sức giảm nhẹ lỗi ấy, bà nói chưa bao giờ bà hối tiếc đã sinh ra Carlisle và không có cách nào để Kincaid biết.

Lời lẽ của bà làm nhẹ đi chút ít, nhưng Kincaid biết ông sẽ mang cảm giác có lỗi suốt phần đời còn lại. Hoàn cảnh là một việc, còn thực tế ông không ở đó là một việc khác hẳn, và chẳng có cách nào dung hòa với điều ấy. Có lẽ ông sẽ đền bù cho bà và Carlisle bằng cách nào đó.

Ba mươi phút sau, ông xem đồng hồ. Chín giờ. Thời tiết bên ngoài tốt, và Cú Muỗi đang biểu diễn rồi đây. Khỉ thật, người vừa đến gần Francesca Johnson lần nữa và cũng vừa phát hiện ra mình có một đứa con trai, ông ta chưa bao giờ biết nên làm gì để kỷ niệm hoặc ít ra để đánh dấu sự kiện này. Một tình yêu lớn đã mất, một đứa con trai được tìm thấy. Người ta không thể bỏ cái này lấy cái kia, những thứ quá ư khác nhau, kể cả sự thăng bằng trước kia ông chưa bao giờ cảm thấy, đã bước vào đời ông. Ông có thể bắt kịp chuyến phà mười giờ.

Kincaid tới chỗ Con Đường nằm dài trên tấm chăn cũ. Ông ngồi xổm xuống và vuốt ve con chó.

– Lát nữa ta sẽ trở lại, anh bạn của ta ạ. Ta sắp đi thăm ông bạn Cú Muỗi của chúng ta.

Ông mặc áo khoác và nhẹ nhàng khép cửa lại sau lưng.

* * *

Carlisle kéo cánh tay áo khoác da lên, xem giờ. Anh chảy nước mắt vì khói thuốc tỏa khắp Shorty, anh chớp chớp hai lần và cố nhìn đồng hồ. Mười giờ rưỡi, cái bàn hai chỗ dành riêng vẫn để trống. Anh đổi chỗ, gọi cốc bia thứ ba trong một buổi tối.

Cú Muỗi Cummings và cả nhóm thực sự hâm nóng không khí, họ chơi hết bản Không có nghĩa gì của Ellington. Cú Muỗi lùi lại, để người chơi dương cầm độc tấu trong lúc nhạc công chơi bass gập người trên cây đàn, bàn tay nghều ngào lướt khắp phím. Người đánh trống lắc lư đầu, nhấn mạnh ở chỗ cần nhấn. Carlisle nhận ra Cú Muỗi cười toét miệng và giơ tay chào rất tế nhị về phía cửa Shorty.

Carlisle xoay ghế và nhìn thấy một người đàn ông tóc dài, hoa râm bước vào. Bàn tay anh chợt toát mồ hôi lúc quan sát ông ta đi qua các bàn và đến ngồi ở cái bàn hai chỗ cạnh tường. Nhờ các bức ảnh đã xem trong tờ National Geographic, anh biết chắc người đó là Robert Kincaid. Người phục vụ đến bên bàn, mang cho Kincaid một chai bia không cần chờ ông gọi, và cất tấm biển “Dành riêng” đi. Cú Muỗi cầm cây kèn têno và cùng người chơi dương cầm chơi bốn tay.

Sau hai bài, Cú Muỗi nói vào micro:

– Tôi sẽ chơi một bài tặng người bạn thân của tôi. Tôi đã sáng tác bài này một thời gian trước, và đặt tên là Francesca.

Cú Muỗi thổi một nhịp chậm rồi tiếp đó là một tiếng sâu trong cổ, du dương trong nhịp đầu tiên, phát âm rõ ràng tên người phụ nữ.

Người đàn ông ngồi ở bàn hai chỗ chải mớ tóc ra sau bằng cả hai bàn tay. Ông ta nhô về phía trước, các ngón tay ôm lấy chai bia và đăm đăm nhìn cái chai, lắng nghe.

Ở điệp khúc thứ hai, Cú Muỗi hạ cây kèn xuống và bắt đầu hát bằng giọng nam trung đầy lôi cuốn:

Francesca, anh rất nhớ em và những con đường xưa của mùa hè.

Em đeo vòng bạc lúc những ngày dài vàng óng…

Đến cuối bài hát, người chơi dương cầm cùng cả nhóm chuyển từ cung Si giáng sang Mi thứ và để Cú Muỗi giới thiệu là bài Lá thu. Cạnh tường, người đàn ông tóc hoa râm vẫn nhìn chằm chặp vào chai bia của mình. Lúc quan sát ông ta, Carlisle hiểu rằng mẹ anh có lý khi nhớ cặp mắt ông, cái nhìn già giặn của ông, già hơn những người suốt đời sống độc thân. Anh thử và không khó khăn gì, hình dung người đàn ông bên bàn là người cưỡi chiếc môtô phân khối lớn chạy dọc các rẻo đất Santa Lucia. Anh có thể thấy ông băng qua các cây cầu cao và lượn vào những khúc đường cong trong khi cô gái ôm eo ông, mớ tóc dài màu nâu của cô bay ra phía sau và rối bời trong gió.

Lúc Cú Muỗi kết thúc bài Lá thu bằng nửa cung ngân vang da diết, ông nhìn xuống Robert Kincaid ngồi đó một mình, cả con đường dài từ nơi nào đó, một nơi mà Cú Muỗi Cummings biết. Kincaid ngước nhìn Cú Muỗi, mỉm cười và gật đầu, cảm kích vì những bài hát.

– Cảm ơn rất nhiều. Tôi sẽ trở lại ngay. – Cú Muỗi nói vào micro và đặt cầy kèn têno lên giá. Ông rời sân khấu và tiến đến cái bàn hai chỗ, ngồi xuống và bắt tay Kincaid. Lúc họ nói chuyện, Cú Muỗi hai lần đưa mắt về phía Carlisle McMillan ngồi bên quầy. Sau một, hai phút, người đàn ông tóc hoa râm nhìn Carlisle.

Có lẽ mình đã xử lý việc này một cách ngu dại, Carlisle nghĩ. Anh thấy rõ hai người này, Cú Muỗi và Robert Kincaid, là những con người đặc biệt, sống trong một vũ trụ hoàn toàn tách biệt với phần lớn mọi người và nhất là với thế hệ của mình. Không tự phụ, cũng không có thái độ coi thường như những người ở lứa tuổi sáu mươi và bảy mươi, mà hình như có vẻ khoan dung.

Robert Kincaid quay đầu lần nữa và nhìn chằm chằm vào Carlisle. Ông nói gì đó với Cú Muỗi, và người thổi kèn xắcxô đứng dậy, đi đến đầu kia quầy. Cú Muỗi gọi một Glenlivet và bắt đầu trò chuyện với người bồi rượu. Kincaid uống bia thêm lát nữa, nhớ lại bức ảnh Wynn McMillan mang theo tới bữa sáng. Điện thoại sau quầy bắt đầu reo lúc Kincaid đứng dậy, hơi tập tễnh bước tới chỗ Carlisle, ông mỉm nụ cười ấm áp và bao bọc của người cha không gặp con trai mình suốt một thời gian dài.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.