Người Tình Sputnik
Chương 08
“Tôi quen biết những người sản xuất rượu vang ở làng này nhiều năm rồi và tôi hiểu về rượu vang của họ như hiểu địa thế nhà mình vậy. Loại vang nào sẽ được sản xuất từ những cây nho ở sườn đồi đó trên cánh đồng đó. Thời tiết trong năm ảnh hưởng đến hương vị ra sao, nhà sản xuất nào lao động cật lực nhất, con của ai giúp bố mình đắc lực nhất. Mấy nhà sản xuất nào đã trả được bao nhiêu nợ, ai mua chiếc Citroen mới. Những chuyện đại loại thế. Chế biến vang cũng giống như nuôi ngựa nòi vậy: phải biết giống và những thông tin mới nhất. Anh không thể kinh doanh chỉ dựa trên việc biết cái nào ngon cái nào không.”
Miu ngừng lại một lúc để thở lấy hơi. Dường như chị không thể quyết định nổi nên tiếp tục hay thôi. Chị kể tiếp.
“Ở châu Âu tôi có mấy nơi để mua rượu vang, nhưng nguồn cung cấp là ngôi làng ở Burgundy này. Vì vậy năm nào tôi cũng cố gắng ít nhất một lần dành một khoảng thời gian hợp lý cho nơi này để củng cố quan hệ và thu thập tin tức mới nhất. Tôi luôn đi một mình nhưng lần này chúng tôi đi thăm Ý trước, và tôi quyết định đưa Sumire đi cùng. Đôi khi trong những chuyến đi thế này cũng nên có người đi cùng, hơn nữa tôi cần tiếng Ý của cô ấy. Cuối cùng tôi quyết định mình thà đi một mình còn hơn, và dự định phải tìm ra cớ gì đó để cho cô ấy về nhà trước khi tôi bay đến Pháp. Từ hồi trẻ tôi đã quen đi đây đi đó một mình, và dù thân thiết đến thế nào thì cũng chẳng dễ dàng gì khi ở bên cạnh một người khác hết ngày này sang ngày khác.
Sumire tỏ ra tháo vát không ngờ, cô ấy lo liệu mọi việc cho tôi rất chu đáo. Mua vé, đặt phòng khách sạn, thỏa thuận giá cả, ghi chép chi tiêu, tìm các hiệu ăn ngon ở địa phương. Những việc đại loại như vậy. Tiếng Ý của cô ấy cải thiện đáng kể, và tôi thích sự tò mò tích cực của cô ấy, nó giúp tôi trải nghiệm những điều tôi sẽ không bao giờ có nếu đi một mình. Tôi ngạc nhiên thấy việc đi cùng một người khác cũng dễ dàng biết bao. Tôi cho là mình cảm thấy như vậy vì có một điều đặc biệt nào đó đã mang chúng tôi lại với nhau.”
“Tôi nhớ rất rõ lần đầu chúng tôi gặp nhau và chúng tôi đã trò chuyện về các Sputnik. Cô ấy nói về các nhà văn thuộc nhóm Beatnik, còn tôi lại nhầm và nói ‘Sputnik’. Cả hai phá lên cười và thế là quen nhau. Anh có biết trong tiếng Nga ‘Sputnik’ có nghĩa là gì không? ‘Bạn đường.’ Tôi mới tra từ điển. Nghĩ về chuyện đó thì thấy đúng là sự trùng hợp kỳ lạ. Tôi chẳng hiểu vì sao người Nga lại đặt cho vệ tinh của họ cái tên lạ lùng đó. Nó chỉ là một tảng kim loại nhỏ bé tội nghiệp, bay quanh Trái đất.”
Miu im lặng một lúc, rồi tiếp tục.
“Dù sao đi nữa, cuối cùng tôi đã đưa Sumire cùng đến Burgundy. Trong khi tôi gặp gỡ người quen và bàn chuyện làm ăn thì Sumire, vốn mù tịt tiếng Pháp, đã mượn xe lái đi quanh vùng. Tại một thị trấn, cô đã gặp một bà già Tây Ba Nha rồi thành bạn. Bà này giới thiệu cô với một ông người Anh đang ở cùng khách sạn. Ông ta ngoại ngũ tuần, có viết lách gì đấy, rất thanh lịch và ưa nhìn. Tôi chắc chắn ông ta là người đồng tính. Ông ta có một gã thư ký có vẻ như là bạn trai.”
“Họ mời chúng tôi ăn tối. Họ rất tử tế, và khi trò chuyện chúng tôi nhận ra hai bên cùng quen biết một vài người, và tôi cảm thấy như mình đã tìm được những người tâm đầu ý hợp.”
“Ông người Anh bảo chúng tôi ông có nhà nghỉ nhỏ trên một hòn đảo Hy Lạp và sẽ rất vui nếu chúng tôi đến đó ở chơi. Hè nào ông cũng đến đấy một tháng, nhưng hè này có một số việc nên không đến được. Nhà phải có người ở, nếu không đám người giữ nhà sẽ sinh lười biếng, ông nói vậy. Vậy nên nếu không có gì phiền thì xin cứ tự do dùng nó. Nói cách khác là ngôi nhà này.”
Miu đưa mắt nhìn quanh phòng.
“Thời sinh viên tôi đã từng đến Hy Lạp. Đấy là một chuyến đi lốc cuốn khi anh phải nhảy hết từ cảng này đến cảng khác, nhưng dù sao tôi vẫn yêu đất nước này. Vì vậy lời mời đến ở miễn phí bao lâu tùy thích trong ngôi nhà trên một hòn đảo Hy Lạp nghe thật hấp dẫn. Sumire cũng nhảy cẫng lên trước dịp may này. Tôi đề nghị trả tiền thuê nhà nhưng ông người Anh từ chối, nói là ông không phải người xây nhà cho thuê. Chúng tôi tranh luận một hồi, cuối cùng đi đến thỏa thuận là tôi sẽ gửi một chai vang đỏ đến nhà ông ở London để tỏ lòng cám ơn.”
“Cuộc sống trên đảo như trong mơ. Không biết đã bao lâu rồi tôi mới lần đầu tiên được hưởng một kỳ nghỉ thực sự, không phải bận tâm đến bất kỳ kế hoạch kinh doanh nào. Phương tiện liên lạc ở đây khá lạc hậu – anh biết về dịch vụ điện thoại khủng khiếp đó rồi đấy – và tuyệt nhiên không hề có fax hay Internet. Nếu trở về Tokyo muộn hơn dự kiến thì sẽ khiến mọi người lo lắng, nhưng một khi đã đặt chân lên nơi này thì dường như nó không còn quan trọng nữa.”
“Sáng nào Sumire và tôi cũng dậy từ sớm, xách túi đựng khăn tắm, nước uống, kem chống nắng đi bộ sang bãi biển phía bên kia đồi. Bờ biển ở đó đẹp đến ngạt thở. Cát trắng xóa, sóng gần như không có. Tuy nhiên, nó hơi xa xôi hẻo lánh nên rất ít người đến, nhất là vào buổi sáng. Mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, đều tắm khỏa thân. Chúng tôi cũng vậy. Thật là một cảm giác khó tả khi bơi trong làn nước biển xanh trong vắt buổi sáng, trần truồng như ngày chào đời. Anh cảm thấy mình như đang ở một thế giới khác vậy.
“Bơi chán, Sumire và tôi nằm trên bờ tắm nắng. Thoạt đầu hai chị em cũng có chút ngượng ngùng khi khỏa thân trước mặt nhau, nhưng khi đã quen rồi thì chẳng thành vấn đề nữa. Tôi đoán nguồn năng lượng của nơi này đã tác động đến chúng tôi. Hai chị em bôi kem chống nắng lên lưng nhau, nằm xoài dưới ánh mặt trời, đọc sách, thiu thiu ngủ, chuyện gẫu. Tôi cảm thấy thật sự tự do.
Chúng tôi băng núi trở về nhà, tắm rửa, ăn nhẹ, sau đó theo đường cầu thang đi xuống phố. Hai chị em vào quán cà phê ở cảng uống trà, đọc sách tiếng Anh, mua ít thức ăn ở cửa hàng, về nhà, rồi làm những việc mình thích cho đến chiều tối – đọc sách ngoài hiên hay nghe nhạc. Đôi khi Sumire ngồi trong phòng, hình như đang viết lách. Tôi có thể nghe thấy có tiếng mở máy tính và tiếng gõ bàn phím lách cách. Xế chiều chúng tôi ra cảng xem phà về. Hai chị em uống nước lạnh và quan sát hành khách lên bờ.”
>”Chúng tôi ở đó, lặng lẽ ngồi bên rìa thế giới, không ai có thể nhìn thấy. Cảm giác đúng như vậy – giống như ở nơi này chỉ có Sumire và tôi. Chẳng phải nghĩ ngợi đến điều gì khác. Tôi không muốn di chuyển, không muốn đi đến bất kỳ nơi đâu. Tôi chỉ muốn ở lại đây mãi mãi. Tôi biết điều này là không thể, cảnh sống – cuộc sống của chúng tôi tại nơi này chỉ là ảo ảnh nhất thời, và một ngày nào đó thực tại sẽ kéo chúng tôi quay trở lại với thế giới nơi chúng tôi đã từ đó đến. Nhưng chừng nào ngày đó còn chưa đến thì tôi vẫn muốn được tận hưởng mỗi ngày cho đến tận cùng, không vướng bận bất kỳ điều gì. Chúng tôi sống cuộc sống của mình ở nơi này. Cho tới bốn ngày trước.”
Sáng ngày thứ tư ở đảo hai chị em vẫn như thường lệ ra bãi biển, bơi khỏa thân, quay về nhà, sau đó lại ra cảng. Người hầu bàn ở quán cà phê nhớ mặt họ – khoản tiền boa hậu hĩ Miu luôn để lại đã không phí phạm – và niềm nở chào đón. Anh ta nói vài câu lịch sự khen họ hôm nay trông xinh đẹp biết bao. Sumire sang quầy báo mua một tờ báo tiếng Anh xuất bản ở Athens. Đấy là kênh liên lạc duy nhất của họ với thế giới bên ngoài. Công việc của Sumire là đọc báo. Cô kiểm tra tỷ giá hối đoái và dịch to cho Miu nghe những tin chính hay bài báo thú vị mà cô tình cờ lướt qua.
Vào cái ngày đặc biệt đó, bài báo Sumire chọn đọc to lên là bài tường thuật về một bà già bảy mươi tuổi bị đám mèo của mình ăn thịt. Chuyện xảy ra tại một vùng ngoại ô nhỏ của Athens. Người phụ nữ bị chết đã mất chồng, một thương gia, từ mười một năm trước và kể từ đấy sống lặng lẽ trong căn hộ hai phòng chỉ có mấy con mèo làm bạn. Một hôm bà lên cơn đau tim, ngã dập mặt xuống trường kỷ và tắt thở. Không ai biết bà giãy giụa bao lâu từ khi bị đau đến khi chết. Dù sao đi nữa, linh hồn người phụ nữ đó đã đi qua chặng đường đã định trước khi từ giã người bạn đường già nua của mình, cái cơ thể nó đã cư ngụ bảy mươi năm qua. Bà ta không có người họ hàng hay bạn bè nào thường xuyên đến thăm nên phải một tuần sau người ta mới phát hiện ra xác chết. Cửa chính đóng, cửa sổ khép chặt, và khi bà chủ chết thì bọn mèo không thể ra ngoài được. Trong nhà không có chút thức ăn nào. Chắc hẳn trong tủ lạnh cũng có thứ gì đó nhưng bọn mèo lại không có được những kỹ năng cần thiết để mở cửa tủ. Khổ sở vì cơn đói, chúng đã ngấu nghiến da thịt của bà chủ.
Sumire vừa thỉnh thoảng nhấp cà phê vừa dịch từng đoạn bài báo. Vài con ong vo ve quanh bàn, liếm chỗ mứt bị người khách trước làm đổ. Miu nhìn biển qua cặp kính râm, chăm chú nghe Sumire đọc.
“Rồi sao nữa?” Miu hỏi.
“Chỉ vậy thôi,” Sumire nói, gập tờ báo làm đôi và đặt xuống bàn. “Báo chỉ viết vậy.”
“Chuyện gì có thể xảy ra với bọn mèo được chứ?”
“Em không biết…” Sumire nói, mím môi nghĩ ngợi. “Báo chí bao giờ cũng vậy cả. Chúng không bao giờ nói cho người ta biết cái họ thực sự muốn biết.”
Lũ ong, dường như cảm thấy gì đó, bay lên vo ve lượn vòng trên không một lúc rồi lại đậu xuống bàn. Chúng lại liếm mứt.
“Không biết số phận mấy con mèo đó ra sao,” Sumire nói, kéo cổ chiếc áo phông quá khổ lên vuốt lại cho phẳng. Cô mặc áo phông quần soóc, và – Miu tình cờ biết – không mặc đồ lót.
“Những con mèo đã quen mùi thịt người có thể trở thành mèo ăn thịt người, vì vậy có lẽ họ đã giết chúng rồi. Hay cũng có khi cảnh sát nói, ‘Này, các chú chịu đựng thế đủ rồi,’ và chúng được tha bổng.”
“Em sẽ làm gì nếu là thị trưởng hay cảnh sát trưởng nơi đó?”
Sumire ngẫm nghĩ. “Cho chúng vào trung tâm từ thiện và làm chúng thay đổi thì sao? Biến chúng thành loài ăn chay.”
“Ý hay đấy,” Miu cười. Chị tháo kính và quay lại đối diện Sumire. “Chuyện này làm chị nhớ lại bài học đầu tiên khi chị vào trường trung học Thiên Chúa giáo. Chị đã kể em nghe là chị từng học sáu năm ở một trường trung học nữ sinh Thiên Chúa giáo rất nghiêm khắc chưa? Khi ở tiểu học thì chị học trường bình thường, nhưng khi lên trung học thì chị vào trường này. Ngay sau lễ khai giảng, một bà xơ lụ khụ tập trung toàn bộ đám học sinh mới bọn chị vào giảng đường và lên lớp về đạo đức Thiên Chúa giáo. Bà xơ là người Pháp nhưng nói tiếng Nhật rất lưu loát. Bà ta nói đủ thứ nhưng chị chỉ nhớ câu chuyện về những con mèo và đảo hoang.”
“Nghe hay nhỉ,” Sumire nói.
“Anh bị đắm tàu, dạt vào một hoang đảo. Chỉ có anh và một con mèo lên được xuồng cứu hộ. Sau một hồi lênh đênh trên biển, anh dạt vào hòn đảo lổn nhổn đá, không có gì để ăn. Đến nước uống cũng không. Trên xuồng chỉ có ít bánh bích quy và nước uống đủ cho một người dùng trong mười ngày, chỉ thế thôi. Đại loại câu chuyện là vậy.”
“Bà xơ đưa mắt quanh giảng đường rồi nói bằng một giọng mạnh mẽ, rõ ràng. ‘Hãy nhắm mắt và hình dung ra cảnh này. Các bạn bị dạt lên hoang đảo cùng một con mèo. Đó là một hòn đảo đơn độc ở nơi xa xôi hẻo lánh. Hầu như không thể xảy ra chuyện trong vòng mười ngày sẽ có người đến cứu. Khi thức ăn và nước uống cạn, các bạn nhất định sẽ chết. Vậy đấy, các bạn sẽ làm gì? Vì con mèo cũng đói khát như bạn, nên liệu các bạn có chia sẻ phần thức ăn ít ỏi của mình cho nó không?’ Bà ta lại ngừng lời và nhìn khắp mặt bọn chị. ‘Không. Làm thế là sai lầm,’ bà nói tiếp. ‘Tôi muốn các bạn hiểu rằng chia sẻ thức ăn của mình cho con mèo là sai lầm. Lý do vì các bạn là những sinh linh cao quý được Chúa chọn, còn con mèo thì không. Bởi vậy các bạn nên một mình ăn hết thức ăn.” Vẻ mặt bà xơ trông nghiêm trang tột độ.
“Thoạt tiên chị nghĩ đây là truyện đùa. Chị chờ đến điểm nút. Nhưng không có. Bà ta chuyển sang nói về phẩm giá và giá trị con người, nhưng đầu óc chị vẫn lẩn quẩn câu chuyện đó. Thật ra, ý chị là, đâu là lý do để kể câu chuyện loại đó cho những đứa trẻ mới vào trường chứ? Chị không hiểu được – chị vẫn không thể.”
Sumire đăm chiêu nghĩ ngợi.
“Ý chị là cuối cùng liệu có thể tán thành việc ăn thịt con mèo đó?”
“Ờ, chị không biết. Bà xơ không đề cập xa đến thế.”
“Chị là người theo đạo à?”
Miu lắc đầu.
“Không. Chỉ là tình cờ ngôi trường đó ở gần nhà chị nên chị đến đó học. Chị cũng thích đồng phục của trường ấy. Ở trường chỉ có chị không phải người Nhật Bản.”
“Chị đã trải qua bất kỳ kinh nghiệm tệ hại nào chưa?”
“Vì chị là người Triều Tiên ư?”
“Vâng.”
Miu lại lắc đầu. “Trường đó khá tự do. Các quy tắc có phần chặt chẽ, một số bà xơ rất kỳ cục, nhưng nhìn chung bầu không khí là tiến bộ, và không, chị chưa bao giờ phải nếm trải bất kỳ thành kiến nào. Chị có mấy người bạn thân, và nói chung chị thích trường học. Chị cũng có vài kinh nghiệm khó chịu, nhưng đấy là sau khi chị đã vào đời. Nhưng điều đó chẳng có gì bất thường cả – hầu hết mọi người đều gặp phải những chuyện như thế.”
“Em nghe nói ở Triều Tiên người ta ăn thịt mèo. Có thật vậy không?”
“Chị cũng nghe nói vậy. Nhưng trong số người quen của chị thì không ai ăn cả.”
Trong ngày, đây là thời điểm nóng nực nhất, và đầu giờ chiều quảng trường thành phố gần như vắng ngắt. Hầu hết dân đảo đều ẩn trong ngôi nhà mát mẻ, tranh thủ chợp mắt một lát. Chỉ du khách ngoại quốc mới đánh bạo ra đường lúc ấy.
Trên quảng trường có tượng một anh hùng. Ông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của lục địa Hy Lạp và chiến đấu chống quân Thổ chiếm đóng đảo, nhưng đã bị bắt và bị xử tử. Quân Thổ đóng một cái cọc nhọn giữa quảng trường rồi lột trần người anh hùng không may ra và xiên vào đấy. Cái cọc đâm từ từ qua hậu môn rồi cuối cùng xuyên tới tận miệng khiến ông phải chịu đựng nhiều giờ hấp hối. Bức tượng được dựng ngay địa điểm hành hình. Khi mới được dựng, bức tượng đồng uy dũng này chắc hẳn khá bắt mắt, nhưng trước sự can thiệp của thời gian, với gió biển, bụi bặm và phân chim mòng biển, người ta khó có thể nhìn rõ nét mặt người anh hùng. Dân đảo gần như chẳng ngó ngàng gì đến bức tượng tiều tụy đó nữa, và chính bức tượng cũng dường như đã quay lưng lại với thế giới này.
“Nói đến lũ mèo.” Sumire buột miệng, “em có một hồi ức rất lạ lùng về chúng. Hồi học lớp hai nhà em nuôi một con mèo nhị thể sáu tháng tuổi rất xinh. Một chiều em đang ngồi ngoài hiên đọc sách thì con mèo bỗng nhiên chạy như điên quanh gốc cây thông to trong vườn. Bọn mèo thường hay thế. Chẳng có chuyện gì cả, nhưng chúng cứ đột nhiên rít lên, uốn cong lưng, lông dựng đứng, đuôi vểnh ngược, trong tư thế tấn công.
“Con mèo đang kích động nên không biết em đang nhìn từ mái hiên. Cảnh tượng khác lạ đến mức em phải bỏ sách xuống quan sát con mèo. Dường như nó không cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đơn độc của mình. Thật ra, thời gian càng kéo dài thì nó càng hăm hở hơn. Giống như nó đã bị ma ám vậy.”
Sumire uống một ngụm nước và gãi nhẹ tai.
“Càng nhìn em càng thấy sợ. Con mèo đã thấy một cái gì đó mà em không thể thấy, và dù là gì đi chăng nữa thì nó cũng khiến con mèo phát điên phát cuồng. Cuối cùng, nó bắt đầu chạy quanh gốc cây với một tốc độ khủng khiếp, giống như con hổ đang biến thành bơ trong truyện thiếu nhi. Sau khi chạy đến kiệt sức nó nhảy lên cây. Em có thể nhìn thấy khuôn mặt bé nhỏ của nó thấp thoáng sau đám cành lá trên cao. Em gọi vọng từ dưới mái hiên thật to tên nó, nhưng nó không nghe thấy.”
“Cuối cùng, mặt trời lặn và làn gió cuối thu mát mẻ bắt đầu thổi. Em ngồi ở hiên chờ con mèo leo xuống. Con mèo đó khá thân thiện, và em nghĩ nếu mình ngồi đó một lúc thì nó sẽ xuống. Nhưng nó không xuống. Thậm chí em còn không nghe thấy nó kêu meo meo. Trời mỗi lúc một tối. Em thấy sợ và bảo với mọi người trong gia đình. ‘Đừng lo,’ mọi người bảo em, ‘cứ mặc kệ nó rồi nó về ngay thôi. Nhưng con mèo không bao giờ trở về.”
“Ý em là gì – không bao giờ quay về?” Miu hỏi.
“Nó biến mất. Như làn khói. Ai cũng bảo em chắc chắn trong đêm con mèo đã leo từ cây xuống và lang thang đâu đó. Bọn mèo thường bị kích động và trèo lên cây cao, rồi khi nhận ra cây cao đến thế nào thì chúng lại sợ và không xuống được. Bao giờ cũng vậy. Nếu con mèo còn ở trên cây, mọi người bảo, chúng sẽ gào suốt đêm để người biết. Nhưng em không tin thế. Em nghĩ con mèo chắc đã bám vào một cành cây, sợ đến chết khiếp nên không kêu lên được. Khi đi học về, em ra hiên ngồi nhìn cây thông, chốc chốc gọi tên nó. Không có tiếng đáp lại. Sau một tuần, em bỏ cuộc. Em yêu con mèo đó và chuyện này khiến em rất buồn. Lần nào tình cờ nhìn cây thông em cũng đều hình dung ra hình ảnh con mèo tội nghiệp đó, đã chết cứng, vẫn bám vào cành cây. Con mèo không đi được đâu cả, chết đói và co quắp ở đó.”
Sumire nhìn Miu.
“Em không bao giờ nuôi mèo nữa. Em vẫn thích mèo, tuy nhiên ngay khi đó em quyết định rằng cái con mèo con tội nghiệp đã trèo lên cây và không bao giờ quay trở lại đó sẽ là con mèo đầu tiên và cuối cùng của em. Em không thể quên được nó và yêu một con khác.”
“Đấy là câu chuyện chúng tôi nói với nhau ở quán cà phê chiều hôm đó,” Miu nói. Tôi nghĩ chúng chỉ là những ký ức vô hại, nhưng giờ thì dường như tất cả đều có ý nghĩa. Cũng có thể chỉ là tôi tưởng tượng ra thôi.”
Miu quay nhìn ra ngoài cửa sổ. Làn gió biển nhẹ nhàng làm sột soạt tấm rèm xếp nếp. Khi chị chằm chằm nhìn vào màn đêm, căn phòng thậm chí còn có vẻ chìm trong im lặng sâu thẳm hơn.
“Chị có phiền không nếu tôi hỏi một câu? Tôi xin lỗi nếu nó có vẻ không ăn nhập với câu chuyện, nhưng điều này khiến tôi thấy băn khoăn,” tôi nói. “Chị nói Sumire đã biến mất, biến mất ‘như làn khói,’ theo cách nói của chị. Bốn ngày trước. Và chị đã báo cảnh sát. Đúng thế không?”
Miu gật đầu.
“Tại sao chị lại yêu cầu tôi đến đây thay vì liên lạc với gia đình Sumire?”
“Tôi không có bất kỳ manh mối nào cho thấy chuyện đã xảy ra với cô ấy. Và khi chưa có bằng chứng chắc chắn tôi không biết có nên làm cho bố mẹ cô ấy hoảng loạn không. Tôi suy đi tính lại và quyết định chờ xem sao.”
Tôi cố hình dung cảnh ông bố đẹp trai của Sumire đi phà đến đảo. Liệu người mẹ kế của cô, khi hiểu ra sự tình, có đi cùng ông không? Nó sẽ là một cảnh hỗn loạn. Tuy nhiên, xét ở chừng mực những gì tôi dính dáng vào, thì mọi thứ vốn đã hỗn loạn sẵn rồi. Làm sao mà một người ngoại quốc lại có thể biến mất trên cái hòn đảo nhỏ thế này suốt bốn ngày được chứ?”
“Nhưng sao chị lại gọi tôi?”
Miu bắt tréo đôi chân trần, đưa ngón tay nắm lấy gấu váy rồi kéo mạnh xuống.
“Anh là người duy nhất tôi có thể nhờ cậy được.”
“Nhưng chị chưa bao giờ gặp tôi.”
“Sumire tin tưởng anh hơn bất kỳ ai khác. Cô ấy nói dù trong vấn đề gì thì anh cũng là người chín chắn.”
“Tôi sợ đó chỉ là ý kiến của thiểu số thôi.”
Miu nheo mắt và mỉm cười, những nếp nhăn nhỏ xuất hiện quanh mắt chị.
Tôi đứng dậy đi đến trước mặt chị, cầm chiếc cốc không của chị lên. Tôi vào bếp, rót ít rượu Courvoisier vào cốc rồi quay lại phòng khách. Chị cám ơn tôi và đón lấy cốc rượu brandy. Thời gian trôi đi, tấm rèm rung lặng lẽ. Làn gió mang theo mùi hương của miền đất lạ.
“Anh có thực sự, thực sự muốn biết sự thật không?” Miu hỏi tôi. Giọng chị nghe không còn chút hơi sức, như thể chị đã phải đi đến một quyết định khó khăn.
Tôi ngước lên nhìn mặt chị. “Có một điều tôi có thể nói chắc một trăm phần trăm,” tôi nói ” đó là nếu không muốn biết sự thật thì tôi đã không đến đây.”
Miu liếc mắt về phía tấm rèm. Và cuối cùng nói bằng giọng lặng lẽ. “Chuyện xảy ra đúng vào đêm đó, sau khi chúng tôi ngồi ở quán cà phê nói chuyện về những con mèo.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.