Gã điếc bị vây hãm tứ phía, nếu không mất hết can đảm thì cũng mất hết hy vọng có thể cứu được cô gái Ai Cập. Gã chạy như mất trí trong phòng tranh. Nhà thờ Đức Bà sắp bị bọn ăn mày chiếm. Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập vang lên từ các phố lân cận. Một dãy dài đuốc, một toán kỵ binh đông đặc với giáo và yên cương, những tiếng kêu giận dữ đổ vào quảng trường như một cơn lốc.
– Pháp quốc! Pháp quốc! Chém chết những con lợn biển! Châteaupers đến cứu nguy!
Lũ ăn mày hoảng sợ, quay đầu chạy.
Quasimodo, vì không nghe tiếng chỉ thấy những lưỡi gươm trần, những bó đuốc, những mũi giáo. Dẫn đầu đoàn kỵ binh, gã nhận ra đại úy Phoebus. Bọn ăn mày thì hoảng loạn, kinh hoàng, đứa khá nhất cũng rối bời..Đó là quân đội nhà vua đến.
Lũ ăn mày chống cự một cách tuyệt vọng.
Cuộc hỗn chiến giáp lá cà thật đáng sợ. Kỵ binh của nhà vua, ở giữa là Phoebus de Châteaupers, chiến đấu dũng cảm, không một chút lơi tay. Bọn ăn mày, vũ trang kém, sùi bọt mép, cắn. Đàn ông, đàn bà, trẻ con lao vào lưng ngựa, cổ ngựa, bám riết lấy. Toán khác lấy đuốc đập vào mặt các cung thủ.
Một người có một cái liềm to bản, sáng loáng, phạt chân ngựa. Trông hắn thật đáng sợ.
Mỗi một đòn, hắn lại tạo ra xung quanh một vòng tròn lớn những chân tay bị chặt đứt. Hắn tiến lên chậm rãi, bình tĩnh, đầu lắc lư, hơi thở điều hòa, như một người thợ gặt tấn công vào một đồng lúa. Đó là Clopin Trouillefou. Hắn đã mệt.
Cuối cùng bọn ăn mày phải chịu thua.
Chúng mở đường máu qua hàng ngũ của những người lính tấn công. Chúng trốn chạy tứ phía, để lại trên sân nhà thờ hàng đống xác chết.
Quasimodo chiến đấu ngoan cường; khi thấy cảnh chạy trốn kia thì hắn quỳ gối giơ hai tay lên trời, say sưa vì vui sướng. Gã chạy bay như con chim đến gian xàlim mà hắn đã chiến đấu dũng cảm để không cho ai đến gần.
Lúc lũ ăn mày đánh chiếm nhà thờ thì Esmeralda đang ngủ. Tiếng ầm ầm mỗi lúc một to và tiếng kêu lo sợ của con dê đã đánh thức cô. Cô nhỏm dậy, nghe ngóng. ánh lửa và tiếng ồn ào làm cho cô sợ hãi. Cô chạy ra khỏi buồng kín của mình.
Quang cảnh của quảng trường, sự lộn xộn trong cuộc tấn công ban đêm, cái đám người ghê sợ kia, tất cả khiến cô nghĩ tới một cuộc chiến tranh bí mật. Cô chạy trốn, kinh hoàng, chúi vào xà lim của mình.
Dần dần, nỗi sợ ban đầu tan dần. Cô quỳ gối, đầu gục trên thành giường, tay chắp trên đầu, lo lắng, run sợ, khóc nức nở. Cô cầu xin Chúa: Con cầu xin Đức Mẹ, che chở.
Cô quỳ khấn như thế rất lâu.
Giữa cơn lo lắng ấy, cô nghe tiếng ai đi bên mình. Hai người vào buồng cô, một người xách đèn, cô kêu lên yếu ớt.
– Đừng sợ. Tôi đây. – Tiếng nói đó cô không lạ gì.
– Ai đấy?.- Pierre Gringoire, chồng em.
Cái tên ấy làm cô yên tâm. Cô ngước mắt lên và nhận ra người ấy. Nhưng bên cạnh anh ta là một bộ mặt chùm kín vải đen.
– A! – Gringoire trách. – Djali còn nhận ra anh trước em.
Quả vậy, không chờ Gringoire xưng tên, khi Gringoire vừa vào, con dê nhỏ đã âu yếm giụi vào đầu gối anh, hôn lấy hôn để.
– Ai đi với anh đấy? – Cô gái Ai Cập khẽ hỏi.
Người mặc đồ đen, sắp lại gần Gringoire.
Anh nói:
– Đúng thế. Anh quên đi mất. Chúng ta vội quá mà. Em yêu, tính mạng em và Djali đang bị đe dọa. Người ta định bắt lại em, chúng ta đến để cứu em. Hãy theo chúng ta.
– Thật thế sao? – Cô gái kêu lên, hoảng hốt.
– Rất đúng thế! Đi đi, nhanh lên em!
Cô gái lắp bắp:
– Em rất muốn, nhưng tại sao bạn anh chẳng nói gì thế?
– Đừng quan tâm đến anh ta.
Gringoire nắm tay cô. Người bạn lượm cái đèn, đi phía trước. Nỗi sợ hãi làm cho cô gái choáng váng. Cô để cho hai người dẫn đi. Con dê chạy theo. Nó nhảy cẫng lên, vui mừng vì được gặp lại Gringoire. Nó trượt chân, loạng choạng nhiều lần. Họ nhanh chóng xuống cầu thang tháp, đi qua nhà thờ đầy bóng tối và hoang vắng, ra ngoài. Người cầm đèn đi thẳng đến bờ sông. Một chiếc thuyền con được giấu kín. Người kia ra hiệu cho Gringoire và cô gái xuống thuyền.
Con dê cũng đi theo. Người kia xuống sau cùng.
Đoạn anh cắt dây buộc thuyền, đẩy xa bờ bằng một cây sào dài, cầm hai mái chèo, ra sức chèo ra giữa sông.
Việc đầu tiên là Gringoire đặt con dê trên đầu gối. Anh ngồi phía sau thuyền. Người lạ mặt gây cho cô gái một nỗi sợ khó giải thích, nên cô đến ngồi bên nhà thơ.
Khi triết gia của chúng ta thấy chiếc thuyền lắc lư, anh vỗ tay và hôn con dê giữa cặp sừng.
– ôi, thế là cả bốn chúng ta thoát nạn!
Chiếc thuyền bơi chầm chậm đến bờ phải.
Cô gái nhìn người lạ mặt với một nỗi sợ ngấm.ngầm. Chỉ thấy bóng hắn lờ mờ phía trước trong bóng tối, như một bóng ma.
Con thuyền sắp tới bờ bên kia thì Gringoire nhận xét:
– ồ, ồ, tiếng ồn ào càng rộ lên ở mạn trên.
Thật vậy, tiếng huyên náo tăng lên quanh nhà thờ. Họ lắng nghe và thấy khá rõ tiếng reo chiến thắng. Thình lình hàng trăm bó đuốc làm lóe lên những mũ sắt chiến binh đang tỏa ra trên nhà thờ, khắp các tầng, trên các tháp, các phòng tranh, dưới các vòm. Những bó đuốc kia hình như tìm cái gì. Chẳng bao lâu, tiếng hò reo bay rõ ràng đến tai những kẻ chạy trốn:
– Đứa con gái Ai Cập! Con phù thủy! Giết chết con Ai Cập!
Cô gái khốn khổ gục đầu vào bàn tay. Người lạ mặt ra sức chèo vào bờ như điên dại. Triết gia của chúng ta nghĩ ngợi. Anh ôm chặt con dê vào lòng. Anh nghĩ: con dê sẽ bị treo cổ nếu nó bị bắt lại và như thế thì thật tệ hại.
Tiếng va đập mạnh báo cho họ thuyền đã cập bờ.
Tiếng huyên náo thê thảm đầy thành phố.
Người lạ mặt đứng lên, lại gần cô gái, muốn nắm tay cô đỡ xuống thuyền. Cô đẩy hắn ra, níu lấy tay Gringoire đang bận bịu vì con dê, nên gần như đẩy cô ra. Tức thì cô tự mình nhảy ra khỏi thuyền. Cô bối rối đến mức chẳng còn biết mình làm gì nữa.
Cô đứng sững sờ một lúc, nhìn dòng nước.
Khi định thần lại, cô thấy mình đang ở một mình trên bến, cạnh người lạ mặt. Lợi dụng lúc đổ bộ, Gringoire đã lủi mất cùng con dê.
Cô gái Ai Cập tội nghiệp rùng mình thấy mình trơ ra cùng với con người này. Cô muốn kêu lên, gọi Gringoire, nhưng không một lời nào thoát ra từ miệng cô. Cô cảm thấy bàn tay người lạ mặt đặt trên tay cô. Răng cô đánh cầm cập.
Người lạ mặt không nói một lời. ông ta nắm tay cô bước rảo về phía quảng trường Grève. Lò xo trong người cô bỗng chùng hẳn. Cô để mặc cho mình bị kéo đi. Cô nhìn bốn phía, không một người qua lại. Bến tàu hoàn toàn vắng vẻ.
Người lạ mặt vẫn lôi cô đi, im lặng như thế, nhanh như thế. Cô không nhận ra đã đi qua những đâu. Qua một cửa sổ sáng đèn, bất thần cô cứng người, kêu to:
– Cứu tôi với!.Người mặc áo đen chẳng nói một lời. Anh ta túm chặt cô, bước rảo hơn. Cô không chống cự nữa, theo hắn, rã rời.
Thỉnh thoảng cô hỏi:
– ông là ai?… ông là ai?…
Hắn không trả lời.
Họ đi dọc bến tàu đến một chỗ khá rộng, mờ mờ ánh trăng. Đó là Grève, giữa quảng trường có một cây thập tự đen dựng đứng. Đó là giá treo cổ. Cô nhận ra tất cả và biết mình đang ở đâu.
Người lạ mặt quay về phía cô, bỏ mũ trùm đầu ra.
– ồ… – Cô lắp bắp, sợ tưởng hóa đá… – Tôi biết ngay lại là hắn.
Đó là linh mục. ông như một con ma. Đó là tác dụng của ánh trăng. Dưới ánh trăng mọi thứ trông đều như bóng ma.
Hắn nói:
– Nghe đây những điều tôi sắp nói với cô. -Cô rùng mình khi nghe tiếng nói sầu thảm ấy…
– Đây là Grève, điểm cuối cùng. Có một lệnh của nghị viện bắt cô trở lại đoạn đầu đài. Tôi vừa cứu cô khỏi bàn tay họ. Nhưng họ đang đuổi theo cô. Trông kìa!
Hắn chỉ tay về phía thành phố. Tiếng ồn ào lại gần. Binh lính chạy trên cảng sông đối diện.
– Cô thấy chúng đuổi theo cô chứ? Tôi có thể cứu cô hoàn toàn. Tôi đã chuẩn bị tất cả.
Tất cả là tùy ý cô thôi.
Hắn chạy và kéo cô chạy theo. Hắn đến thẳng giá treo cổ, chỉ tay. Hắn nói lạnh lùng:
– Chọn đi giữa hai đằng.
Cô giằng ra khỏi tay hắn, ngã xuống chân giá treo cổ. Cô quay đầu nhìn linh mục qua vai:
– Cái đó làm cho tôi đỡ khiếp hãi hơn ông.
Hắn thét lên dữ dội như một tên khốn nạn bị áp sắt nung đỏ vào người. Hắn nghiến răng nói:
– Vậy thì chết đi!
Hắn lay mạnh cô, đi nhanh đến tháp Tour-Roland, lôi cô xềnh xệch trên lề đường. Tới nơi, hắn gọi to:
– Gudule! Gudule! Đứa con gái Ai Cập đây!
Trả thù đi!
Bất thình lình cô gái thấy bị nắm chặt khuỷu tay. Một cánh tay xương xẩu thò ra ngoài lỗ cửa sổ tò vò, nắm lấy cô như một gọng kìm..
– Giữ chắc nhé. – Linh mục nói. – Đây là đứa con gái Ai Cập đã trốn thoát. Đừng thả ra.
Tôi đi tìm cảnh binh đây. Mụ sẽ thấy nó bị treo cổ.
Cô gái nhận ra mụ ẩn sĩ.
Hổn hển vì khiếp hãi, cô cố giằng ra. Cô dúm người lại, nghe thấy mụ ẩn sĩ nói khẽ:
– A! A! A! Mày sắp bị treo cổ.
Cô quay nhìn cửa sổ con, cay đắng nói:
– Tôi đã làm gì bà?
Mụ ẩn sĩ kêu lên:
– Mày đã làm gì tao à? A! Mày đã làm gì tao à, con Ai Cập? Vậy thì nghe đây. Tao có một đứa con, mày thấy không? Tao có một đứa con. Một đứa con! Một đứa con gái nhỏ xinh xẻo. Agnès của tao bị lạc. Mày thấy không, đứa con gái Ai Cập? Người ta đã đánh cắp con tao.
Mày đã làm gì tao đấy.
Cô gái trả lời như một con cừu non:
– Chao ôi! Khi ấy có lẽ tôi chưa sinh ra.
– ồ, có chứ! Mày phải được sinh ra rồi. Nó có thể bằng tuổi mày. Mười lăm năm rồi, tao ở đây. Mười lăm năm tao đau khổ. Mười lăm năm tao cầu nguyện. Mười lăm năm tao đập đầu vào bốn bức tường. Chính bọn Ai Cập đã đánh cắp con tao.
– Bà ơi! Bà ơi! – Cô gái tội nghiệp chắp tay, kêu lên. – Họ đến kia kìa. Tôi chẳng làm gì bà.
Bà muốn trông thấy tôi chết dưới mắt bà sao?
Buông ra cho tôi chạy trốn. Tôi không muốn chết như thế.
– Trả con gái Agnès cho ta. – Gudule nói tiếp. – Mày không biết nó ở đâu à? Vậy thì chết đi! Bọn Ai Cập đã ăn cắp con tao. Tao sẽ cho mày thấy cái này. Đây là chiếc giày của nó, tất cả những gì tao còn lại. Mày có thấy một chiếc giống cái này không? Nếu mày biết, nói cho tao hay.
Cánh tay kia của mụ thò qua cửa sổ nhỏ, giơ cho cô gái xem chiếc giày nhỏ.
– Cho tôi xem chiếc giày ấy. Trời ơi! Trời ơi! – Cô gái Ai Cập run rẩy.
Cùng lúc bàn tay tự do của cô mở chiếc túi nhỏ đeo trên cổ. Mụ già lầu bầu:
– A! Mày lục tìm đạo bùa của quỷ à?
Bất thình lình mụ ngừng bặt, run rẩy toàn thân và kêu lên từ tận cùng ruột gan của mụ:
– Con ta!.Esmeralda vừa rút từ trong túi nhỏ ra một chiếc giày con, giống hệt chiếc giày kia.
Chỉ trong một ánh chớp mụ già đối chiếu hai chiếc giày và áp vào song cửa sổ bộ mặt rạng ngời niềm vui thiên thần của mụ. Mụ kêu lên:
– Con ta! Con ta!
Esmeralda: Mẹ ơi!
Bức tường và song sắt ngăn cách hai mẹ con.
– ôi, bức tường! Tay con! Tay con đâu!
Cô gái luồn cánh tay qua lỗ cửa sổ. Bà già vồ lấy cánh tay, áp môi vào.
Bất thần bà đứng dậy, hai tay lay song cửa.
Chúng không lay chuyển. Bà chạy lại góc phòng tìm một phiến đá lát, tông mạnh vào chấn song, làm cho một chiếc bị gẫy. Bằng hai tay bà bẻ hẳn vào kéo rộng hai đoạn sắt gỉ ra.
Lối đã mở, bà kéo con gái vào trong buồng.
Bà nhẹ nhàng đặt cô xuống đất.
– Con ta! Con ta! Thế là ta lại có con. Chúa lòng lành đã trả nó cho ta.
Cô gái lặp lại với một sự dịu dàng vô cùng:
– Mẹ của con!
– Con gái ơi! Con thấy không, mẹ con ta sẽ sung sướng. – Câu nói bị ngắt quãng bởi những cái hôn sôi nổi.
Giữa lúc đó tiếng lanh canh của vũ khí vang lên. Cô gái lo sợ nhảy choàng vào vòng tay mẹ.
– Cứu con! Cứu con! Mẹ ơi. Chúng đấy!
Bà ẩn cư tái người.
– ôi! Ta quên mất là chúng đang đuổi bắt con. Mẹ sẽ nói chuyện với chúng. Con hãy nấp vào góc kia. Chúng không trông thấy con đâu.
Mẹ sẽ bảo là con chạy trốn rồi.
Bà vừa nói xong thì tiếng ầm ầm người, ngựa, đao, kiếm đã vây quanh xà lim. Bà đứng lên, áp mình vào lỗ cửa sổ để bịt lại.
– Này bà già, – viên chỉ huy nói, – chúng ta đang tìm một con phù thủy. Người ta bảo nó đang ở đây.
– ông nói đến một cô gái trẻ? Cô ấy vừa cắn tôi một miếng và tôi đã phải buông cô ấy ra.
Đại úy nhăn mặt thất vọng.
Một cung thủ bỗng nói:
– Thưa đại úy, ngài thử hỏi bà già xem tại sao song cửa sổ lại hỏng như thế?.- Nó vẫn như thế. – Bà già lắp bắp.
Tên cung thủ lại nói:
– Chà, hôm qua chúng còn tạo thành một cây thập tự đen.
– Chuyện thật mập mờ, ám muội! – Đại úy nói.
Bà già kêu lên:
– Thưa ngài, một chiếc xe bò đã đâm gãy song cửa.
Cô gái tội nghiệp từ nãy vẫn ngồi yên trong góc phòng, nín thở, không dám động đậy. Cô không bỏ sót một chi tiết nào của cảnh tượng.
Mối lo sợ của mẹ đều dội vào cô. Giữa lúc đó, cô nghe tiếng ai đó nói với viên sĩ quan quân cảnh:
– Mẹ kiếp, thưa ông sĩ quan, công việc của tôi, một chiến binh, không phải là treo cổ bọn phù thủy. Tôi xin để ông làm một mình. Tốt nhất là tôi trở lại đơn vị của tôi.
Tiếng nói ấy là của Phoebus de Châteaupers.
Anh ta ở đây, bạn cô, người che chở cho cô, Phoebus của cô.
Cô đứng lên. Bà mẹ chưa kịp ngăn thì cô đã lao đến lỗ cửa sổ, kêu lên:
– Phoebus! Cứu em!
Phoebus không còn đấy. Hắn vừa phi ngựa đi đến góc phố Coutellerie.
Bà ẩn cư nhảy xổ vào cô gái, gầm lên. Bà lôi mạnh cô ra sau, nhưng trễ quá rồi!
Đại úy reo lên:
– ‰, ê! Hai con chuột trong một bẫy chuột!
Bà ẩn cư chưa kịp nói lời nào. Bà xô mạnh cô gái tội nghiệp dở sống, dở chết vào góc phòng, chạy ra đứng chắn lỗ cửa sổ. Trong dáng điệu ấy, bà dũng cảm đưa mắt nhìn tất cả lũ lính.
Bà lắc đầu nói:
– Không có ai! Không có ai!
– Có chứ! Bà biết thế. – Tên đao phủ vừa đến nói. – Để cho tôi treo cổ con phù thủy. Tôi không muốn điều xấu cho bà.
Đại úy nói nghiêm khắc:
– Bà già! Bận gì mà bà dám ngăn trở việc con phù thủy bị treo cổ?
Bà già khốn nạn cười điên dại:
– Nó là con tôi.
– Tôi rất phiền lòng, nhưng đó là ý chỉ của đức vua..- Đức vua của ông thì bận gì đến tôi? Tôi đã nói nó là con gái tôi.
– Phá bức tường ra.
Nghe tiếng cuốc chim và chông đâm vào pháo đài, bà già thét lên kinh hoàng. Bà chạy quanh buồng với một tốc độ đáng sợ. Bà không nói gì nữa. Mắt bà bừng lửa. Thình lình bà lấy một viên đá lát ném vào chúng. Tay bà run quá nên viên đá không trúng ai cả. Bà nghiến răng.
Bà lại ngồi gần con gái, lấy thân che chở cho nó, con mắt trừng trừng, bà nghe đứa con gái tội nghiệp bất động, lẩm bẩm:
– Phoebus! Phoebus!
Bất chợt bà ẩn cư thấy đá tường long ra. Bà nghe tiếng viên đại úy cổ vũ những kẻ đang làm việc.
Thấy lối vào đã mở, bà già nằm ngang, lấy thân mình bịt lối. Bà đập đầu xuống nền, kêu lên:
– Cứu tôi với! Nổi lửa! Nổi lửa!
– Bây giờ, bắt lấy đứa con gái! – Viên chỉ huy hạ lệnh, không lay chuyển.
Bà mẹ nhìn lũ lính một cách rất đáng sợ, làm cho chúng muốn lùi lại, không dám tiến lên.
Không tên nào nhích một bước.
Bà ẩn cư quỳ gối, vén tóc khỏi mặt rồi buông xuôi cánh tay gầy guộc, xương xẩu.
Những giọt nước mắt to trào ra, từng giọt, từ mắt bà.
Bà cất tiếng nói van lơn, rất dịu dàng, vẻ phục tùng, rất đau xót khiến bọn lính mủi lòng, cũng lau nước mắt.
– Thưa các ngài! Thưa các ngài binh sĩ! Cho tôi nói một lời. Các ông thấy đấy, đây là đứa con gái thân yêu tôi tưởng đã mất. Đó là cả một câu chuyện. Con tôi đã làm gì các ông? Không gì cả. Tôi cũng thế. Nếu các ông biết rằng tôi chỉ có nó. Tôi già rồi. Đó là một ân phước mà Đức Mẹ đồng trinh đã ban cho tôi. Tất cả các ông đều là những người tốt. Các ông không biết hiện nay nó là thế nào… Các ông thật là tốt, các ông binh sĩ. Tôi yêu tất cả các ông. Các ông không bắt con gái yêu của tôi chứ? Không thể được… Con tôi…
Tên đao phủ và các cảnh binh vào trong buồng. Bà mẹ không có cử chỉ kháng cự nào. Bà lê đến con gái, ôm choàng lấy cô.
Cô kêu lên:
– Mẹ ơi! Mẹ của con. Họ đến đấy. Hãy bảo vệ con!.- Phải, tình yêu của mẹ, ta sẽ bảo vệ con. -Bà mẹ trả lời, giọng thều thào, ôm chặt con gái vào lòng, hôn tới tấp. Hai mẹ con cùng ở dưới đất, mẹ đè lên con, tạo ra một cảnh tượng rất thương tâm. Tên đao phủ cũng rớt nước mắt.
Hắn muốn giằng cô gái ra khỏi tay bà. Hắn muốn kéo bà mẹ ra.
Hai tay bà bám lấy thắt lưng con gái, níu rất chặt. Khó lòng mà tách bà ra. Phải mấy tên lính mới bắt được Esmeralda đang ngất xỉu.
Tên đao phủ lôi cô gái và bà mẹ ra khỏi buồng.
Một giờ sau, công lý đã được thi hành.
Bà ẩn cư không sống sót nổi sau tai họa này.
Cả Dom Claude cũng chết thê thảm. Bị Quasimodo ném từ nóc cao nhà thờ Đức Bà xuống, hắn tan xác trên sân nhà thờ.
Phoebus de Châteaupers lấy vợ.
Quasimodo biến khỏi nhà thờ Đức Bà, sau cái chết của cô gái Ai Cập và của phó giám mục.
Không ai trông thấy gã nữa. Cũng không ai biết gã ra sao.
Trong đêm Esmeralda bị hành hình, theo thông lệ, người ta hạ xác cô xuống, đem đến hầm Montfaucon, nơi người ta ném xác tất cả những kẻ khốn khổ bị hành hình tại các giá treo cổ của Paris.
Hai năm sau, người ta thấy ở Montfaucon hai bộ xương quấn lấy nhau một cách lạ lùng.
Một trong hai bộ xương là của một người đàn bà. Còn một mảnh vải áo xưa kia màu trắng.
Quanh cổ bộ xương có một sợi dây chuyền với một túi lụa nhỏ bị mở ra. Những vật ấy rất ít giá trị nên chắc tên đao phủ chẳng thèm lấy.
Bộ xương kia ôm chặt bộ xương nọ, là của một người đàn ông. Xương sống bị vẹo, đầu tụt xuống dưới xương quai xanh, một chân ngắn, một chân dài. Không một khúc xương cổ nào bị gẫy.
Chắc chắn là người này không bị treo cổ. Người này đã tự đến đây và chết ở đó. Khi người ta muốn tách nó ra khỏi bộ xương kia thì bộ xương tan thành bụi..