Nhà Thờ Đức Bà Paris

CHƯƠNG 9 – ĐỒNG TIỀN THÀNH LÁ KHÔ



Gringoire cùng toàn bộ triều đình của những kỳ quái đang trong cơn lo lắng chết người. Từ một tháng nay không ai biết Esmeralda ra sao cả, cả con dê của cô nữa. Nỗi đau của Gringoire tăng gấp đôi vì anh yêu cả con dê lẫn cô chủ. Một chiều cô gái Ai Cập biến mất. Từ đó không có dấu hiệu gì chứng tỏ cô còn sống.
Mọi cuộc tìm kiếm đều vô hiệu. Không ai giải thích được sự mất dạng ấy. Đó là một nỗi buồn sâu sắc. Gringoire gầy xọp đi. Có lẽ cô mất tích thật!
Ngày nọ, anh thấy đám đông trước một trong những cửa của Tòa án.
– Cái gì thế? – Anh hỏi một người trẻ tuổi từ Tòa án đi ra.
– Tôi không biết, thưa ông. Người ta nói họ xử án một phụ nữ ám sát một cảnh binh. Vì trong chuyện này hình như có trò phù thủy gì đó nên ông anh phó giám mục của tôi phụ trách việc này. Tôi muốn nói chuyện với ông ấy mà chẳng sao len được vì cái đám đông chen chúc này. Tôi rất không bằng lòng vì tôi đang cần tiền.
– Chao ôi! Thưa ông, tôi muốn cho ông vay nhưng túi tôi thủng mất rồi mà lại không phải vì tiền làm thủng.
Gringoire không dám nói với người trẻ tuổi là anh có biết phó giám mục. Người giáo đồ đi theo đường đi của anh ta. Gringoire theo đám đông leo cầu thang lên đến phòng lớn. Anh cho rằng để xua tan nỗi buồn thì không gì bằng cảnh tượng một phiên tòa. Quần chúng chen vai thích cánh đi lặng lẽ. Sau khi chậm chạp vượt qua một hành lang dài, anh đến một cửa thấp mở ra một gian phòng rộng và tối. Ngày đã hết. Nhiều cây nến đã được thắp trên các bàn. Bên phải và bên trái phòng có những vị mặc áo thụng ngồi trước bàn. Trong cùng, trên một cái bục, có rất nhiều quan tòa. Hàng sau cùng ngồi lẩn trong bóng tối. Gringoire hỏi người bên cạnh:
– Thưa ông, các ngài kia làm gì ở đây vậy?.- Thưa ông, họ xử một người đàn bà. ông có thể trông thấy chị ta. Chị ấy ngồi quay lưng lại chúng ta và bị đám đông che khuất.
– Người đàn bà này là thế nào? ông có biết tên chị ta không?
– Thưa ông không. Tôi vừa mới đến. Tôi cho là có chuyện phù thủy gì đó.
Đến đây, xung quanh yêu cầu mọi người im lặng để nghe một nhân chứng quan trọng.
Một bà đang nói. Bà đứng giữa phòng, mặt bị che lấp bởi mớ quần áo rách bươm. Có thể nói bà ta như một đống giẻ rách biết đi.
– Thưa các ông, một buổi chiều tôi đang ngồi kéo xa, thằng bé nhà tôi chơi bên cạnh, thì có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa. Có hai người đàn ông bước vào, một người đen sì và một sĩ quan đẹp đẽ, chỉ trông thấy mắt người đen đỏ sọc, còn toàn thấy áo choàng và mũ. Họ hỏi thuê một phòng. Tôi chỉ cho họ phòng phía trên. Họ trả cho tôi một ê-cu. Tôi cất đồng ê-cu vào ngăn kéo. Chúng tôi lên gác. Lên đến phòng, khi tôi quay lưng đi thì người đen biến mất. Tôi hơi ngạc nhiên. Viên sĩ quan đẹp đẽ như một đại lãnh chúa cùng xuống nhà với tôi. ông ta đi ra.
Khoảng thời gian chỉ đủ để kéo một phần tư buộc sợi, ông sĩ quan trở lại cùng một cô gái.
Cô ta có một con dê, một con dê to, đen hay trắng thì tôi không nhớ. Tôi đưa họ lên phòng trên và để họ lại với nhau. Nghĩa là cả con dê nữa. Tôi xuống nhà, tiếp tục kéo sợi. Thình lình tôi nghe thấy ở trên ấy có tiếng kêu và một cái gì rơi xuống nền gạch. Cửa sổ mở ra. Tôi chạy ra cửa sổ tầng dưới. Tôi trông thấy một mảng đen rơi xuống nước. Đó là một con ma mặc áo linh mục. Trời sáng trăng. Tôi trông rõ hắn bơi về phía thành phố. Tôi sợ run lên, chạy đi gọi đội tuần phòng. Các ông này đến và chúng tôi lên gác, thấy phòng lênh láng máu. Đại úy nằm dài, một con dao găm nơi cổ. Người con gái thì giả chết, con dê sợ phát điên. Người ta đem viên sĩ quan tội nghiệp và cô gái đi. Hôm sau khi tôi muốn lấy đồng ê-cu để mua lòng thì chỉ thấy một chiếc lá khô (Bà già không biết rằng khi bà lên phòng trên thì đứa bé đã lấy đồng ê-cu và thay vào bằng một chiếc lá khô lấy ở bó củi).
Bà già ngừng lời. Cử tọa rì rầm, khiếp sợ.
– Im lặng! – Một quan tòa ra lệnh. – Ai là thầy Jacques Charmolue? Bà già, bà có đem đến đây chiếc lá khô không?.- Thưa ngài có. Nó đây.
-Đây là một chiếc lá bạch dương, một bằng chứng của trò ảo thuật. – Thầy Jacques Charmolue nói.
Ông Philippe Lheulier, luật sư của triều đình, xen vào:
– Tôi xin lưu ý rằng chúng ta có lời chứng của đại úy Phoebus de Châteaupers.
Nghe tên đó, bị can đứng lên, đầu vượt trên đám dân chúng.
Gringoire kinh hoảng nhận ra Esmeralda. Cô xanh xao. Tóc cô, trước kia được bện một cách duyên dáng, nay xõa xuống lòa xòa. Cặp mắt mờ tối. Mặt trũng xuống trông phát sợ.
– Phoebus! – Cô nói thảng thốt. – ông ta đâu? Cho tôi biết ông ấy còn sống không?
Chủ tọa quát:
– Im đi. Đó không phải là việc của chúng ta.
– Xin hãy thương tôi. Cho tôi biết ông ấy còn sống không. – Cô nhắc lại.
– ông ta đang hấp hối! Cô bằng lòng chưa?
– Luật sư của triều đình nói khô khan.
Cô gái tội nghiệp ngồi phịch xuống ghế bị cáo. Không một tiếng nói. Không nước mắt. Mặt trắng bệch như bằng sáp. Không một dấu hiệu của sự sống. Một cảnh binh phải lay thật mạnh, không thương tiếc, để cô tỉnh lại. Chánh án trịnh trọng nói:
– Cô gái kia, cô thuộc giống bô-hê-miêng, trong đêm 29 tháng ba vừa rồi, với sự đồng lõa của con dê đã bị phù thủy hóa của cô, cô đã đâm dao găm vào đại úy cung thủ của nhà vua, ông Phoebus de Châteaupers. Cô còn ngoan cố chối cãi nữa hay thôi?
– Kinh khủng. Tôi phủ nhận. – Người con gái hét lên, giọng ghê gớm. Cô đứng lên, mắt tóe lửa.
– Vậy thì cô giải thích thế nào nếu cô bị kết án?
– Tôi đã nói với các ông rồi. Tôi không biết.
Đó là do một linh mục, một linh mục tôi không quen biết. Một linh mục của địa ngục đã theo dõi tôi.
– Thế ư? – Chánh án tiếp lời.
– ôi, thưa các ngài. Xin hãy thương tôi. Tôi là một đứa con gái khốn khổ…
– Đứa con gái Ai Cập. – Chánh án nói..Luật gia Jacques Charmolue lên tiếng, nói nhẹ nhàng:
– Vì rằng bị can ngoan cố, tôi đề nghị áp dụng hình thức tra tấn.
– Chấp nhận. – Chủ tọa nói.
Người con gái khốn khổ run rẩy toàn thân.
Song cô vẫn đứng lên, bước đi vững vàng theo sau Charmolue, giữa hai hàng lính mang kích.
Một cái cửa bất ngờ mở ra rồi khép lại. Gringoire buồn bã có cảm tưởng cái cửa đó là một cái mõm to tướng vừa xé xác, nuốt chửng nàng.
Phiên tòa ngừng lại. Một cố vấn nhận thấy các vị quan tòa đã mệt mà đợi đến khi cuộc hành tội kết thúc thì còn lâu. Chánh án trả lời: một quan tòa phải biết hy sinh làm phận sự.
Người ta tra tấn nữ tù nhân. Người con gái tội nghiệp cố thu hết can đảm, song cô vẫn giật thót người khi bàn tay chai sạn của những tên phụ việc của Pierrat Torterue kẻ gia hình, nhét bàn chân xinh của cô vào thanh sắt đáng sợ của cái kẹp chân. Cô rú lên đau đớn, khi Pierrat vặn cái chốt và chân cô bị những thanh sắt độc ác kia nghiến chặt. Cô thú nhận. Thú nhận tất cả những gì người ta muốn. Thú nhận đã có giao tiếp với quỷ dữ. Thú nhận đã ám sát đại úy Phoebus de Châteaupers. Tất cả đã vỡ tan trong cô. Cô được tháo cùm và dẫn trở lại phòng xử án.
Khi cô trở vào phòng, xanh tái, khập khiễng thì tiếng xì xào khoái trá đón cô. Cô lết đến chỗ của mình, Charmolue vào vị trí của hắn. Hắn đứng lên nói, cố không lộ ra cái vẻ đắc thắng của mình:
– Bị can đã thú nhận tất cả.
– Cô gái của giống bô-hê-miêng, – chánh án nói: – cô đã thú nhận tất cả những trò ma thuật và tội ám sát Phoebus Châteaupers của cô?
Tim cô gái thắt lại. Cô thổn thức trong bóng tối:
– Vâng, tất cả những gì các ông muốn. – Cô gái trả lời yếu ớt.
Chánh án nói:
– Thưa ngài chưởng lý của nhà vua. Tòa đã sẵn sàng nghe bản luận tội của ngài.
Luật gia Charmolue chiềng ra một quyển sách đáng hãi, đọc một văn bản bằng tiếng la-tinh, nói nhiều bằng cử chỉ hùng hổ, chúng tôi tiếc là đã không thể hiến độc giả tác phẩm quý.đó. Diễn giả thao thao bất tuyệt khiến mồ hôi nhỏ giọt trên trán ông và mắt lồi ra.
Bản luận tội rất dài. Viên lục sự cắm cúi ghi rồi hắn đệ lên chánh án một bản giấy da dài.
Người con gái khốn khổ nghe tiếng quần chúng cựa quậy, tiếng giáo va chạm nhau. Một giọng lạnh băng cất lên:
– Đứa con gái của giống bô-hê-miêng vào một ngày nào đó, vào buổi trưa, thừa ý chỉ đức vua, ngươi sẽ được đưa đến trước cổng nhà thờ Đức Bà trên chiếc xe bò với một cây đuốc bằng sáp hai cân trên tay. Ngươi sẽ được giải đến quảng trường Grève để đền tội, ngươi và con dê của ngươi sẽ bị treo cổ vì những tội mi đã phạm và đã thú nhận: tội phù thủy, tội ma giáo, tội đã giết ông Phoebus de Châteaupers!
– ôi! Thật là ác mộng!
Những bàn tay thô bạo lôi cô đi.
Người ta nhốt cô vào một cái hầm ngầm trong Tòa án.
Cô ở đấy, chìm trong bóng tối, bị chôn sống, bị vùi lấp, bị giam chết giữa những bức tường.
Ai thấy cô trong tình trạng ấy, sau khi đã thấy cô cười vui, khiêu vũ dưới ánh mặt trời đều run sợ. Lạnh như đêm tối, giá băng như cái chết.
Không một hơi gió nhẹ lùa trong mái tóc. Tai không nghe một tiếng người, không một tia sáng trong mắt. Bị xiềng xích đè bẹp gí, gẫy gập đôi người. Cô ngồi bên một cái hũ. Một mẩu bánh vứt trên nắm rạ trên một vũng nước từ trần hầm nhỏ xuống. Cô ngồi đó, bất động, gần như không thoi thóp thở, không còn khả năng biết đau đớn là gì nữa.
Từ khi vào đây, cô chẳng thức, chẳng ngủ, không phân biệt được ngày hay đêm, mơ hay thật.
Rét cóng, lạnh giá, hóa đá. Vài ba tuần cô thoáng thấy cái cửa tò vò trên đầu mở ra, không để lọt một chút ánh sáng. Một bàn tay nào đã ném xuống cho cô một vỏ bánh mì đen.
Duy nhất chỉ có một cái: cô nghe thấy một cách máy móc tiếng giọt nước nhỏ xuống đều đều từ vòm đá nứt rạn.
Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng tí tách của giọt nước làm xao động vũng nước trong đêm tối..

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.