Trở về văn phòng, tôi điện đến Humphrey Massingham giám đốc khu vực hãng đại lý American Travel Service đặt tại Miami. Ông nhấc ống nghe và tôi thông báo về việc Vidal.
– Đấy là một khách hàng tôi đã để mắt từ lâu, Clay! – Ông nói, giọng kích động. – Tôi không hề nghĩ lão ấy có thể buông rơi American Express một cách dễ dàng.
– Trái lại, Harkness rất mừng khi thấy lão ra đi. – Tôi góp ý. – Liệu chúng ta có gặp mắc mưu lão không?
– Hai trăm nghìn đô la, con số khá to mà tôi chưa thể hình dung ra. Cuối cùng được một nguồn hàng như thế, thì ta có thể chấp nhận hàng khối chuyện phiền muộn, nếu có.
– Cứ nói thẳng ra rằng, tôi còn chịu đựng nhiều hơn cũng chẳng sao.
Massingham bật cười:
– Đây là công việc, Clay ạ. – Ông ung dung nói. – Nhưng có yểm trợ. Trước mắt, anh nên làm tốt số tài khoản của Vidal, về sau, tôi sẽ tìm một ai đó, vì Vidal là một khách sộp, dĩ nhiên ta phải tăng cường nhân sự để làm việc.
– Đừng lạc quan, thưa ông.
Tôi đưa ra những yêu sách của Vidal, đồng thời thuật lại những lời cảnh báo của Harkness. Điều này đã hạ bớt phần nào sự háo hức của Massingham:
– Tốt hơn nên chờ anh giải quyết chuyện này ra sao đã. – Ông vẫn kiên trì. – Vả lại, anh chưa biết Vidal sẽ đòi những điều kiện gì.
– Ông cứ tin, Dyer sẽ đòi hỏi ở chúng ta một chiết khấu cao hơn.
– Năm phần trăm là con số giới hạn của chúng ta. Cứ làm thế đi, Clay.
– Tôi dang chờ lão đánh lá bài đầu tiên. Trong khi chờ đợi, chúng ta nên kiểm tra lại các bảng tham khảo.
– Chắc chắn, nhưng Vidal là nhân vật khá nặng cân. Tôi tin rằng về mặt này, chẳng có vấn đề gì hệ trọng đâu. Các mẫu tham khảo nơi các chủ ngân hàng chắc gì họ đã nói hết.
Sau một lúc im lặng, cuối cùng ông hỏi:
– Anh còn lo ngại điều gì chứ?
– Tôi đang thắc mắc, tại sao Harkness bảo rằng hắn tội nghiệp cho chúng ta và Dyer không có cảm tình với tôi?
– Chuyện này không có nghĩa Dyer sẽ bòn rút tiền của chúng ta. Anh hãy tin nơi tôi!
Massingham kết luận, rồi gác máy.
Trong khi tôi đặt ống nói xuống thì Sue mang cho tôi bảng định giá công việc và bảng liệt kê giờ khắc các chuyến bay theo đòi hỏi của Dyer. Chúng tôi kiểm tra lại và theo thường lệ, tôi không có gì để chê trách trong việc làm của nàng.
Sau khi khen ngợi, tôi đọc cho nàng đánh máy thư thông báo gởi Dyer, rằng chúng tôi đang lo các thủ tục cần thiết để mở một trương mục trong ngân hàng và sẽ thông báo tiếp cho hắn biết sau.
Tôi căn dặn Sue:
– Gởi các thứ này ngay đến bưu điện để chứng minh cho hắn thấy rằng chúng ta rất nhiệt tình trong công việc.
Phần còn lại của buổi làm việc, chúng tôi giải quyết các việc tồn đọng. Mãi gần đến giờ nghỉ, các khách hàng mới để chúng tôi được yên. Mười tám giờ, Sue trở về nhà, và tôi đi rước Rhoda ở cửa hiệu Trendie. Nàng đã nghỉ bán nhưng tôi vẫn phải lượn lờ trước cửa hiệu, đến khi nàng bước ra.
– Chúa ơi, đôi chân của em, – nàng rên rỉ trên đường ra chỗ đỗ xe, – anh được may mắn ngồi suốt ngày, trong khi em không được một phút nghỉ ngơi.
Tôi không muốn nhắc, nàng đã ngồi thảnh thơi đọc báo lúc tôi đến cho biết sẽ không cùng đi ăn tôi. Tôi không có thói quen than vãn, còn nàng thì không lúc này cũng lúc khác, luôn tìm cớ để ca cẩm.
– Tối nay em có muốn đi xem chiếu phim không? – Tôi hỏi, lúc hai người vào trong xe.
– Chẳng có gì hay ho. – Nàng vừa ngồi xuống đã vội tháo giày ra. – Thời tiết này khiến em phát điên. Trời ơi, làm ơn mở máy lạnh ngay.
Tôi tuân theo, vào mùa này thời tiết thật khó chịu, nhưng còn đỡ hơn ở Miami.
– Em có nghe nói về ông Henry Vidal nào đấy không? – Tôi hỏi, lúc lái xe về nhà.
Nàng thờ ơ đáp:
– Hôm qua bà ấy có đến cửa hiệu, mua dây thắt lưng và quần dài.
– Bà ấy như thế nào?
Rhoda liếc nhìn tôi:
– Tại sao anh quan tâm đến bà ấy thế?
– Ông Vidal vừa mở ở chỗ anh một trương mục trị giá hai trăm nghìn đô la.
– Chúa ơi, anh giàu to rồi! – Rhoda thường bị kích động trước hơi hám đồng tiền.
– Lão ấy, chứ không phải anh. Bà Vidal đi với chồng à?
Rhoda đáp, vẻ khinh thường:
– Không, mụ chỉ đến một mình.
– Bà ấy như thế nào? – Tôi lặp lại câu hỏi.
Lần này nàng khịt mũi, xì hơi. Tôi không ngạc nhiên về thái độ này, Rhoda không hề công nhận người đàn bà nào đẹp hơn mình.
– Không tệ, nếu đàn ông ưa thích thứ lẳng lơ, cao ráo, tóc nâu. Mụ biết cách ăn mặc đấy và đây là một đặc ân cho mụ.
– Bà ấy trông dễ mến chứ?
– Nếu không phần nào như anh muốn nói, thì khi mụ ấy cũng như những thứ đỏm dáng khác mang xác đến, đã làm em điên tiết lên rồi.
– Bà ấy trả tiền mặt à?
– Không, bằng chi phiếu.
– Khi ký chi phiếu, bà ấy có tặc lưỡi hít hà không?
– Trời ơi, anh hỏi nhiều chuyện vớ vẩn đó để làm gì? Em có cả khối chuyện phải làm. Làm ơn nhanh lên, Clay. Em còn phải tắm gội.
Một tiếng đồng hồ sau, Rhoda trườn dài trên ban công, phía dưới có con kênh nhỏ, tay này ly rượu tay kia tờ tạp chí. Còn tôi, sau khi từ phòng tắm bước ra, tôi rót cho mình cốc whisky pha nước khoáng, rồi đến ngồi cạnh nàng. Tôi biết trước giờ xuống quán dùng bữa ăn tối, tôi không thể cạy nàng lấy một lời. Tôi rất muốn được nghe nàng nói nhiều về Vidal và cả Vernon Dyer, nhưng vô ích thôi. Nàng không quan tâm bất cứ việc gì, ngoại trừ những tạp chí thời trang và mua sắm áo dài.
Ngồi đối diện với Rhoda, tôi phát hiện nàng hoàn toàn khác biệt với Valérie.
Valérie rất quan tâm tới những công việc của tôi. Nàng thông minh, tế nhị thường bàn luận những vấn đề hệ trọng của tôi, rồi đưa ra những lời khuyên hữu ích.
Valérie!
Gần sáu năm trước, tôi làm giám đốc của American Travel Services ở Statler Hilton của thành phố Boston. Người tiền nhiệm của tôi là Roy Cannon được cử phụ trách một căn phòng ở New York, đã đến chờ tôi tại sân bay.
Chúng tôi nâng cốc và Cannon cho biết:
– Điều luyến tiếc duy nhất của tôi ở Boston là đã để mất cô thư ký xuất sắc mà tôi không bao giờ có được và anh sẽ có cái tài năng đáng giá này trong nay mai. Có thể nói trong quá trình làm việc chung, tôi không bao giờ nghe cô ấy than phiền gì về tiền nong, giờ giấc hoặc công việc làm. Trái lại, nàng luôn tỏ ra tươi vui quyến rũ, trí nhớ nhạy bén trong mọi tình huống để giúp anh giải quyết các khó khăn.
Lúc đầu tôi không tin vào những lời tán dương này, nhưng ngay sau đó, tôi nhận thấy Cannon hoàn toàn không nói ngoa. Valérie Dart có đầy đủ đức tính của một người phụ nữ tài năng đảm đang và trung thực. Cao ráo mảnh dẻ, tóc nâu, mắt xanh màu lục bảo, thân hình nở nang cân đối hài hòa, nàng là hiện thân của sự phối hợp tuyệt vời giữa sắc đẹp và trí tuệ.
Chỉ vài ngày thôi, tôi đã say mê nàng. Nhưng dù nàng có cử chỉ và thái độ thân mật, nhưng vẻ lạnh lùng trong ánh mắt nàng cảnh báo tôi phải dè chừng. Chúng tôi làm việc chung từ chín giờ sáng đến mười sáu giờ chiều. Điều này cho thấy chúng tôi được thường trực bên nhau hơn cả thời gian một ngày của đôi vợ chồng. Nàng có một chiếc xe riêng, mỗi chiều hết giờ làm việc nàng phóng xe như bay, trước khi không quên vẫy tay chào từ giã tôi. Vào những giờ rỗi việc, nàng không hề cho tôi biết nàng đã làm những gì, quen biết những ai và thích đi chơi ở đâu. Thế nên, tôi mù tịt về đời tư và nếp sống của nàng. Đã thế nàng luôn luôn tránh né và giữ kẽ, điều đó tạo nên một khoảng trống cách biệt giữa nàng và tôi.
Một hôm, tôi đánh bạo mời nàng đi ăn tối. Nàng tỏ ra ngạc nhiên, nhưng nói:
– Chà, cám ơn lắm, chuyện này thật thú vị.
Tôi đưa nàng đến một nhà hàng khiêu vũ có bán thức ăn hải sản nổi tiếng. Khi ăn cũng như lúc khiêu vũ, nàng đều tỏ vẻ dè dặt, nhưng tôi đã thể hiện được phong cách thanh nhã và lịch thiệp. Sau đó cứ mỗi tối thứ sáu, chúng tôi cùng đi ăn nhưng khi tôi mời đi xem chiếu phim thì nàng lịch sự từ chối.
Dần dần hình dáng nàng thấm đẫm vào tôi như có vi khuẩn ở trong máu. Tôi cảm nhận rằng từ đây khó có người đàn bà nào có thể thay thế tình yêu của nàng trong trái tim tôi.
Nàng đã là người đàn bà duy nhất và cho dù tôi sẽ phải đợi chờ vô tận thì nàng vẫn là người đàn bà duy nhất của tôi.
Tôi lái xe thật chậm để trao cho nàng bó hoa và những hộp kẹo. Để tìm một cái cớ tôi nói dối rằng đây là một hình thức để thể hiện sự biết ơn, xin nàng giúp tôi cầm hộ.
Rồi vào một tối thứ sáu, sau ba tháng kể từ ngày tôi tới Boston, trong lúc chúng tôi khiêu vũ, tôi không còn dằn nén được nữa.
– Valérie, – tôi nói, – anh yêu em. Anh ngỡ rằng em đã đoán được điều này. Em bằng lòng cưới anh không? Đây là điều mơ ước nhất trong đời anh. Anh khẳng định chúng ta sẽ hạnh phúc.
Nàng gối đầu lên vai tôi để che khuất khuôn mặt và chúng tôi tiếp tục khiêu vũ trong nhiều phút nữa. Thế rồi nàng ngước lên nhìn tôi và mỉm cười. Nụ cười ấy làm tôi muốn vỡ lồng ngực vì vui mừng.
– Vâng, Clay ạ, anh cứ hy vọng, nhưng em chưa muốn lập gia đình.
Tôi đưa nàng bước ra ngoài tiệm ăn, đến dưới ánh trăng soi tỏa.
– Em muốn nói rằng anh hãy kỳ vọng vào em, chứ gì?
Tôi không thể tin được điều đó ở nàng.
– Anh nên tin em. – Nàng nói và hôn vào má tôi. – Nhưng em chưa vội vàng gì cả. Chúng ta nên tìm hiểu nhau thêm một thời gian nữa. Khi em lấy anh, em muốn lo toan các việc trong cuộc sống của anh. Nhưng em muốn ở lại hãng này. Em khuyên anh nên kiên nhẫn.
Đêm đó, tôi ngủ yên trong niềm hạnh phúc.
Sáng hôm sau, tôi nhận được diện thoại ở hãng du lịch trung ương, phó giám đốc John Ryner muốn gặp tôi. Ông ấy yêu cầu tôi có thể để Valérie lo công việc trọn buổi sáng. Hôm ấy là ngày thứ bảy mà tôi thì phải đóng cửa vào lúc mười bảy giờ, nên tôi vội lên phi cơ đi New York.
Ryner tiếp tôi rất nồng hậu. Ông đi ngay vào công việc:
– Clay, tôi nghĩ anh để mắt xem chuyện gì đang diễn ra ở châu Âu. Chúng tôi đã xếp đặt để anh đến chi nhánh của chúng ta ở London trong sáu tháng và sáu tháng tiếp theo ở chi nhánh Paris. Hãy nhân dịp này trau dồi tiếng Pháp ở Paris.
Càng lúc người ta càng lui tới vương quốc Anh và nước Pháp, anh phải thăm dò tin tức để biết các khả năng của họ dưới dạng hiện tại. Tôi đặt Bill Olson vào chỗ của anh ở Statler Hilton, nhưng khi trở về anh sẽ nhận lại công việc với mức lương được tăng lên một nghìn năm trăm đô.
– Khi nào anh lên đường?
Tôi làm nhanh bài tính nhẩm, thật đau lòng phải xa cách Valérie nhưng nàng có cho tôi biết rằng muốn có thời gian để suy nghĩ trước khi cưới và tôi biết rằng nàng sẽ không thay đổi ý kiến. Với mức lương tăng một nghìn năm trăm đô la, chúng tôi sẽ có một cuộc sống thoải mái, tiện nghi.
Do đó, tôi không do dự:
– Ngày và giờ xin tùy ông ấn định.
– Ngày thứ ba, được chứ?
– Vâng, thưa được.
Gấp đấy, nhưng tôi nghĩ đi càng sớm, tôi sẽ dược về sớm.
Ryner rất hài lòng:
– Thế thì hay lắm. Olson sẽ có mặt vào ngày thứ hai và cô Dart sẽ chỉ dẫn công việc cho hắn. Cô ấy tháo vát lắm, phải không? – Lão hỏi và nhìn tôi.
– Một cô thư ký xuất sắc, khó tìm được người thứ hai.
Tôi nghĩ thầm, rồi đây lão sẽ phản ứng như thế nào khi được tin Valérie về sống với tôi.
Trước khi rời New York, tôi gọi điện nói chuyện với Valérie trước giờ nàng về nhà:
– Anh sẽ trở về Boston lúc mười sáu giờ Valérie. – Tôi thông báo. – Anh cần nói chuyện với em. Có thể chờ anh ở sân bay, được không?
– Tất nhiên được, Clay.
Một giờ trước khi lên phi cơ, tôi tranh thủ đến khu bán vàng bạc đá quý mua một cặp nhẫn cưới: một ngọc bích và một kim cương. Tôi cho gói cẩn thận vào chiếc hộp đựng quà cưới, rồi ngồi taxi lên phi trường.
Valérie đã đúng hẹn và đang chờ tôi.
– Có chuyện gì thế, Clay? – Nàng hỏi, trong lúc chúng tôi đi bộ đến bãi đất đỗ chiếc Volkswagen của nàng.
– Tin rất tốt. – Tôi đáp và nhìn nàng, cười mỉm. – Chờ đến quảng trường Franklin, em sẽ được biết. Còn bây giờ, hãy kể anh nghe buổi sáng của em, nó như thế nào?
Biết tôi chưa muốn tiết lộ nên nàng vừa lái xe vừa thuật tôi nghe những việc nàng đã giải quyết trong buổi sáng. Nàng cho biết có cặp vợ chồng đã đứng tuổi quyết định làm chuyến du lịch thế giới. Sau khi trở về họ vẫn chưa tìm được điểm chung để tiếp tục sống với nhau. Câu chuyện đã làm tôi cảm thấy phần nào mất hy vọng.
Chúng tôi dừng xe và sau khi băng qua khu đất đầy ngập hoa hồng, chúng tôi chọn một ghế đá bỏ trống và ngồi xuống dưới ánh chiều tà đang le lói. Tôi bắt đầu thuật nàng nghe các sáng kiến đề nghị của ông phó giám đốc John Ryner, rồi kết luận:
– Anh rất khổ tâm vì phải xa em, Valérie. Nhưng đây là thời điểm đủ để em suy nghĩ và qua một năm anh trở về, sẽ được nghe em cho biết đã quyết định lấy anh. Lý do duy nhất thúc đẩy anh ra đi là được tăng lương. Với số tiền một nghìn năm trăm đô la, cuộc sống của chúng ta sẽ ổn định và thoải mái biết bao.
Nàng nhìn tôi, buông một câu thăm dò:
– Anh sẽ mất em, Clay!
Tôi không đáp, lặng lẽ trao cho nàng chiếc hộp đựng sính lễ. Sau khi bóc lớp giây gói bên ngoài và mở chiếc hộp ra, nàng bật một tiếng hoảng sợ:
– Em không thể nhận, Clay. Nó ràng buộc em lời giao kết bền lâu, mà hiện em chưa nghĩ đến. – Nàng khoác tay và trao lại tôi chiếc hộp. – Em cảm kích cử chỉ của anh vô cùng, nhưng trong một năm không ai đoán được điều gì sẽ xảy ra. Vâng, em ghi nhận tình yêu của anh đối với em, nhưng em muốn nó phải khẳng định chắc chắn. Hơn nữa, em không muốn bị ràng buộc.
Tôi không tuyệt vọng:
– Em sẽ không bị ràng buộc gì cả, Valérie. Hãy mang chiếc nhẫn vào ngón tay phải của em, để chiều lòng anh. Khi có quyết định dứt khoát, em sẽ chuyển nó sang ngón tay trái. Em có phản đối không?
– Đây là vật kỷ niệm tuyệt đẹp, rất đáng tôn trọng. – Sau khi quan sát một chập, nàng lấy chiếc nhẫn ra khỏi hộp, rồi đeo nó vào ngón áp út nơi bàn tay phải của mình. – Đây này… anh bằng lòng chưa?
Nàng nhoài người vào tôi và chúng tôi trao nhau nụ hôn.
– Và bây giờ em xin mời anh về nhà để được hân hạnh phục vụ anh bữa ăn tối. – Nàng vui vẻ nói tiếp. – Em muốn được chứng tỏ với anh một điều: Valérie là cô thư ký giỏi, đồng thời là người nấu ăn giỏi!
Chúng tôi vào thành phố. Trên đường về nàng mua những thứ dành cho bữa ăn, rồi lái xe đưa tôi về căn hộ của nàng. Căn phòng xinh xắn được trang trí cho một phụ nữ độc thân, tỏa sáng sự tinh tươm sạch sẽ và biệt tài làm bếp của nàng đã cho tôi thưởng thức một bữa ăn tuyệt vời.
Mãi đến khuya trước khi đứng dậy ra về, tôi ước hẹn sẽ cùng nhau dành trọn ngày chủ nhật, tại bãi biển ở Salisbury. Từ đó, tất cả những ngày nghỉ cuối cùng, chúng tôi được hoàn toàn hanh phúc bên nhau.
Ngày thứ ba, Bill Olson đến để bàn giao công việc và thay thế tôi. Valérie để anh ta lại văn phòng, nàng đi theo tôi ra tận sân bay để từ giã.
– Hãy chờ anh, em yêu. – Tôi cầm tay nàng và bịn rịn nói. – Xa nhau chỉ một năm thôi, em ạ. Rồi thì hai ta sẽ mãi mãi bên nhau dưới mái ấm gia đình.
Nhưng định mệnh cay nghiệt đã xoay hướng đổi chiều.
Từ phương xa tôi đều đặn biên thư về Valérie, nhưng nàng viện dẫn chán viết, nên dần dà tôi không được biết tin tức về nàng.
Sau sáu tháng ở London, tôi được chuyển sang Paris. Tại đây tôi tìm được một căn hộ, gần nơi làm việc, nên vội vàng biên thư thông báo cho nàng địa chỉ mới của tôi. Chờ đợi suốt ba tuần lễ, không hề nhận lấy một lời làm tôi bắt đầu lo âu sốt ruột. Chờ thêm tám ngày nữa, giữa lúc tôi quyết định phải điện thoại cho nàng, thì đùng một cái tôi nhận được một bưu kiện gửi khẩn cấp bảo đảm.
Vừa ngạc nhiên hồi hộp, tôi giở gói bưu kiện: một chiếc nhẫn kèm theo tờ giấy mong manh chỉ có mấy dòng, hiện ngay trước mắt tôi.
“Clay thân mến,
Em đã vĩnh viễn rời khỏi Boston rồi. Rất tiếc phải làm anh đau lòng, nhưng em buộc phải nói ra: em đã có người khác. Rồi đây, anh cũng sẽ gặp ai đó thôi. Những chuyện thế này tuy bất chợt, nhưng chúng vẫn thường xuyên xảy ra. Em cũng hối tiếc, Clay ạ. Xin tha thứ và hãy quên em.
Valérie”.
Suốt nhiều tháng tôi sống trong chán chường, tuyệt vọng.
Ban ngày tôi làm việc quần quật như cái máy và đêm xuống tôi uống rượu đến say khướt, nhưng không dễ dàng lãng quên hình bóng nàng và sự cô đơn, bất hạnh. Cuối cùng, chấm dứt công việc ở nước ngoài, tôi trở lại Boston và khi gặp mặt Olson, tôi đặt ngay câu hỏi tại sao Valérie ra đi.
– Tôi không có ý kiến nào về việc này, Clay. – Olson nói. – Tôi cũng rất tiếc, nàng chỉ nói mình ra đi vì nhiều lý do hoàn toàn cá nhân. Như anh biết đấy, bình thường nàng vẫn tỏ ra khác biệt với chúng ta rồi. Thế nên tôi nghĩ mình không nên cương quyết giữ nàng lại.
Bốn năm trôi qua, niềm đau khổ của tôi không hề phai nhạt. Thế nên tôi cưới Rhoda với kỳ vọng cuộc sống vợ chồng sẽ giúp tôi bớt nhớ thương Valérie. Nhưng cuộc hôn nhân này không phải là giải pháp tốt, vì những lời lẽ trong bức thư đã chấm dứt niềm vui và hạnh phúc của tôi sau những năm dài vẫn làm con tim tôi rướm máu.
– Clay này!
Tôi giật nẩy. Hồi ức của quá khứ dạt dào đã làm tôi quên hẳn đang có Rhoda bên cạnh.
– Em đói. – Nàng chuyển thế ngồi trên chiếc ghế, duỗi dài đôi chân xinh đẹp. – Anh làm sao thế, như mèo bị mắc mưa ấy.
– Anh hoàn toàn chẳng có gì cả. Đi ăn thôi. – Tôi hững hờ đáp lại.
Tôi chưa bao giờ nói với nàng về Valérie. Vả lại, nàng chẳng hề hỏi tôi đã yêu người đàn bà nào trước nàng hay chưa. Nàng không yêu tôi đến mức phải quan tâm đến quá khứ của tôi. Trong đầu nàng đã có quá nhiều việc bận rộn rồi.
Chúng tôi xuống quán để ăn những món không thay đổi và khi trở lên căn hộ, chúng tôi cũng không tránh khỏi những buổi tối nhàm chán trước màn kính truyền hình, trước khi lên giường ngủ.