Ôi Đàn Bà

CHƯƠNG 21



Chiếc đồng hồ báo thức đã được tôi điều chỉnh reo lên ở con số sáu, làm tôi giật mình tỉnh dậy. Lên giường rất sớm và biết rằng những suy tư phiền muộn sẽ khiến tôi không thể chợp mắt được, nên tôi đã uống ba viên thuốc ngủ.
Trước khi các viên thuốc có tác dụng, tôi đã cân nhắc chuyện sắp tới của mình một cách vô vọng. Tôi biết Rhoda có khả năng viết thư cho Vidal và Valérie cũng đã khẳng định rằng, nếu chồng nàng phát hiện chúng tôi là cặp tình nhân, thì lão sẽ giết cả hai chúng tôi. Tôi biết chắc rằng đây không phải là một cảnh báo bóng gió và vô ích để cảnh giác nàng, nếu làm thế tôi sẽ có nguy cơ thiệt mạng.
Ý nghĩ của tôi lại quay về với một vụ án mạng và điều này cho tôi cảm giác nó đang khởi điểm. Nếu tôi giết được Vidal sẽ không còn nỗi lo đến với tôi, Valérie sẽ được tự do và Rhoda sẽ không còn cái cớ để làm phiền toái tôi nữa. Cho dù Rhoda không chịu ly dị, Valérie và tôi vẫn phải lên đường. Valérie sẽ trở về con người thật với chính mình và chúng tôi sẽ cùng nhau làm việc ở Canada hoặc Anh quốc, để cùng tạo cuộc sống ấm êm hạnh phúc.
Bị thấm thuốc, tôi trở nên lạc quan. Tương lai không thể u tối như tôi đã nghĩ lúc đầu. Nằm trên giường giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê, tôi cảm thấy mình có khả năng hạ sát Vidal.
Ánh mặt trời yếu ớt xuyên qua màn cửa sổ, ngồi ven giường, tôi lặng nhìn một buổi sáng. Không như lệ thường của gian phòng. Tôi cảm giác không còn nghe tiếng vang động, rồi cảm nhận các cơn gió lốc bên ngoài đã im ắng. Trong suốt mười hai giờ đồng hồ nhiều đợt gió hung hãn đã quần quật lên cành cây, tạo nên những âm thanh đinh tai điếc óc. Tôi đứng lên bước tới cửa sổ, vén tấm màn chắn gió.
Bên ngoài sũng nước, nhưng gió đã ngưng và ánh mặt trời đã rực sáng.
Tôi nghĩ thầm, có thể cơn bão dữ đã cạn kiệt rồi.
Tôi cảm thấy lẻ loi trong căn hộ và không còn nghe giọng hát khe khẽ của Rhoda trong phòng tắm. Sự cô đơn thật lạ kỳ, lúc Rhoda ở đây, nàng đã khiến tôi cáu gắt bực tức, còn bây giờ tôi cảm thấy thiếu vắng nàng.
Lúc bảy giờ mười lăm, uống cà phê và thay quần áo xong, tôi bước xuống nhà để xe và thấy Rank, người gác đêm đang chùi rửa chiếc xe. Rank là một người da đen, gầy và cao khỏng dược mọi người ở đây mến chuộng.
– Xin chào, thưa ông Burden. – Hắn cười toe toét. – Tôi không nom thấy chiếc xe của bà Burden ở đây.
– Bà ấy chuyển đến khách sạn, còn tôi sẽ đến Paradise Largo đến khi bão hết. ông giữ hộ các thư tín của tôi, Rank nhé?
– Vâng, thưa ông Burden. Cơn bão này thật tệ hại.
– Người ta nói nó đã dứt rồi kia mà?
– Không, thưa ông. Nó chưa dứt đâu. Đêm nay nó sẽ rất mạnh và ác liệt hơn nhiều.
Ngồi vào tay lái, tôi cho xe chạy qua những con đường vắng lặng, thành phố như đang chờ đợi một cuộc xâm lảng. Những màn chắn ở các cửa hàng được hạ xuống thấp và các cửa kính đều được cài những thanh gỗ đóng đinh rắn chắc. Có thể nói mọi giao thông đều đình trệ. Đến cánh cửa cổng của dinh cơ Vidal, tôi trông thấy nhiều người đang cưa những cành cây to bị gãy đổ. Người gác cổng làm một cái gật đầu, khi tôi chìa tấm thẻ ra vào.
– Tôi sẽ ở lại đây đến khi nào bão thật sự chấm dứt. – Tôi thông báo cho hắn.
– Tôi cũng thế. – Hắn làu bàu vẻ bồn chồn lo lắng. – Trừ phi khi nào thần bão bứng phức cái chòi gác này.
– Ngài Vidal đã đến rồi chứ?
– Tôi trông thây ông ấy đi qua, cách nửa tiếng.
Đỗ xe, tôi nhận ra sự đổi khác của tòa nhà. Tất cả cửa sổ đều cài chặt, hai người đàn ông đứng trên mái nhà che phủ các miệng lò sưởi, chú làm vườn người Trung Hoa đang thắt buộc các bụi hoa hồng và một người khác đang dựng một nhánh cây bị gãy, gần như nằm sát đất.
Trong phòng làm việc tối tăm của mình, tôi bắt đầu bật điện. Trên bàn làm việc của tôi, người nào đó đã đặt một chiếc đèn bão và một bao diêm. Tôi liếc mắt nhìn qua cánh cửa sổ đã được rào chắn và nhìn lên đồng hồ, nó chỉ tám giờ.
Henriques, viên kế toán của Vidal yêu cầu tôi lập bảng danh sách hàng tháng của các du khách bao gồm tên họ, nơi đến và giá vé của những người này.
Vì không có việc phải làm và cần để đầu óc suy nghĩ, tôi cầm các tờ phiếu và biên lai để lập danh sách.
Đến tám giờ bốn mươi lăm, có tiếng đập cửa và Dyer bước vào:
– Chào! – Hắn đặt lên bàn làm việc của tôi một cây đèn điện có công suất cao. – Người ta cho biết cơn bão sẽ kéo đến thật sự vào lúc hai mươi mốt giờ đêm nay. Điện sẽ bị ngắt, hãy giữ cây đèn diện này trong tay. Sẽ rất oi bức khi các máy điều hòa nhiệt độ ngưng chạy.
ắn sờ vào góc bàn của tôi, nhặt bao diêm và châm thuốc lá:>
– “Khúc xương xẩu” đã về đến khoảng tiếng đồng hồ. – Hắn nhăn mặt. – Tính khí không khá, lão hiện đang ở chỗ của bà Vidal.
– Ông ấy có cho biết ý định sẽ ở lại đây không?
Hắn gượng cười:
– Thậm chí không một tiếng chào! Tôi làm việc trong gian phòng ở phía dưới chỗ này. Văn phòng của lão ở cạnh phòng tôi và nhìn ra hồ bơi. Tôi nói thế, phòng khi lão gọi anh đến. Có một hồ sơ dày cộm vừa gởi tới, có thể là cái cuối cùng trước khi cơn bão tan.
– Tôi có thể giúp gì được cho ông?
– Lúc này thì chưa. Máy nội đàm hiện giờ của tôi mang số 4. Thôi, sẽ gặp lại.
Hắn đi, tôi vẫn ngồi im và tự hỏi điều gì đã diễn trong phòng của Valérie. Đầu óc rối bời, tôi như người ngồi trên đống lửa. Tôi mở ngăn kéo, bên trong có chiếc cặp, cầm nó lên tôi cảm thấy yên tâm. Tôi đẩy cái ngăn kéo trở vào, cố gắng chỉ nghĩ đến công việc, nhưng đầu óc tôi vẫn quay về căn phòng của Valérie.
Nhớ lại, mình còn chiếc va li trên xe Plymouth, tôi đứng dậy mở cửa và nghe ngóng.
Bất ngờ nghe giọng cười khô khốc của Vidal, làm máu tôi như đông lại:
– Tốt hơn em nên ngồi dậy, không gì tệ hại hơn cứ nằm riết trên giường. Đi thay y phục, rồi tìm việc gì đó để làm!
Giọng như quát tháo của lão vang ra tôi rất rõ. Cái nắm đấm cửa chợt xoay, làm tôi hối hả bước xuống cầu thang. Tôi vừa xuống tới dưới, thì Vidal đã bước tới gần.
– A, Burden!
Tiếng của lão làm tôi đứng phắc lại như chạm phải bức tường. Tôi xoay lưng và cúi đầu về phía lão. Vidal mặc bộ complé màu xám tro, sơ mi trắng mỏng và thắt chiếc cà vạt đỏ như máu. Lão bước nhanh tới tôi:
– Tôi có chuyện sắp nói với anh đây. – Lão nói, cặp chân mày chau lại và trong khi đi, lão đấm hai bàn tay vào nhau vẻ nóng nảy.
Tôi đi theo lão, lại lần nữa ý thức được quyền lực và sức mạnh của lão thoát ra từ hai bờ vai chắc nịch. Lão mở cửa và bước nhanh như tạc đạn vào căn phòng thoáng rộng, đặt một bàn làm việc to lớn, trang trí nội thất cực kỳ sang trọng. Lão bước tới ngồi phía sau chiếc bàn:
– Tôi hài lòng được biết anh ở đây, Burden. Không ai biết được bao giờ… Anh có thể hữu ích. Tôi buộc phải ở lại vì một cuộc gọi quan trọng. Bà Vidal quyết định không đi và ở lại với tôi. Có trời biết. – Lão nhún vai, dáng vẻ mất kiên nhẫn. – Tốt hơn bà ấy nên đi với bà Clements, vì bảo rằng mình sợ du lịch. Anh ngồi xuống đi. – Lão chỉ cho tôi một chiếc ghế.
Trong lúc tôi ngồi xuống thì có tiếng gõ cửa và viên quản gia bước vào, trên tay khệ nệ chiếc khay và dặt trước mặt lão.
– Anh uống cà phê chứ? – Lão hỏi tôi.
– Không, cám ơn. Tôi đã dùng rồi.
– Được. – Lão ra hiệu cho người quản gia rút lui. – Harris, tốt hơn anh di ra. Giulio sẽ lo cho tôi.
– Thưa ông, vâng ạ.
Người này bước ra và khép cửa lại phía sau lưng.
– Bọn họ đều căng thảng thần kinh, tôi rất ghét bọn người như thế ở quanh quẩn bên tôi. – Vidal ngưng nói một lát. – Công việc làm của anh rất thỏa mãn, Burden. Điều này không làm anh bị khó khăn với bà Vidal đang bị choáng. Anh đã có cô thư ký?
– Vâng, nhưng chúng tôi đã bảo cô ấy ở nhà đến khi bão hết.
– Vì tôi còn ở đây, bà Vidal không muốn tiếp tục làm việc với anh nữa. Căng đấy, vậy anh hãy giữ cô thư ký lại nếu anh thấy được. Anh định mức lương cho cô ấy bao nhiêu thế?
Tôi cho lão xem bảng lương bổng Connie.
– Hay lắm. Tôi có một yêu cầu cho anh đây, hãy làm ngay đi. Người ta dự đoán cơn bão hãy còn diễn biến phức tạp và các đường dây điện thoại sẽ bị ảnh hưởng nặng, nên chúng ta không thể sử dụng được. Vậy anh nên xếp đặt để có một phi cơ tư nhân, sẵn sàng cất cánh ngay khi có thể được, dành cho ba hành khách và hành lý để đến San Salvador. Tôi sẽ cho anh biết tên của họ, nhưng anh hãy thuê phi cơ trước. Bảo với thằng cha ngu đần kia, rằng tôi sẽ trả tiền mặt. – Lão bổ sung bằng nụ cười chẳng nói lên điều gì.
– Vâng, thưa ông Vidal. – Tôi đáp.
– Đừng đi vội. Khi xong việc ấy, anh có thể giúp tôi một việc không?
Quá bất ngờ, tôi ngồi trở lại, nín lặng một lúc:
– Vâng, thưa ông Vidal.
– Vào trưa nay, anh hãy giúp cho bà Vidal thư giãn, được không? Bà ấy rất ăn ý với anh. Đánh bài hoặc chơi thứ gì đó với bà. Bà ấy quá căng thẳng, mà tôi thì còn nhiều việc phải làm.
Tôi không tin vào tai mình.
– Vâng, tôi xin sẵn lòng. – Tôi đáp, giọng khàn đặc.
– Anh là chàng trai đảm đang. – Lão đặt tay vào chồng hồ sơ và chuyển nó cho tôi.
Tim dập rộn rã, tôi bước ra và nhẹ nhàng khép cánh cửa thông. Bà Clements, Harris, người quản gia và một gã khác bụng phệ có thể là tay trưởng bếp đang bước xuống cầu thang. Tất cả đều xách va li. Tôi tránh sang bên để họ đi qua. Bà Clements nhìn tôi khẽ gật đầu, Harris hơi nghiêng mình, còn gã kia vờ như không thấy tôi. Khi họ đã đi khỏi, tôi bước vào phòng làm việc của Dyer.
Hai ngón tay hắn đang bổ lóc cóc lên mặt chữ của cái máy. Trông thấy tôi, hắn cười toét miệng:
– Thế nào, bầy chuột đã chạy khỏi con tàu rồi à?
– Họ đi đâu thế?
– Họ lên chuyến bay chót để đến Dallas, cơn bão đã làm họ xù lông. “Lão xương xẩu” ra lệnh cho họ phải rời ngôi nhà, ngoại trừ Gesetti, mà lão bảo rằng hắn biết nấu ăn. Thế là anh phải tự căng giường ngủ. Anh biết đánh máy chứ?
– Tàm tạm.
– Anh làm ơn đánh giúp cái này thành hai bản sao. – Hắn dồn các tờ giấy qua tôi.
– Được thôi.
Tôi cầm xấp giấy trở về phòng mình, đặt chúng lên bàn, chần chừ một lúc, rồi đi thẳng về hướng căn phòng của Valérie. Đi trên hành lang được ba bước, bỗng tôi khựng lại.
Im lặng như bống ma, Gesetti đã bước lên cầu thang, bấn mắt chúng tôi chạm nhau. Nằm khuất dưới cái vành nón, hai con mắt nhỏ rí như cặp mắt loài rắn đầy de dọa.
Cái nhìn làm tôi đanh cóng.
– Tìm cái gì đấy, bố? – Hắn hỏi, rồi bước lên các nấc thang cuối cùng, uyển chuyển như con mèo.
Tôi hốt hoảng đứng lui lại, hắn nguy hiểm như con rắn độc. Trở về phòng làm việc, tôi vội vàng khép cửa lại. Đây là cái gã Valérie cho biết sẽ giết chúng tôi, nếu Vidal phát giác chúng tôi là nhân tình. Tôi giận mình đã tỏ ra cho hắn thấy sự khiếp sợ hắn.
Tôi ngồi vào bàn, lấy mùi xoa lau đôi tay ẩm ướt mồ hôi và lắng tai nghe ngóng tiếng bước chân của hắn. Chẳng nghe được gì cả, tôi đoán chắc hắn vẫn còn đứng bên ngoài cửa, đến đỗi tôi không dám bước tới để khóa cánh cửa lại.
Phải mất khoảng mười phút mới lấy lại bình tĩnh, tôi điện thoại cho Roger Everet thuộc công ty thuê bao phi cơ ở Florida.
– Chào, Burden. – Hắn đáp. – Lần này lão muốn gì đây?
– Lão muốn thuê một phi cơ cho ba hành khách và hành lý để đi San Salvador. Lão muốn nó cất cánh ngay khi bão chấm dứt.
– Tất nhiên được, vẫn những điều kiện như trước chứ?
– Vẫn như trước.
– Hay lắm. Cho lão biết phi cơ đã sẵn sàng.
– Thời tiết thủy văn nói thế nào?
– Có thể chấm dứt trong ba hoặc bốn ngày sắp tới, nhưng khi bão còn nó sẽ trở nên vô cùng ác liệt. Xem nào, hôm nay là thứ ba. Nếu được chút ít may mắn, lão có thể lên đường vào ngày thứ bảy.
– Rõ. Tôi sẽ nói lại với lão.
Tôi không còn chút hứng thú nào đến gặp Valérie nữa. Cái nhìn của Gesetti như tạt nước lạnh vào tôi. Tôi bắt đầu đánh máy các giấy tờ do Dyer giao. Đấy là những văn bản chán ngắt của các giám đốc công ty dầu khí.
Lúc đang đánh máy, tôi nghe thấy gió giật mạnh trở lại, các cành cọ bên ngoài bắt đầu lay động và sấm sét nổ rền từ xa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.