Sherlock Holmes Toàn Tập

D.13 – The Adventure of the Second Stain 1904 (Vết máu thứ hai )



Một buổi sáng của mùa thu, trong căn hộ chúng tôi xuất hiện hai người nổi danh khắp châu Âu… Người thứ nhất mũi cao, mắt diều hâu, có cái nhìn trịch thượng, trông nghiêm khắc và kiêu kỳ. Đó là huân tước Bellinger, người hai lần giữ chức Thủ tướng. Người thứ hai tóc đen, hơi thấp, có khuôn mặt cân đối. Người ông ta toát ra một vẻ lịch thiệp, trang nhã. Đó là bá tước Trelawney Hope, phụ tá đặc trách đối ngoại Âu châu.

Hai vị khách ngồi cạnh đi-văng. Đôi tay gầy gò của Thủ tướng bóp chặt lấy cái cán dù. Ông ta nhìn Holmes lại nhìn tôi, buồn rầu và lo ngại. Người phụ tá thì gảy gảy những đồ trang sức trên dây đồng hồ.

Ông Holmes, tôi đã bị mất cắp. Tôi báo cho Thủ tướng và ngài muốn gặp ông.

Ông không báo cảnh sát sao?

Không – Thủ tướng lên tiếng – Không báo và sẽ không báo. Báo cho cảnh sát nghĩa là công bố sự việc. Mà chúng tôi muốn né tránh việc này.

Vì sao, thưa ngài?

Tài liệu quan trọng tới mức nếu công bố nó, thì có thể dẫn đến một cuộc xung đột có tính quốc tế. Có thể nới rằng vấn đề chiến tranh và hòa bình phụ thuộc vào tài liệu này. Nếu đi truy tìm mà không giữ bí mật thì không nên truy tìm.

Tôi hiểu. Còn bây giờ, ông Trelawney Hope, tôi sẽ rất biết ơn ông, nếu ông kể cho tôi nghe tài liệu bí mật mất trong trường hợp nào.

Đó là bức thư của một nguyên thủ nước ngoài đến cách đây sáu ngày. Bức thư có ý nghĩa hệ trọng đến nỗi tôi quyết định không cất nó trong cái tủ chống cháy của chính phủ. Chiều đến tôi mang nó về nhà tôi, tại Whitehall Terrace, cất trong cái tráp, đặt ở trong phòng ngủ của tôi. Tráp này chuyên dùng để cất giữ những tài liệu quan trọng.

Chiều hôm qua, lá thư vẫn nằm ở đấy. Khi mặc quần áo đi ăn trưa, tôi lại mở tráp ra và tài liệu vẫn còn nguyên. Thế mà sáng nay nó biến mất. Suốt đêm, cái tráp được đặt ngay cạnh giường trên bàn rửa mặt của tôi. Tôi ngủ rất tỉnh, vợ tôi cũng vậy. Cả hai chúng tới thề rằng không một ai vào phòng ban đêm cả.

Ông ăn tối lúc mấy giờ?

7 giờ 30.

Ông đi ngủ khi nào?

Vợ tôi đi xem hát. Tôi chờ cô ấy. Gần 12 giờ chúng tôi đi vào phòng ngủ.

Nghĩa là trong khoảng gần bốn giờ đồng hồ tráp không được một ai bảo vệ

Không một ai được phép vào phòng ngủ ngoài nữ hầu phòng người hầu và vợ tôi. Tuy nhiên, cả hai người này đều là những gia nhân đáng tin cậy. Hơn nữa họ không hề biết trong tráp đựng thứ gì.

Ai biết có lá thư này?

Trong nhà tôi, không một ai biết cả.

Thế nhưng, vợ ông biết chứ?

Không, thưa ông! Sáng hôm nay, khi không tìm thấy lá thư, tôi cũng không nói gì với vợ tôi cả.

Thủ tướng gật đầu tán đồng:

Tôi biết ông luôn có một ý thức trách nhiệm rất cao.Trong công việc này, ý thức đó còn cao hơn nữa, ngay cả với gia đình…

Người phụ tá cúi chào.

Thật vậy, thưa ông! Sáng hôm nay, tôi không hề nói một lời về lá thư với vợ tôi.

Bản thân phu nhân liệu có đoán ra không?

Không, cô ấy không thể đoán được. Thêm vào đó, không thể có ai đoán được.

Trước đây, có khi nào ông bị mất tài liệu không?

Không, thưa ông.

Có ai ở nước Anh biết lá thư này không.

Các thành viên của nội các đã được thông báo về lá thư. Nhưng việc yêu cầu giữ bí mật được Thủ tướng nhấn mạnh bằng lời cảnh cáo nghiêm khắc. Nhưng ai mà ngờ rằng chỉ vài giờ sau đó, chính tôi đã làm mất nó.

Sự tuyệt vọng đã làm cho khuôn mặt của người phụ tá thay đổi nhiều. Ông vò đầu ân hận. Trong khoảnh khắc hiện ra trước chúng tôi là những tm chân chính của một con người bồng bột, nhiệt thành. Tuy nhiên, ngay sau đó cái nét kiêu kỳ lại hiện lên trên khuôn mặt ông ta. Với giọng điềm tĩnh, ông tiếp:

Ngoài các thành viên của nội các còn có hai hoặc ba quan chức của ban biết sự hiện diện của bức thư. Còn ngoài ra, trong cả nước Anh, không một ai biết.

Thế còn ở nước ngoài?

Ở nước ngoài, tôi cũng tin là không một người nào biết lá thư, trừ tác giả của nó. Ngay cả các bộ trưởng của quốc gia đó cũng không biết.

Holmes ngẫm nghĩ ít phút rồi nói:

Bây giờ, tôi cần biết cái gì ở đằng sau tài liệu? Vì sao việc lấy lá thư sẽ đem tới những hậu quả nghiêm trọng?

Hai nhà hoạt động chính trị nhìn nhau rất nhanh.

Thủ tướng chau mày:

Bức thư nằm trong phong bì màu xanh da trời, dài và hẹp. Dấu đóng trên xi màu đỏ có hình sư tử đang ở thế tiến công. Địa chỉ được viết bằng những nét cứng và đậm…

Những chi tiết này tất nhiên là rất thú vị và quan trọng – Holmes ngắt lời Thủ tướng – Có điều tôi cần biết về nội dung của lá thư. Lá thư nói về chuyện gì?

Đó là bí mật quốc gia. Tới e không thể trả lời ông được hơn nữa, tôi chưa rõ điều ông hỏi cần thiết ở chỗ nào. Nếu bằng tài năng hiếm thấy như người ta thường nói về ông, thì ông sẽ có thể tìm được chiếc phong bì cùng với lá thư ở trong đó. Ông sẽ xứng đáng với lòng biết ơn của đất nước, và sẽ nhận bất kỳ phần thưởng nào mà khả năng chúng ta cho phép.

Holmes mỉm cười và đứng dậy:

Tất nhiên ngài là một trong những người bận rộn nhất nước. Nhưng nghề nghiệp đã tước mất khá nhiều thời gian của tôi. Rất tiếc là trong công việc này, tôi không hữu ích cho ngài, và tôi coi sự tiếp x trò chuyện giữa chúng ta là sự tiêu phí thời giờ vô ích.

Thủ tướng nhổm phắt dậy. Trong đôi mắt sâu của ông lóe lên một ngọn lửa:

Tôi không quen… Thưa ông! – Ông bắt đầu nói. Tuy nhiên sau khi tự trấn tĩnh được, ông lại ngồi xuống. Chúng tôi ngồi im lặng đến một phút. Sau đó ông siết chặt lấy vai mình

Ông Holmes, ông hoàn toàn đúng. Thật là vô lý nếu chờ đợi sự giúp đỡ của ông mà chưa tin ông.

Tôi tán thành với ngài! – Nhà ngoại giao trẻ tuổi nói.

Được, tôi sẽ nói cho ông nghe tất cả. Tôi tuyệt đối trông cậy vào lòng trung thành và lòng yêu nước của các ông.

– Ngài có thể hoàn toàn tin vào chúng tôi.

Chuyện thế này, đó là bức thư của một vị nguyên thủ nước ngoài. Ông ta tỏ ra lo ngại bởi sự mở rộng thuộc địa gần đây của nước ta. Bức thư được viết vào giây phút bực bội. Sự tìm hiểu tin tức đã chỉ rõ rằng các bộ trưởng của ông cũng không hay biết gì về lá thư. Lời lẽ trong thư rất gay gắt, một vài câu mang tính khiêu khích. Vì vậy, nếu lá thư được công bố, dư luận sẽ xao động, đất nước chúng ta sẽ bị cuốn hút vào một cuộc chiến tranh lớn.

Holmes viết tên một người trên mảnh giấy và đưa cho Thủ tướng coi.

Ông ta đấy. Bức thư có khả năng cuốn theo nó những chi phí khổng lồ, sự hủy diệt hàng trăm nghìn người – Thủ tướng nói.

Ngài đã báo tin cho người viết lá thư chưa?

Báo rồi. Bức thư viết bằng mật mã và được chuyển đi.

Nhưng rất có thể ông ta đã tính đến chuyện công bố lá thư?

Không. Chúng tôi có cơ sở để tin rằng ông ấy đã hiểu được tính thiếu thận trọng và sự bồng của mình.

Việc công bố lá thư là quả đấm mạnh sẽ giáng vào ông ta. Nếu vậy, người ta đánh cắp nó để làm gì?

Ông Holmes, thế là ông buộc tôi phải nói tới tình hình chính trị thế giới. Ông đã thấy châu Âu là một trại lính được vũ trang. Có hai liên minh cân bằng về lực lượng đang tồn tại. Nước Anh thi hành chính sách trung lập. Nếu chúng ta bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh với một liên minh thì liên minh kia sẽ có ưu thế hơn. Hơn thế, điều này không phụ thuộc vào việc liên minh thứ hai có tham gia hay không tham gia vào cuộc chiến…

– Vậy là những kẻ thù của vị này, những người muốn thấy có sự hiềm khích giữa ông ta với chúng ta, rất quan tâm đến lá thư?

Đúng vậy.

Nếu tài liệu rơi vào tay đối phương thì ai có thể chuyển nó đến bất cứ chính phủ nào ở châu Âu. Rất có thể hiện giờ bức thư đang lao đi với tốc độ chỉ có tàu thủy mới đuổi kịp? Người phụ tá đứng cúi đầu với một tâm trạng nặng nề. Thủ tướng nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông ta:

Nỗi bất hạnh đã xảy ra với ông bạn của tôi. Không ai có ý định kết tội ông đâu. Chúng ta sẽ áp dụng mọi biện pháp để phòng ngừa… Bây giờ, ông khuyên chúng tôi nên làm gì?

Holmes lắc đầu buồn rầu:

Thưa ngài! Nếu tài liệu này không được hoàn lại thì chiến tranh sẽ xảy ra?

Chắc chắn như vậy!

Nếu vậy, hãy chuẩn bị cuộc chiến thôi?

Đây là những lởi tàn nhẫn, ông Holmes.

Hãy chú ý đến sự thật, thưa ngài. Tôi không tin là bức thư bị mất sau 12 giờ khuya đâu. Vì từ lúc ấy cho đến khi phát hiện ra, ông Hope và phu nhân đều ở trong phòng ngủ. Thế nghĩa là tài liệu bị mất vào tối qua trong khoảng từ 7 giờ rưỡi tới 12 giờ, bởi kẻ cắp khi ở đâu, tất nhiên hắn sẽ gắng đoạt lấy nó sớm nhất. Còn nếu tài liệu bị mất vào hôm qua thì hiện giờ nó ở đâu? Kẻ cắp đã nhanh chóng chuyển cho người đang quan tâm. Vậy thì chúng ta còn có cơ hội nào để tóm được hắn hoặc lần ra dấu vết của hắn trên đất nước của chúng ta.

Thủ tướng đứng dậy:

– Ông lập luận rất logic. Tôi thấy quả thực không nên làm gì ở đây nữa.

Ví như chúng ta cho rằng người hầu ăn cắp tài liệu?

Họ là những gia nhân quen thuộc và đáng tin cẩn.

Phòng ngủ ở gác ba và không có lối riêng ăn thông ra ngoài phố. Vậy thì không ai có thể trèo lên cửa trước của căn phòng mà không bị để ý. Nghĩa là có một người nào đó ở trong nhà đã phạm tội. Kẻ cắp có thể chuyển nó cho ai? Chỉ có thể chuyển cho một trong những điệp viên quốc tế mà tôi biết rõ tên của họ. Ba người có thể nói là cầm đầu bọn này. Tôi sẽ bắt đầu tìm xem một trong số ba người đó. Nếu một người nào đó trong bọn họ đã đi khỏi thành phố và nhất là đã ra đi vào chiều hôm qua thì chúng ta sẽ biết tài liệu này biến đi đâu.

Vì sao người đó phải ra đi? – Người phụ tá hỏi – Hắn có thể mang bức thư tới một đại sứ quán nào đó ở London chứ?

Các điệp viên này thường có những quan hệ rất căng thẳng với các đại sứ quán.

Thủ tướng gật đầu khẳng định điều đó:

Tôi nghĩ ông rất có lý. Hắn sẽ tự tay mình mang lá thư. Kế hoạch hành động của ông, tôi cảm thấy tuyệt đối chính xác. Tuy nhiên, ông Hope, ông đừng vì chuyện này mà quên đi những trách nhiệm khác của chúng ta.

Các vị khách cúi chào rất trân trọng rồi rời khỏi căn phòng.

Holmes bắt đầu im lặng. Thời gian trôi đi. Anh mê mải với những suy tưởng của mình. Tôi giở các báo buổi sáng đọc bài nói về một tội ác vừa xảy ra vào chiều hôĐột nhiên, bạn tôi nhổm phắt dậy, đặt tẩu thuốc lên lò sưởi, kêu lên:

Đúng. Tình thế rất căng thẳng nhưng chưa hết hy vọng. Bây giờ cần biết ai là kẻ ăn cắp. Suy cho cùng, chỉ có tiền mới làm bọn hắn quan tâm. Ngân khố của nhà nước sẽ giúp tôi. Nếu hắn bán, tôi sẽ mua… Rất có thể hắn còn giữ bức thư. Hắn cần biết ở đây người ta trả giá bao nhiêu trước khi đem bán ở nước ngoài. Chỉ ba người có khả năng dự vào trò chơi này. Đấy là Oberstein, La Rothiere, và Eduardo Lucas. Tôi sẽ tới thăm họ.

Tôi liếc vào tờ báo buổi sáng.

Eduardo Lucas ở phố Godolphin phải không ?

Đúng rồi.

Anh không thể tới thăm hắn ta được?

Tại sao?

Hắn đã bị giết rồi.

Holmes sửng sốt, dán mắt vào tôi, vẻ hoài nghi. Sau đó anh giật lấy tờ báo.

“Vụ giết người ở Westminster.

Chiều hôm qua, tại ngôi nhà số 16 phố Godolphin, đã xảy ra một án mạng. Phố Godolphin là một trong những con đường yên tĩnh trải dài giữa dòng sông và tu viện Westminster. Phần lớn những ngôi nhà ở đây được xây vào cuối thế kỷ XVIII. Ông Eduardo Lucas nổi tiếng trong xã hội như một người dễ mến, một trong những giọng hát nam cao được ưa chuộng nhất. Ông đã sống nhiều năm liền tại một biệt thự nhỏ trên phố này. Ông 34 tuổi, chưa lập gia đình. Người hầu của ông gồm người quản gia, bà Pringle và người hầu Mitton. Bà Pringle thường không làm vào buổi chiều. Bà ta lên phòng mình ở gác thượng rất sớm. Còn chiều hôm đó, người hầu đi thăm một người bạn ở Hammersmith.

Từ 10 giờ, ông Lucas ở một mình trong ngôi nhà. Cho tới bây giờ, chưa ai rõ chuyện gì đã xảy ra trong thời gian ấy. Nhưng lúc 12 giờ kém 15, viên cảnh sát tuần tra Barrett khi đi tuần qua phố Godolphin, thấy cửa ngôi nhà số 16 bị mở toang. ông gõ cửa, nhưng không có tiếng, ông bước vào hành lang và gõ cửa một lần nữa. Vẫn không có ai trả lời. Khi đó ông đẩy cửa bước vào.

Căn phòng rất hỗn độn. Tất cả đồ gỗ bị xê dịch về một phía, một chiếc ghế nằm lỏng chỏng ở ngay giữa nhà. Chủ nhà nằm cạnh chiếc ghế. Ông bị giết bằng một nhát dao xuyên thẳng vào tim. Vũ khí giết người là con dao găm Ấn Độ được lấy từ bộ sưu tập vũ khí phương Đông trang trí trên một bức tường của căn phòng. Kẻ giết người không phải với mục đích ăn trộm, bởi vì toàn bộ đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên vẹn.

Ông Eduardo Lucas là một người danh tiếng. Cái chết này đã gây ra nỗi đau xót cho các thân hữu của ông”.

Watson, anh nghĩ gì về chuyện này?

Một sự trùng hợp kỳ lạ!

Một trong số ba người có khả năng tham dự vào tấn kịch này đã bị chết. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ! Không. Hai sự việc này chắc chắn có liên quan với nhau, chúng ta phải tìm cho ra mối liên hệ này.

Nhưng rồi cảnh sát sẽ biết tất cả.

Không. Họ chỉ biết những gì mà mọi người đều biết ở phố Godolphin thôi? Chỉ có chúng ta mới rõ cả hai trường hợp. Có một điểm làm cho tôi nghi ngờ Lucas. Phố Godolphin, Westminster chỉ nằm cách Whitehall Terrace vài bước đi bộ. Những điệp viên khác thì sống ở cuối West End. Cho nên, Lucas dễ nhận được tin từ nhà ông phụ tá hơn những người kia. Đây là điểm nhỏ, nhưng nếu tính đến sự khai triển với tốc độ nhanh thì nó có thể biến thành điểm chủ yếu. A! Lại có điều gì mới chăng!

Bà Hudson xuất hiện, mang chiếc khay trên có một tấm danh thiếp phụ nữ. Holmes nhìn bà, nhíu lông mày và chuyển cho tôi.

– Hãy mời phu nhân Hilda Trelawney Hope vào. – Holmes nói.

Chỉ một thoáng sau, một trong những người phụ nữ đẹp nhất London bước vào căn hộ chúng tôi. Tôi thường nghe nói về vẻ đẹp của người con út của công tước

Belminster, nhưng không một sự mô tả nào có thể truyền đạt được vẻ duyên dáng của bà. Tuy nhiên, vào buổi sáng mùa thu này, vẻ đẹp của bà conét gì khang khác; khuôn mặt bà lấp lánh, nhưng ánh mắt đỏ như đang lên cơn sốt. Cái miệng tình tứ khép chặt lại. Bà đang cố gắng tự trấn tĩnh.

Chồng tôi đã ở chỗ ông, phải không, ông Holmes?

Vâng.

Ông Holmes, tôi van ông, ông đừng nói cho chồng tôi biết là tôi đã đến đây. Holmes cúi chào lạnh nhạt:

Vẻ lộng lẫy của bà đặt tôi vào một tình huống rất khó xử. Mời bà ngồi xuống đây và nói cho tôi biết bà cần gì. Song đáng tiếc là tôi không thể đem lại những lời hứa – Holmes nói.

Ông Holmes. Tôi biết là ở tại nhà chúng tôi có một tài liệu nào đó đã bị thất lạc. Nhưng vì nó đụng đến vấn đề chính trị nên chồng tôi không nói gì với tôi. Tôi van ông, ông giải thích cho tôi biết cái gì đã xảy ra và hậu quả nó như thế nào?

Bà đã đòi hỏi ở tôi cái điều vượt quá khả năng của tôi .

Bà ta thở dài rồi lấy tay ôm mặt.

Bà cần hiểu tôi hơn, thưa bà! Nếu chồng bà đã không cho bà biết việc này thì bà tìm hiểu làm chi? Thậm chí bà cũng không nên hỏi nơi tôi. Bà nên hỏi chồng bà.

Tôi đã hỏi anh ấy. Thôi, nếu ông không muốn nới thì thôi Nhưng mong ông vui lòng trả lời một câu hỏi khác.

Câu hỏi như thế nào.

– Do vụ này, sinh mạng chính trị của chồng tôi có bị tổn thất không?

Nếu công việc không được thu xếp ổn thỏa thì nó sẽ dẫn tới các hậu quả nghiêm trọng.

Bà thở dài.

Những hậu quả ấy như thế nào?

Tôi không đủ sức trả lời câu hỏi này.

Nếu thế, tôi sẽ không làm phí thời giờ của ông nữa. Tôi thực lòng muốn chia sẻ sự lo lắng với chồng tôi. Một lần nữa, yêu cầu ông đừng nói với chồng tôi về chuyện gặp gỡ hôm nay.
Đến ngưỡng cửa, bà ngoảnh đầu lại và một lần nữa tôi nhìn thấy khuôn mặt đẹp, xúc động, đôi mắt lo sợ và cái miệng xinh xắn mím chặt lại. Sau đó bà biến mất.

Watson này, phái đẹp là một phần của cuộc đời anh – Holmes vừa cười vừa nói khi cánh cửa được đóng mạnh lại và tiếng sột soạt của váy phụ nữ đã im bặt – Người đàn bà này muốn gì đây?
Bà ta lo sợ cho chồng là điều dĩ nhiên.

Hãy hình dung lại khuôn mặt bà ta: nỗi lo sợ mất bình tĩnh và lòng kiên nhẫn.

Đúng, bà ấy rất lo lắng.

Đồng thời bà đã cố gắng thuyết phục chúng ta tin rằng bà ta hành động chỉ xuất phát từ lợi ích của chồng mình, và vì vậy bà ta cần biết hết thảy mọi chuyện. Qua việc đó bà ta muốn nói gì? Có lẽ anh cũng nhận ra là bà đã cố ý ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Bà không muốn để chúng ta nhìn thấy rõ mặt bà.

Đúng vậy, bà ấy đã ngồi chính chỗ này.

Nói chung, đàn bà thật khó hiểu. Rất nhiều điều được che đậy ở đằng sau các hành vi bình thường nhất của đàn bà mà thôi. Chào Watson nhé!

Anh đi à?

Vâng. Tôi đến phố Godolphin vì vụ Lucas để một chút manh mối nào đó. Anh hãy tiếp khách giùm tôi nhé.

Suốt ngày hôm đó và hai ngày tiếp theo, Holmes im lặng như những hạt gạo. Anh đi, rồi lại về, hút thuốc liên miên, kéo vi-ô-lông với những giai điệu du dương, hay trầm ngâm nghĩ, ăn bánh sandwich bất kỳ lúc nào và trả lời nhát gừng các câu hỏi của tôi. Tôi hiểu anh chưa đem lại kết quả. Anh không hề kể cho tôi nghe về điều gì. Chỉ qua báo chí, tôi mới được biết người ta bắt giữ John Mitton, gia nhân của người quá cố.

Cuộc điều tra đã xác minh đây là vụ giết người có chủ tâm từ trước, thế nhưng vẫn chưa tìm ra được động cơ phạm tội. Trong phòng có nhiều vật dụng giá trị, nhưng không mất một thứ nào. Giấy tờ của người quá cố cũng không bị đụng đến. Người ta xem xét chúng tỉ mỉ và xác nhận người quá cố rất quan tâm đến tình hình thế giới. Ông ta quen biết những nhà hoạt động chính trị danh tiếng của một vài nước. Có điều trong các tài liệu chất đầy ngăn bàn ông ta, không tìm thấy cái gì đáng quan tâm. Đối với phụ nữ, ông ta quen nhiều nhưng không yêu một ai. Cái chết của ông còn là một câu hỏi bí ẩn.

Việc tạm giam người hầu Mitton cũng chỉ là biểu hiện của sự bế tắc. Không có yếu tố chống lại anh ta. Chứng cớ ngoại phạm rất đầy đủ. Vào chiều hôm đó, Mitton đi thăm bạn bè ở Hammersmith và về tới nhà lúc 12 giờ. Tuy nhiên, anh đã thực sự xúc động trước tấm thảm kịch bất ngờ. Mitton luôn có quan hệ thân tình với chủ nhà. Một vài vật dụng của người quá cố – ví như hộp dao cạo râu – được tìm thấy trong va-li của người hầu, nhưng anh nói rõ đấy là quà của ông chủ. Bà quản gia cũng đã khẳng định điều này. Mitton phục vụ trong nhà Lucas được ba năm. Đáng lưu ý là Lucas không bao giờ cho Mitton cùng đi với mình ra nước ngoài. Đôi khi ông sống liên tục ở Paris suốt ba tháng liền, thế mà vẫn để Mitton ở lại trông nom nhà cửa.

Theo báo chí thì đã ba ngày rồi, các bí mật vẫn còn nguyên. Mặc dầu Holmes biết nhiều hơn báo chí, song anh vẫn không kể cho tôi nghe điều gì cả. Chỉ có một lần, nhân câu chuyện hàng ngày, anh có nói rằng thanh tra Lestrade đã đưa anh vào thực chất của vấn đề. Do vậy tôi hiểu anh đã nắm bắt được nhiều tin tức mới. Bước sang ngày thứ tư, có một bức điện dài từ Paris chuyển đến:

Báo “Daily Tétégraph” viết:

“Cảnh sát Paris đã vén bức màn bí mật về cái chết của ông Eduardo Lucas.

Bạn đọc còn nhớ rằng thi thể của ông được phát hiện ra trong căn phòng cùng với con dao găm, rằng mối ngờ vực đã đổ xuống đầu người hầu phòng, song anh ta đã chứng minh được tình trạng ngoại phạm

Hôm qua, gia nhân của bà Henri Fournaye, người đang sống ở Paris, tại đường Auterlitz, đã nói với cảnh sát rằng bà chủ của mình bị điên. Các khám nghiệm đã chứng tỏ rằng bà ta thực sự mất trí. Trong lúc điều tra, cảnh sát xác minh là vào thứ ba vừa rồi, bà ta trở về sau chuyến đi tới London. Có nhiều cơ sở cho rằng chuyến đi này có liên quan đến án mạng tại Westminster. Sự đối chiếu các bức ảnh cho phép khẳng định chồng bà, ông Henri Fournaye và ông Eduardo Lucas chỉ là một, và không rõ vì sao người quá cố đã sống hai cuộc đời ở London và ở Paris.

Bà Fournaye là người gốc Âu Mỹ, có tính cách rất dễ bị kích động, do vậy thường không hoàn toàn làm chủ được mình. Đây có thể là nguyên nhân của bi kịch đã xảy ra

London. Sáng thứ ba, có một người đàn bà rất giống bà ta đứng trên sân ga Charing Cross với tâm trạng bị kích động mạnh. Cho nên, rất có thể chồng bà chết là do bà gây ra trong cơn điên loạn, hoặc cái chết ấy đã tác động đến bà, khiến bà bị mất trí, vẫn chưa có hy vọng bà sẽ khỏi bệnh. Có nhiều tin tức cho hay rằng vào chiều thứ hai có một người đàn bà nào đó – có thể là bà Fournaye, – đã đứng quanh ngôi nhà trên đường Godolphin chừng vài tiếng đồng hồ…”.

Tôi đọc bức điện cho Holmes nghe khi anh dùng xong bữa điểm tâm.

Anh Watson, anh là người kiên nhẫn vô cùng. Ba ngày vừa rồi tôi chưa kể điều gì cho anh nghe, chỉ vì không có gì để kể. Ngay bây giờ các tin tức từ Paris vẫn chưa

giúp chúng ta bao nhiêu.

Thế nhưng cái chết của người ấy hiện giờ đã hoàn toàn được sáng tỏ.

Cái chết ấy chỉ là một phần rất nhỏ so với nhiệm vụ của chúng ta. Chúng ta phải tìm cho được bức thư và cứu châu Âu ra khỏi thảm họa chiến tranh. Trong ba ngày vừa qua, chỉ có một sự kiện đáng lưu ý là: chưa có cái gì xảy ra cả. Khắp châu Âu chưa có dấu hiệu bất an. Lẽ nào bức thư bị thất lạc… Nếu nó chưa bị thất lạc thì hiện giờ nó ở đâu? Tại sao người ta lại cất giữ nó? Phải chăng Lucas bị giết đúng vào cái buổi tối bị mất lá thư? Nói chung, bức thư có ở chỗ hắn ta hay không? Nếu có, thì vì lẽ gì lại không tìm thấy nó? Tại sao người vợ điên loạn của Lucas lại không mang nó theo mình? Nếu bà ta mang lá thư đi thì vì lẽ gì nó không có ở chỗ bà tại Paris? Tôi có thể tìm nó ở đấy mà không làm cho cảnh sát Phá được chăng? Nếu như tôi thành công trong việc này thì nghề nghiệp của tôi sẽ kết thúc một cách hiển hách… À đây rồi. Cái tin tức mới nhất từ những cảnh sát tiên phong – Anh liếc nhanh vào mẫu thư chuyển cho anh – A ha! Hình như Lestrade đã tìm ra một điều gì thú vị sao đó Watson, chúng ta cùng đi đến Westminster.

Trước tiên, chúng tôi đến nơi xảy ra án mạng. Đó là ngôi nhà cao, mặt tiền hẹp, trông không đẹp lắm. Khuôn mặt Lestrade lấp ló qua cửa sổ. Viên cảnh sát mở cửa ra và ông ta thân mật chào chúng tôi.

Căn phòng chúng tôi bước vào chính là nơi Lucas bị giết, có điều giờ đây dấu tích của tội ác không còn nữa, ngoài vết máu hiện rõ trên tấm thảm. Chiếc thảm là một miếng nỉ dày, hình vuông. Bộ sưu tập vũ khí nổi tiếng treo lơ lửng trên lò sưởi.

Ông đã được nghe những tin tức mới từ Paris chưa? – Lestrade hỏi. Holmes gật đầu.

Lần này các bạn Pháp đã nói trúng cái điều cần thiết. Vụ giết người tất nhiên đã diễn ra đúng như họ trình bày. Vợ ông ta gõ cửa và ông ta đưa bà vợ vào nhà. Bà ấy đã kể cho ông ta nghe là đã tìm thấy ông ta bay bướm như thế nào, rồi sau đó mắng sa sả vào mặt chồng. Sau đấy, nhân có con dao găm trong tay, bà nhanh chóng đi đến kết thúc. Mọi chuyện diễn ra cố nhiên phải ngay một lúc vì tất cả chiếc ghế được chất thành đống. Một chiếc ghế nằm trong tay ông ta, hình như ông ta có dùng chiếc ghế này để tự vệ.

Holmes nhướn lông mày:

Ông có tin tức gì cho tôi đấy?

Ồ, đây là chuyện khác, một chuyện đáng khả nghi.

Chuyện gì !

Sau khi được báo tin, chúng tôi đến đây, cẩn thận canh giữ hiện trường; đồ đạc được giữ nguyên như cũ. Sáng hôm nay, sau khi người chết đã được mai táng và việc xem xét căn phòng này đã kết thúc, chúng tôi cho thu dọn đồ đạc trong phòng, xếp lại cho nó ngăn nắp. Và tấm thảm này nó không được dính chặt xuống nền nhà mà chỉ đặt sơ sài trên đó. Vô chúng tôi nâng nó lên và tìm thấy…

Thấy? Thấy cái gì? …

Sự quan tâm hiện rõ trên khuôn mặt Holmes.

Ồ! Ông có nhận ra vết máu trên tấm thảm này không? Quả thật phải có một lượng máu đáng kể mới thấm qua tấm nỉ như thế này.

Phải.

Hãy hình dung rằng trên sàn ván, ở chỗ ngay tấm thảm đặt lên mà lại không có một dấu máu nào.

Không có dấu máu? Sao vậy? Phải có chứ?

– Đúng như ông nghĩ. Vậy mà nó không có, mới là kỳ lạ ông ta khẽ nâng rìa tấm thảm lên. Và chúng tôi thận thấy trên sàn ván, nơi tiếp xúc với tấm thảm, không có vết máu.

Thế nhưng, mặt dưới của tấm thảm cũng bị vấy máu nhiều như ở mặt trên kia mà. Phải có một mặt nào đó lưu lại dấu vết trên sàn nhà chứ!

Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của người chuyên gia nổi tiếng, Lestrade cười hì hì khoái trá:

– Vết máu trên sàn ván cũng có đấy, nhưng nó không nằm ở vị trí đó. Hãy nhìn coi?

Vừa nói, ông ta khẽ lật phía điểm khác của tấm thảm lên. Quả thật trên những ô vuông sáng bóng của sàn ghép gần phía cánh cửa, chúng tôi nhìn thấy một vệt đỏ loang lổ.

Ông nói gì về điều này, ông Holmes?

Ở đây mọi chuyện thật đơn giản. Hai vết máu vẫn hoàn toàn trùng lên nhau. Nhưng tấm thảm đã bị lật trở lại Vì rằng tấm thảm hình vuông và không được ghìm chặt xuống nền nhà nên chuyện đó là rất dễ.

Ông Holmes, chuyện đó hoàn toàn hiển nhiên. Nếu đặt tấm thảm y vào vị trí cũ thì vết bẩn, một ở mặt trên tấm thảm và một ở trên sàn ván, bắt phải chồng lên nhau. Còn tôi xin hỏi ông: Ai đã lật tấm thảm lên? Và người ấy lật lên để làm gì?

Holmes cố gắng kiềm chế nỗi xúc động đang xâm chiếm lấy mình.

Ông Lestrade! Người cảnh sát đứng ở hành lang luôn luôn trực ở đây, phải không?

Vâng.

Tôi khuyên ông thế này vậy: Hãy hỏi hắn đến nơi đến chốn. Nhưng chúng tôi sẽ không chứng kiến. Chúng tôi chờ ở đây. Hãy nói vì sao hắn dám cả gan cho một người nào đó vào đây và để cho người ấy ở lại một mình trong phòng này. Hãy nói với hắn là ông đã biết rõ như vậy. Hãy đe dọa hắn. Hãy nói rằng chỉ có sự thú thực mới có thể giúp hấn chuộc lỗi lầm.

– Tôi thề là tôi sẽ ép hắn đến cùng.

Ông chạy vào phòng bên cạnh. Chỉ sau một phút, chúng tôi đã thấy tiếng quát tháo ầm ĩ.

– Mau lên. Watson mau lên – Holmes cuống quít.

Tất cả sức lực siêu nhiên trong người Holmes đột ngột trỗi dậy. Anh lật tấm thảm lên, quỳ xuống bắt đầu lần từng ô vuông gỗ lát sàn dưới chân mình. Một ô vuông đã văng ra. Đó là một nắp hộp nhỏ, phía dưới có một lỗ tối om. Holmes thọc tay vào đó. Thế nhưng, sau khi lôi chiếc hộp ra, anh bắt đầu rên lên vì buồn bực và thất vọng, chiếc hộp trống không.

– Nhanh lên Watson! Hãy đặt nó vào chỗ cũ!

Chúng tôi vừa kịp giấu chiếc hộp và đặt tấm thảm lên thì đã nghe thấy giọng của Lestrade ở ngoài hành lang. Khi ông ta bước vào, Holmes đã tựa vào lò sưởi với vẻ ngạo mạn, phớt đời.

Xin lỗi, không biết điều gì đã giữ chân ông ở lại đây, ông Holmes! Tôi thấy những chuyện này đã làm ông ngán đến tận cổ rồi. Cuối cùng hắn phải thú nhận! MacPherson, vào đây!

Một cảnh sát to lớn, mặt đỏ ửng rón rén bước vào căn phòng

Chiều hôm qua một người đàn bà trẻ tuổi rẽ vào đây. Bà nói bà bị lầm nhà. Chúng tôi có trò chuyện với nhau một chốc. Suốt ngày đứng một mình ở đây quả có buồn thật.

Được rồi Vậy chuyện gì đã xảy ra?

Bà ta muốn coi tận mắt vụ giết người mà báo chí đã đưa tin. Đó là một người đàn bà trẻ trung và đứng đắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng sẽ không có gì xấu xa, nếu tôi đưa bà ta vào xem. Nhưng sau khi trông thấy vết bẩn trên tấm thảm, bà ta đã ngã quỵ xuống, nằm bất động như một người chết. Tôi chạy ùa vào bếp, mang nước ra, thế nhưng vẫn không làm sao cho bà ấy tỉnh lại; tôi lại chạy ra tận góc phố Ivy Plant, mua một chai brandy. Nhưng lúc tôi bước vào phòng thì bà ta đã tỉnh dậy và đi ra. Có lẽ bà xấu hổ khi gặp lại tôi.

Thế không có ai đụng vào tấm thảm chứ?

Khi tôi quay lại, tấm thảm có bị xê dịch chút xíu, bởi vì bà ta ngã lên nó mà. Thêm vào đó, tấm thảm lại không được đóng chặt xuống nền nhà. Sau đấy, tôi đặt nó ngay ngắn trở lại.

Đó là bài học cho ông đấy, cảnh sát MacPherson ạ, không lừa nổi tôi đâu – Lestrade nói với vẻ quan trọng – Chắc ông nghĩ rằng việc đó sẽ không bị phát hiện. Thế mà tôi chỉ cần ném một cái nhìn vào tấm thảm là tôi lập tức hiểu ngay là đã có một ai đó rẽ vào căn phòng này. Thật may cho ông, là đã không mất gì cả ông chỉ phải mang tiếng xấu thôi! Ông Holmes, rất tiếc là tôi gọi ông tới đây vì cái trò nhảm nhí này. Thế nhưng tôi cho rằng cái vết máu thứ hai cái vết không trùng lên vết thứ nhất sẽ khiến ông thích thú.

Cố nhiên…

Ông cảnh sát, người đàn bà ấy vào đây chỉ một lần thôi sao?

Vâng chỉ một lần.

Tên bà ta là gì.

Tôi không biết. Bà ta nói là đi tìm việc làm, nhưng nhầm số nhà. Bà ta rất lịch thiệp và thoải mái.

Bà ấy có cao không? Có đẹp không?

Vâng bà ta hơi cao. Cũng có thể nói là bà ta đẹp, thậm chí rất đẹp. “Ôi ! Ông sĩ quan, xin hãy cho phép tôi liếc nhìn một chút xíu thôi!”. Phong thái bà ta dễ coi và dễ thương như thế nên tôi khó lòng từ chối.

Bà ấy ăn mặc ra sao?

Áo choàng dài phủ đến tận gót.

Chuyện đó xảy ra từ lúc mấy giờ?

Khi tôi từ tửu quán quay trở lại, thì đèn phố đã được bật sáng.

Rất tiếc! Ta đi thôi, Watson!

Chúng tôi bước ra, Lestrade ở lại trong phòng. Viên cảnh sát chạy ra, mở rộng cửa cho chúng tôi với vẻ hối hận. Holmes quay lại, đứng ở ngưỡng cửa, đưa ra một cái gì đó. Viên cảnh sát chăm chú nhìn.

– Trời ơi! – Ông ta kinh ngạc kêu lên.

Holmes đặt ngón tay lên môi rồi nhét vật đó vào túi. Anh cười khanh khách, khi chúng tôi bước ra ngoài đường.

Thật tuyệt vời. Ta đi nào! Bức màn đang được vén lên. Chiến tranh sẽ không thể xảy ra được. Danh vọng chói lọi của bá tước sẽ không bị lu mờ. Vị nguyên thủ thiếu cẩn trọng kia sẽ ngủ ngon, Thủ tướng sẽ không phải tháo gỡ tình hình phức tạp ở châu Âu. Lòng tôi tràn ngập niềm khâm phục đối với con người đáng khâm phục này.

Anh đã giải bài toán ra sao?

Bây giờ thì chưa. Chúng ta sẽ đi thẳng tới Whitehall Terrace và sẽ kết thúc công việc.

Khi đến nhà ông phụ tá, Holmes nói rõ là anh muốn gặp phu nhân Hilda Trelawney Hope. Chúng tôi được đưa ngay vào phòng khách.

Ông HolmesBà ta nói, mặt ửng hồng lên vì giận dữ – ông không cao thượng chút nào. Tôi đã nói là tôi muốn giữ bí mật chuyến viếng thăm của tôi, kẻo chồng tôi nghĩ rằng tôi nhúng tay vào công việc của anh ấy. Bằng việc đến đây, ông đã làm tổn hại thanh danh của tôi.

Rất tiếc là tôi không thể làm gì khác, thưa bà. Người ta bảo tôi phải tìm cho ra tài liệu. Tôi đề nghị bà trao nó cho tôi.

Người đàn bà đứng phắt dậy. Đôi mắt của bà mờ đi. Bà ta dao động dữ dội, tôi có cảm giác bà sắp ngất xỉu đi. Nhưng không, bà ta có một nghị lực thật phi thường. Bà ta giận dữ, quát:

Ông đã xúc phạm đến tôi.

Xin hãy nghe đây, thưa bà! Giận dữ cũng vô ích. Hãy đưa bức thư cho tôi. Bà ta lăng xăng chạy tới máy điện thoại.

Người quản lý sẽ đưa tiễn ông.

Đừng gọi, thưa phu nhân Hilda. Nếu bà làm như vậy thì mọi ý định chân thành của tôi nhằm giúp bà sẽ vô ích. Hãy trả lại bức thư cho tôi thì mọi chuyện sẽ được ổn thỏa. Còn nếu bà không nghe, buộc lòng tôi phải tố giác bà.

Bà ta đứng trước chúng tôi, uy nghi và kiêu hãnh, tay không rời khỏi máy điện thoại, nhưng vẫn chưa gọi.

Ông không cao thượng đâu, ông Holmes ạ. Ông nói là ông biết một điều gì đó, vậy ông biết điều gì?

Thưa bà, xin bà hãy ngồi xuống. Bà sẽ bị thương nếu bà ngã. Tôi sẽ không nói chừng nào bà chưa ngồi. Vâng, xin cám ơn bà!

Ông Holmes, tôi cho ông năm phút.

– Chỉ một phút thôi. Tôi biết bà đến gặp Eduardo Lucas, đưa lá thư cho hắn ta. Tôi cũng biết chiều hôm qua, bà lại vào căn phòng của hắn ta, lấy lại lá thư bên dưới tấm thảm.

Mặt phu nhân Hilda trở nên tái mét. Bà không dám nhìn Holmes. Hơi thở bà nghẹn lại, không nói một lời.

– Ông quẫn trí rồi, ông Holmes… Ông quẫn trí mất rồi! – Cuối cùng bà kêu lên.

Holmes rút từ túi ra một tấm ảnh nhỏ. Trong ảnh là hình một người phụ nữ đã được cắt riêng ra.

Đây là tấm ảnh nhỏ. Tôi cầm theo nó vì tôi cho rằng nó có thể sẽ hữu ích. – Anh nói

Người cảnh sát đã nhận ra bà.

Bà ta thở dài một cách khó nhọc, đầu bà ngã xuống lưng ghế.

Thưa bà! Bà đang giữ bức thư. Tôi không muốn làm bà phiền muộn. Nhiệm vụ của tôi sẽ chấm dứt khi tôi hoàn lại lá thư cho chồng bà. Hãy nghe lời khuyên nhủ của tôi.

Cho tới lúc đó, bà vẫn chưa chịu thua.

Ông Holmes, tôi xin nhắc lại với ông rằng ông đang bị một thứ tưởng tượng nào đấy điều khiển.

Holmes đứng dậy khỏi ghế.

Tôi tiếc cho bà, thưa phu nhân Hilda. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được để cứu giúp bà. Nhưng thôi. Tùy bà.

Anh bấm chuông. Viên quản lý bước vào.

– Ông Trelawney Hope có ở nhà không?

– Ông ấy sẽ về đến nhà sau 15 phút nữa, thưa ông.

Holmes liếc nhìn đồng hồ:

– Rất tốt, tôi sẽ chờ.

Đúng lúc viên quản lý khép cửa lại, phu nhân Hilda giang rộng hai tay, phủ phục dưới chân Holmes giàn giụa nước mắt.

Hãy lượng thứ cho tôi, ông Holmes. Xin đừng nói với anh ấy! Tôi yêu anh ấy! Tôi đau lòng nếu làm anh ấy nhiều phiền muộn.

Holmes nâng bà dậy.

Xin cám ơn bà. Thế là vào phút chót, bà đã nghĩ lại. Không nên mất một giây nào nữa. Bức thư đâu?

Bà ta lao đến bàn giấy, mở khóa và rút ra tấm phong bì dài, màu xanh da trời.

Nó đây, ông Holmes…

Chúng tôi cần cho nó vào chỗ cũ. Mau lên! Mau lên! Cái tráp đựng tài liệu đâu?

Trong phòng ngủ.

Mau lên!

Hãy để nó vào đấy.

Một phút sau, bà xuất hiện với cái tráp dẹt.

– Bà có chìa khóa thứ hai không? Mở đi!

Phu nhân Hilda rút ra từ trong người chiếc chìa khóa nhỏ. Tráp được mở. Trong đó, đầy giấy tờ. Holmes đặt chiếc phong bì vào chính giữa, kẹp vào những tài liệu khác. Tráp được khóa và được trở lại phòng ngủ.

Bây giờ chúng ta chuẩn bị tiếp chồng bà. – Holmes nói – Chúng ta còn 10 phút nữa. Tôi sẽ che giấu cho bà, thưa phu nhân Hilda. Trong thời gian còn lại, bà hãy kể cho tôi nghe câu chuyện này đi.

Ôi, ông Holmes! Chặt cánh tay phải của tôi còn dễ hơn là để cho anh ấy đau khổ, dù chỉ một phút thôi. Khắp London này, không thể có người đàn bà nào yêu chồng mình hơn tôi. Tuy vậy, nếu chồng tôi biết rằng tôi phải làm cái điều bắt buộc phải làm, anh ấy vẫn không thể tha thứ cho tôi. Hãy giúp tôi, ông Holmes Hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của anh ấy, tất cả cuộc sống của chúng tôi sẽ sụp đổ hết!

Nhanh lên, thưa bà. Thời gian còn rất ít.

Trước lúc xây dựng gia đình, tôi có lá thư dại dột và thiếu thận trọng. Đó là thư của một cô gái đa cảm đang yêu. Trong thư, không có điều gì xấu xa cả, vậy mà chồng tôi sẽ coi hành vi này là tội lỗi. Nếu như chồng tôi đọc lá thư đó, chắc chắn anh ấy sẽ không còn tin tôi. Nhiều năm đã trôi qua. Tôi ngỡ rằng “chuyện lá thư” đã rơi vào quên lãng. Thế nhưng, đột nhiên Lucas báo cho tôi biết là lá thư đã rơi vào tay ông ta và ông ta có ý định chuyển cho chồng tôi xem. Tôi van nài ông ta, xin ông ta hãy buông tha cho tôi. Ông ta hứa sẽ hoàn lại lá thư nếu tôi mang đến cho ông ta một tài liệu. Ông ta nói tài liệu này hiện chồng tôi đang cất trong tráp đựng các công văn khẩn. Ông ta biết về tài liệu này. Lucas cam đoan với tôi là điều đó không làm tổn hại chút nào tới chồng tôi. Nếu ông ở đó vào địa vị của tôi, ông sẽ làm gì.

Kể tất cả cho chồng bà nghe.

Ôi! Không thể làm như vậy được Tôi đã đánh cắp, ông Holmes à. Tôi lấy khuôn chìa khóa và Lucas làm được chiếc chìa khóa thứ hai. Tôi mở tráp, lấy tài liệu và mang tới phố Godolphin.

Rồi tại đó, chuyện gì đã xảy ra?

Tôi gõ cửa vào giờ hẹn. Lucas ra mở cửa. Tôi đi theo ông ta vào phòng. Cửa được khép hờ. Tôi nhớ rằng khi tôi bước vào nhà thì ở ngoài đường có một người đàn bà nào đó đang đứng. Hai lá thư nhanh chóng được trao nhau. Đúng lúc đó, tôi nghe có tiếng động mạnh ở cạnh cửa và tiếng bước chân vang lên ở hành lang. Lucas nhanh chóng lật tấm thảm lên, nhét tài liệu xuống đó, rồi đặt tấm thảm vào như cũ. Tiếp theo, tôi trông thấy một bộ mặt xám đen ngây dại và nghe giọng đàn bà quát mắng bằng tiếng Pháp: “Sự chờ đợi của tao quả không vô ích. Cuối cùng tao đã bắt gặp mày với nó”. Tôi nhìn thấy ông ta cầm chiếc ghế, còn trong tay bà ta lấp loáng một con dao găm. Tôi lao ra khỏi nhà vì khiếp đảm. Chỉ vào sáng hôm sau, nhờ đọc báo, tôi mới biết về vụ giết người đó. Tối hôm ấy tôi rất mừng vì đã đốt xong lá thư thời xa xưa.

Nhưng sáng hôm sau, tôi biết một tai họa khác sắp đổ xuống đầu tôi. Khó khăn lắm tôi mới không quỳ lạy anh ấy. Sáng hôm sau, tôi đến chỗ ông, và đã thấy rõ rằng tình hình nghiêm trọng. Từ giây phút đó, tôi luôn nghĩ là phải hoàn lại tài liệu cho nhà tôi. Tài liệu đang nằm ở chỗ Lucas cất giấu. Nếu bà ta không xuất hiện, tôi không bao giờ biết được nơi cất giấu tài liệu. Phải đột nhập vào căn phòng đó. Nhưng bằng cách nào? Tôi theo dõi ngôi nhà suốt hai cánh cửa không được mở lấy một lần. Mãi tới chiều hôm qua, tôi mới thành công. Tôi đem tài liệu về nhà, quyết định tiêu hủy nó, và sẽ không kể cho anh ấy nghe chuyện gì xảy ra. Bởi vì tôi không biết cách hoàn lại lá thư cho nhà tôi. Ôi! Tôi đã nghe thấy tiếng chân của anh ấy ở ngoài cầu thang rồi.

Ông phụ tá chạy bổ vào phòng, kêu lớn:

Có gì mới không, ông Holmes? Có gì mới!

Có hy vọng!

May quá – Nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên – Thủ tướng đang ăn sáng với tôi. Có thể chia sẻ nỗi hân hoan với ngài được không? Thần kinh của ngài rất vững. Vậy mà ngài hầu như không ngủ được, từ khi xảy ra vụ này. Jacobs! Hãy mời Thủ tướng đến đây. Có gì liên quan tới mình đâu, hỡi em yêu quý!

Cứ theo ánh mắt của Thủ tướng, cứ theo sự cử động dồn dập của đôi tay ông, tôi thấy ông đang chia sẻ nỗi xúc động với người phụ tá của mình.

Ông Holmes, tôi rất hiểu là ông muốn báo cho chúng tôi biết một điều lành?

Sau khi thăm dò tất cả những nơi tôi có điều kiện thăm dò, tôi tin rằng chúng ta không còn gì phải lo ngại.

Nhưng quả là không đầy đủ, ông Holmes. Chúng ta không thể sống mãi trên núi lửa được. Chúng ta cần biết một cách rõ ràng.

Tôi hy vọng sẽ tìm ra bức thư, vì vậy tôi mới đến đây. Càng nghĩ về công việc này, tôi càng tin rằng bức thư không bao giờ vượt ra khỏi ranh giới của ngôi nhà này!

Ông Holmes!

Nếu quả thật nó đã bị mất thì cố nhiên người ta đã công bố nó từ lâu, từ rất lâu rồi. Nhưng vì sao có thể cho rằng bức thư được cất giấu trong ngôi nhà này?

Chúng tôi không tin có kẻ đã lấy nó.

Vậy nó tráp làm sao được?

Tôi cũng không tin là nó đã ra khỏi cái tráp.

Ông Holmes! Bây giờ không phải là lúc để đùa cợt. Tôi cam đoan với ông là trong đó không có lá thư.

Thì ta hãy nhìn lại một lần nữa, xem sao?

Không! Điều đó hoàn toàn vô ích?

Có thể ông không để ý đến nó.

– Không đời nào có chuyện ấy cả.

Ai mà biết được? Những chuyện tương tự như thế vẫn thường xảy ra. Vì ở đây có lẽ còn có những tài liệu khác nữa. Bức thư có thể bị lẫn trong số tài liệu đó.

Bức thư nằm ở trên cùng.

Có thể một ai đấy xóc nó lên và bức thư đã bị dịch chuyển.

Không, không! Tôi đã lấy tất cả ra rồi!

Nhưng có thể dễ dàng kiểm tra lại điều đó, ông Trelawney Hope – Thủ tướng nói – Hãy lệnh mang tráp lại đây!

Ông phụ tá ấn nút chuông.

Jacobs, hãy mang cái tráp đựng giấy tờ của tôi ra đây! Chúng ta sẽ phí thì giờ, nhưng nếu điều đó làm ông hài lòng thì… Chúng tôi sẽ kiểm tra lại. Cám ơn Jacobs, hãy đặt nó xuống đây… Chìa khóa tôi luôn móc theo dây đeo đồng hồ. Đây mọi giấy tờ đây! Ông xem đi. Bức thư của huân tước Merrow, báo cáo của ngài Charles Hardy, bị vong lục từ Belgrade, các tài liệu về thuế lúa mì Đức- Nga, bức thư từ Madrid, bản báo cáo của huân tước Flowers… Trời ơi! Cái gì thế này? Huân tước Bellinger! Huân tước Bellinger!

Thủ tướng giật lấy tấm phong bì màu xanh da trời từ tay người phụ tá.

Đúng, nó đấỳ bức thư còn nguyên vẹn… Xin chúc mừng ông, ông Hope ạ!

Cám ơn ngài. Xin cám ơn ngài! Một sức nặng ghê gớm đã trút khỏi vai tôi ! Thế nhưng không thể hiểu nổi… Ông Holmes, ông là phù thủy! Do đâu ông biết được tài liệu ở đây?

Bởi vì tôi biết rằng đối với nó không ở đâu tốt hơn là ở đây cả.

Tôi không thể tin vào đôi mắt của mình nữa rồi! – Ông lao vút ra khỏi phòng – Vợ tôi đâu rồi? Hilda! Hilda!

Chúng tôi nghe rõ giọng nói của ông vang lên ở ngoài cầu thang.

Ông Thủ tướng nheo nheo đôi mắt, rồi nhìn vào Holmes.

Hãy nghe đây, ông Holmes – Ông nói – Ở đây ẩn giấu một điều gì đó. Bức thư trở lại trong tráp bằng cách nào vậy?

Holmes mỉm cười quay lưng lại để lẩn tránh cái nhìn từng trải của Thủ tướng.

Chúng ta còn có những bí mật xã giao của mình nữa. – Holmes nói, và sau khi cầm lấy mũ, anh bước ra phía cửa…

Hết


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.