Sherlock Holmes Toàn Tập
D.9 – The Adventure of the Three Students 1904 (Ba sinh viên)
Trong năm 1895, Sherlock Holmes và tôi tới ngụ tại một thành phố lớn có nhiều trường đại học. Lúc đó chúng tôi trọ trong một nhà cho thuê có đồ đạc, gần một thư viện, để Holmes nghiên cứu một đề tài mà anh thích. Một buổi tối, chúng tôi tiếp ông Hilton Soames, giám thị và giảng viên tại trường trung học St. Luke.
Thưa ông Holmes, một chuyện rất khổ tâm vừa xảy ra ở St. Luke. Và nếu không có sự may mắn đưa ông tới đây thì không biết xoay sở ra sao.
Tôi đang bận, và mong không bị mất tập trung. Tôi thật lòng muốn ông nhờ tới cảnh sát thì hơn.
Không. Không thể được! Khi luật pháp đã khởi động thì chẳng có cách gì làm cho nó ngừng lại. Mà nhà trường thì không muốn bị mang tai mang tiếng. Ông là người duy nhất có thể giúp chúng tôi, thưa ông Holmes.
Tính nết Holmes đã không khá hơn kể từ khi anh rời bỏ bầu không khí quen thuộc của con đường Baker. Không có những cuốn sách to lớn, những cuộc phân tích hóa học, sự bừa bộn quen thuộc của anh, thì anh không được thoải mái. Vả chăng anh đã nhún vai để bày tỏ một sự không đồng ý. Ngay đó người khách không ngừng tuôn ra những câu nói hối hả.
Thưa ông Holmes, ngày mai bắt đầu cuộc thi lấy học bổng. Tôi là một trong số các giám khảo về môn tiếng Hy Lạp. Tôi chọn đề thi là một bài dịch khá dài mà chưa một thí sinh nào dịch qua. Bản văn được đem đi in. Tất nhiên là thí sinh nào biết được và chuẩn bị bài làm thì sẽ có nhiều hi vọng hơn. Chính vì thế mà chúng tôi luôn luôn giữ thật kỹ.
Hôm nay, vào lúc 3 giờ, các bản in thử được nhà in gửi đến tôi. Tôi phải đọc lại thật cẩn thận để bản văn được hoàn toàn đúng ngữ pháp. Tới 4 giờ rưỡi, tôi vẫn đọc chưa xong. Thế mà tôi lại bận đi dự tiệc ở bên ngoài trường. Tôi để các bản in thử trên bàn giấy và vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Những cánh cửa ở trường là cửa kép: bên ngoài làm bằng gỗ sồi và bên trong là lớp thảm bồi. Khi trở về, tôi ngạc nhiên khi thấy có chìa khóa gắn trong ổ. Thoạt đầu tôi ngỡ là mình để quên chìa khóa! Nhưng tôi lục tìm trong các túi, chìa khóa của tôi vẫn ở trong túi. Cái chìa khóa thứ hai do người hầu của tôi, tên là Bannister giữ. Ông này đã sống với tôi suốt 10 năm và là người ngay thẳng. Chìa khóa đó, đúng là chìa khóa của ông ta. Ông ta đã vào phòng tôi để xem tôi có muốn uống trà không, và khi đi ra, ông đã để quên… Bannister hẳn đã vào trong phòng vài phút sau khi tôi đã đi ra ngoài. Trong bất cứ ngày nào khác, sự việc đó không có gì quan trọng. Nhưng hôm nay, thì nó rất là thảm hại.
Nhìn lên bàn giấy, tôi thấy ngay là đã có người lục lọi giấy tờ của tôi. Những bản in thử in trên ba tờ giấy dài. Tôi đã để chúng cùng một chỗ. Và giờ đây tôi thấy ba tờ nằm ba nơi: một tờ nằm trên sàn nhà, một tờ ở gần cửa sổ và một tờ nằm ở vị trí cũ.
Holmes hơi nhổm người dậy.
Tờ thứ nhất nằm trên sàn nhà, tờ thứ hai ở gần cửa sổ và tờ thứ ba nằm ở vị trí cũ? – Anh hỏi.
Đúng vậy, thưa ông Holmes. Ông làm tôi kinh ngạc đấy! Làm sao ôn gbiết được điều đấy?
Mong ông cứ tiếp tục câu chuyện.
Trong một lúc lâu, tôi tự nhủ là Bannister đã tự tiện xem giấy tờ của tôi. Ông ta đã đoan chắc với tôi là không. Vậy thì có ai đó, khi đi ngang trước cửa phòng tôi, thấy cái chìa khóa và đoán rằng tôi đi ra ngoài nên người đó bước vào xem các bản in thử. Thật là một điều tệ hại, khi mà một sinh viên được biết trước đề thi, một lợi thế lớn của anh ta trong cuộc đua giành học bổng với các bạn đồng học.
Bannister gần như ngất đi khi chúng tôi khám phá ra rằng những bản in thử bị đổi chỗ. Tôi đã cho ông ta uống vài giọt brandy và để ông ta ngồi xuống ghế rồi khám xét thật tỉ mỉ căn phòng. Trên cái bàn nhỏ gần cửa sổ, tôi tìm thấy những miếng gỗ vỏ bút chì được gọt. Còn có một mẩu ruột bút chì bị gãy. Rõ ràng là kẻ ranh mãnh đã chép vội chép vàng bài thi. Vì luống cuống y đã làm gấy cây bút chì và đã gọt lại.
Tuyệt vời. Ông đã gặp may! – Holmes kêu lên.
Chưa hết. Tôi có một cái bàn rất mới, được phủ bằng lớp da màu đỏ rất đẹp. Mặt bàn thật trơn và sạch. Thế mà tôi đã bắt gặp một vết đứt dài 3 inch; không phải là vết xước mà là một vết đứt; ở trên mặt bàn có một cục bột đen nhỏ, trong đó có vài hạt nhỏ giống như là mạt cưa. Tôi tin chắc là những dấu vết đó do kẻ chép đề thi để lại. Tôi không thấy dấu chân nào mà cũng chẳng thấy dấu vết nào khác có thể tìm ra đó là ai. Giữa lúc tôi hoàn toàn nản chí thì sực nhớ ra ông đang ở trong thành phố này. Xin hãy giúp tôi, ông Holmes! Cuộc thi sẽ phải bị hoãn lại cho đến khi nào các đề thi mới được in xong. Tất nhiên tôi phải giải thích lý do bằng cách khai ra sự thật. Như vậy một vụ tai tiếng sẽ nổ ra. Tôi mong muốn được dàn xếp công việc theo cách kín đáo nhất.
Tôi rất sung sướng được lo vụ này – Holmes nói, đứng lên và mặc áo choàng ngoài vào – Có ai tới thăm ông sau khi những bản in thử được đem tới không?
Có. Daulat Ras, một sinh viên người Ấn ở cùng trong một cầu thang; anh ta đã vào phòng và hỏi tôi vài chi tiết về cuộc thi.
Anh ta là thí sinh?
Vâng.
Lúc đó các tờ giấy để trên bàn giấy của ông?
Nó còn được quấn thành cuộn.
Nhưng người ta có thể đoán ra đó là những bản in thử?
– Chắc chắn là như vậy.
Không có người nào khác vào phòng ông hay sao?
Không.
Có ai đoán biết là các đề thi dang có tại đó?
Không một ai, ngoại trừ nhà in.
Ông Bannister cũng không biết chứ?
Phải. Tất cả mọi người đều không biết!
Bây giờ Bannister ở đâu?
Ông ta bị bệnh. Tôi để ông ta lại trong ghế bành. Tôi vội vàng đi tới đây.
Ông để cửa mở à?
Tôi cất giấy tờ vào trong ngăn tủ có khóa.
Nếu người sinh viên Ấn Độ mà không đoán biết cuộn giấy đó là những bản in thử thì người đụng tới đề thi là người đã tình cờ bắt gặp, mà trước đó, họ không hề biết là đề thi có mặt ở đó.
Dường như vậy.
Holmes cười một cách khó hiểu. Anh nói:
– Vậy thì, hãy tới nhà ông xem sao, thưa ông Soames.
Căn phòng được dùng làm văn phòng của ông giáo có một cửa sổ thấp, gắn lưới sắt, nó nhìn ra cái sân cũ của trường. Một cửa ra vào mở ra trên cầu thang đá. ông giám học ở tầng một. Ba sinh viên ở các tầng trên, mỗi người một tầng. Khi chúng tôi tới hiện trường, gần như đã vào đêm. Holmes quan sát kỹ khuôn cửa sổ từ mé ngoài.
Anh đứng nhón chân, nghển cái cổ dài ra mà ngó vào trong phòng.
Hắn đã vào trong phòng qua ngả cửa chính. Màng lưới sắt của cửa sổ ắt hẳn đã không cho y đi xuyên qua đây – Ông giám học nói.
Thật vậy sao? – Holmes nói khi ném một tia nhìn kỳ lạ về phía thân chủ – Thế thì chúng ta nên vào trong xem xét tiếp.
Ông giám học mở cửa chính ra và dẫn chúng tôi vào trong văn phòng. Chúng tôi đứng lại trên ngưỡng cửa trong lúc Holmes quan sát tấm thảm, anh nói:
Ở đây chúng ta chẳng tìm ra được dấu vết nào. Trời quá khô ráo! Ông Bannister dường như đã bình phục. Ông đã để ông ấy lại trong ghế bành. Cái ghế nào?
Cái ghế gần bên cửa sổ.
Giờ đây các ông có thể vào được rồi – Holmes nói. – Tôi đã xem xong tấm thảm. Trước hết chúng ta hãy quan sát cái bàn nhỏ. Hiển nhiên là người nọ đã lấy những bản in thử, tờ này tiếp tờ kia. Người đó ngồi vào cái bàn nhỏ gần bên cửa sổ, bởi vì từ đó, hắn có thể canh chừng việc trở về qua ngả cửa chính mà bỏ trốn.
Sự thật thì hắn không thể làm thế. Bởi vì tôi trở về qua ngả cửa nhỏ, phía bên kia.
A, đó là điều rất hay! Xin hãy cho tôi xem ba tờ giấy thi. Không có dấu vết ngón tay. Không! Thoạt đầu hắn lấy tờ giấy này và đã chép. Hắn cần phải mất bao nhiêu thời gian để làm công việc này? Tối thiểu cũng mất 15 phút. Đoạn hắn vứt tờ giấy đã chép xong xuống đất, rồi lấy tờ thứ hai. Hắn hẳn đã chép được một nửa của tờ giấy thứ hai thì thấy ông về, nên hắn phải bỏ trốn, rất hấp tấp, bởi vì hắn không kịp xếp lại các tờ giấy này như cũ. Ông không nghe thấy những tiếng chân hối hả trên cầu thang khi ông trở về qua ngả cửa ngoài sao?
Không.
– Hắn đã viết hết sức vội vã nên làm gấy đầu bút chì, và hắn phải vót lại. Điều này rất đáng chú ý, Watson. Cây bút chì này có một chiều dài bình thường và ruột bút chì thật mềm. Vỏ bên ngoài màu xanh đậm. Tên nhà sản xuất được khắc bằng chữ nhũ màu bạc. Cái mẩu còn lại dài gần 1 inch. Thưa ông Soames, hãy tìm một cây bút thuộc loại đó, và ông sẽ tìm ra được người cần tìm. Tôi còn dám nói rằng hắn có một con dao nhíp lớn, rất cùn.
Ông giáo sư hơi bị choáng ngợp trước dòng thác những thông báo đó.
– Tôi theo kịp ông về một số điểm, nhưng về cái chiều dài thì …
Holmes đưa cho ông ta coi một mẩu vỏ bút chì trên có những chữ NN mà không có bất cứ một chữ nào khác tiếp theo sau.
Ông thấy chứ?
Không ngay đến giờ đây cũng chưa …
Anh Watson, những chữ NN này có thể là gì? Hai chữ cuối của một từ. Anh đã biết rằng Johann Faber là nhà sản xuất bút chì. Cây bút chì còn lại một khúc ngắn tiếp theo chữ Johann …
Anh nghiêng cái bàn nhỏ dưới ánh sáng đèn điện.
Nếu người đó viết trên giấy mỏng thì tôi sẽ tìm thấy dấu vết kiểu chữ của y trên cái mặt phẳng nhẵn bóng này. Nhưng không, tôi không thấy gì hết. Hãy thử xem cái bàn giấy của ông. Tôi đồ chừng đám nhỏ này là đống chất đen lợt mà ông đã nói với tôi. Hình chóp và rỗng. Ông nói đúng, những hạt mạt cưa ở bên trong. Điều này thật là đáng chú ý! Và vết đứt, đúng là một vết rách, bắt đầu bằng một vết xước mỏng và chấm dứt bằng một cái lỗ rách xơ ra. Cánh cửa này dẫn tới đâu?
-Vào phòng ngủ của tôi.
– Kể từ lúc xảy ra câu chuyện, ông có vào trong phòng đó lần nào không?
– Không. Ngay tức khắc, tôi tới đằng nhà ông.
-Tôi mong muốn được xem qua. Căn phòng thật duyên dáng, với cái kiểu kiến trúc cổ này! Chờ một chút, để tôi quan sát cái sàn nhà này… Tôi không thấy gì cả. Còn tấm ri-đô này? Ông treo quần áo ở đằng sau. Nếu ai đó muốn nấp trong căn phòng này thì y sẽ trốn vào đây, bởi cái giường thì quá thấp và phòng vệ sinh thì không đủ rộng. Chẳng có ai đâu, chắc vậy?
Theo cái cách mà Holmes nhấc tấm ri-đô lên, tôi hiểu là anh sẵn sàng ứng phó với mọi sự. Thật ra, góc nhà đó không chứa đựng cái gì khác hơn là vài bộ quần áo treo trên những cái mắc áo. Holmes xoay gót và bất thình lình cúi xuống.
– Này! Cái gì đây nhỉ? – Anh reo lên.
Đó là một cái tháp nhỏ chất đen, giống hệt với cục nhỏ mà chúng tôi đã thấy trên bàn ở văn phòng. Holmes nhặt lên và quan sát nó.
Người khách của ông đã để lại những dấu vết ở trong phòng ngủ cũng như văn phòng ông đây này.
Hắn vào đây để làm gì?
Ông quay về theo một ngả mà hắn không tiên liệu được, và hắn chỉ được báo động khi ông đến trước cánh cửa. Hắn bèn quơ lấy tất cả những gì có thể tố giác hắn và hối hả chui vào phòng ngủ của ông đế trốn.
Vậy trong suất thời gian tôi nói chuyện với Bannister trong văn phòng, người đó đã ở trong phòng ngủ của tôi hay sao? Thưa ông Holmes, liệu có khả năng nào khác được chúng ông chưa quan sát cửa sổ phòng tôi.
Những ô vuông hình thoi, sườn bằng que chỉ, ba miếng kính rời, một xoay trên những bản lề khá lớn đủ cho một người có thể lách mình qua.
– Đúng vậy. Và nó mở ra một góc sân. Người đó đã vào phòng qua ngả cửa sổ, để lại những dấu vết trong phòng mà y đã đi qua, đoạn bỏ theo cửa chính để ngỏ mà ra ngoài.
Holmes lắc đầu nói:
Ông đã bảo với tôi rằng có ba sinh viên sử dụng cái cầu thang này và thường hay đi ngang trước cửa phòng ông?
Vâng.
Và cả ba đều dự thi? .
Vâng.
Ông có nghi ngờ người nào không?
Đây là một vấn đề rất tế nhị.
Tôi chẳng muốn phát biểu chút nào khi chưa có chứng cớ.
Tầng lầu một là anh Gilchrist, một người hoàn hảo và là một lực sĩ đẹp. Anh ta chơi trong đội bóng bầu dục và khúc côn cầu của nhà trường, là tay vô địch môn chạy vượt rào và nhảy xa. Thân phụ anh là ngài Jabez Gilchrist, một nhà quý tộc bị phá sản trên các trường đua ngựa. Người con trai đó nghèo nhưng làm việc chăm chỉ và thông minh.
Tầng lầu hai là nơi Daulat Ras cư ngụ. Anh chàng Ấn Độ này rất trầm tĩnh và kín đáo.
Anh học tập tốt, nhưng tiếng Hi Lạp thì yếu. Anh chăm học và có phương pháp.
Tầng lầu chót có Miles McLaren. Anh ta rất siêng học, một trong những học sinh sáng suốt nhất của trường. Nhưng anh ta lại thất thường, nghịch ngợm, vô nguyên tắc. Trong năm thứ nhất, anh ta suýt bị đuổi học vì một vụ đánh bài. Trong suốt quý này, anh ta đã đi chơi rong và ắt hẳn anh phải nhắm tới kỳ thi với nỗi kinh hoàng.
Vậy là ông nghi anh ta?
Tôi không dám đi xa tới thế. Nhưng một người có hành vi như thế sẽ dễ bị người khác nghi ngờ.
Giờ đây, tôi muốn gặp ông Bannister.
Đó là một người bé nhỏ, trạc 50 tuổi: Nước da trắng, không râu; tóc hoa râm, mặt tròn trịa, có thoáng qua những chứng giật gân mặt và các ngón tay cứ luôn luôn bắt chéo vào nhau rồi lại buông ra.
Chúng tôi đang điều tra về cái vụ không may mắn đó, Bannister! – Chủ ông ta nói.
Vâng, thưa ông.
Hẳn ông đã để cái chìa khóa lại trên cửa? – Holmes hỏi ông ta.
Vâng, thưa ông.
Phải chăng là sự khác thường, khi ông lơ đễnh đúng vào cái ngày mà những tài liệu lại để ở trong phòng?
Thật hoàn toàn đáng tiếc, thưa ông.
Ông vào đây lúc mấy giờ?
Khoảng bốn giờ rưỡi, giờ chủ tôi dùng trà.
Ông ở lại trong bao lâu?
Khi thấy ông chủ không có ở đây, tôi bỏ đi ngay.
Ông có nhìn vào các giấy tờ để trên bàn không?
– Không, thưa ông.
Làm thế nào mà ông lại có thể để cái chìa khóa ở trong ổ khóa?
Tôi đang bưng khay trà. Tôi tự nhủ là sẽ quay lại lấy chìa. Thế rồi tôi quên luôn.
Cánh cửa bên ngoài có một bộ phận đóng tự động không?
Không, thưa ông!
Thế là nó vẫn mở suốt trong thời gian đó.
Vâng.
Bất cứ ai từ trong phòng cũng có thể đi ra bằng cửa đó.
Vâng.
Khi ông chủ trở về và cho gọi ông, thì ông rất bối rối?
Vâng. Tôi hầu hạ ở đây đã lâu và một việc như vậy chưa bao giờ xảy ra. Tôi gần như bị ngất xỉu.
Tôi biết. Ông ngồi tại đâu khi ông bắt đầu cảm thấy khó thở?
Ở đây gần bên cánh cửa.
Thật là kỳ cục. Ông tới ngồi trong cái ghế bành đằng kia, trong góc này. Tại sao ông không ngồi ở những cái ghế khác?
Đối với tôi điều đó không có gì là quan trọng. Miễn sao tôi được ngồi xuống…
Tôi thật sự tin là anh ta không dính dấp vào vụ này, thưa ông Holmes – Giám học nói.
Ông vẫn ngồi đó khi chủ ông đã bỏ đi?
Chỉ trong một hay hai phút. Đoạn tôi đóng cửa lại rồi leo lên phòng tôi.
Cám ơn, thế là đủ – Holmes trả lời – Ồ, còn một điều này nữa: ông không nói với một trong ba sinh viên rằng có một biến cố vừa xảy ra chứ?
Tôi không nói một lời nào.
Rất tốt. Giờ đây, chúng ta hãy đi dạo trong chốc lát ngoài sân.
Ba ô vuông màu vàng lấp lánh ánh sáng ở phía trên chúng tôi .
Ba con chim của ông đều đang ở trong tổ – Holmes nói khi ngước lên nhìn – Này chuyện gì xảy ra vậy? Một trong ba người tỏ ra khá dao động?
Đó là người sinh viên Ấn Độ chợt hiện ra trên bức mành cửa. Anh ta đi đi lại lại trong phòng.
Tôi muốn được nhìn thấy họ gần hơn một chút – Holmes nói.
Dạ được. Mấy phòng đó nằm trong cái phần cổ xưa nhất của nhà trường và thỉnh thoảng chúng tôi đưa khách tới đó tham quan. Các ông hãy cùng đi với chúng tôi.
Cần nhất là đừng có gọi tên! – Holmes thì thầm khi chúng tôi gõ cửa phòng Gilchrist.
Một thanh niên to con, dong dỏng cao, mái tóc màu gai, mở cửa và ngỏ lời chúc mừng khi được biết mục đích chuyến viếng thăm của chúng tôi. Phòng anh không thiếu những di tích của lối kiến trúc xưa. Holmes bị lôi cuốn mãnh liệt bởi một trong những di tích đó, khiến muốn anh vẽ lại trên cuốn sổ tay; anh làm gẫy bút chì, hỏi mượn chủ nhà một cái bút chì và sau cùng hỏi mượn một con dao nhíp dể gọt lại. Việc đó xảy ra trong phòng của người sinh viên Ấn Độ. Nhưng mưu toan thứ ba của chúng tôi bị thất bại. Cánh cửa không mở ra và chúng tôi chỉ nhận được một tràng những lời lẽ kém nhã nhặn.
Tôi cóc cần biết các ông là ai! Đi chỗ khác mà xem! Tôi bận học thi, các ông nghe rõ chưa?
Một người không vui tính – Người hướng dẫn chúng tôi nói, trong lúc xuống cầu thang – Tất nhiên anh ta không biết tôi là người đã gõ cửa. Tuy nhiên anh ta cư xử một cách bất lịch sự và đáng nghi ngờ.
Câu trả lời của Holmes lại khá bất ngờ:
Ông có thể cho tôi biết chiều cao đích xác của anh ta không?
Anh ta cao hơn người Ấn Độ nhưng thấp hơn Gilchrist? Tôi nghĩ là 5 bộ 6…
Điều đó rất quan trọng. Và giờ đây, thưa ông Soames, xin chúc ông một đêm an lành
Holmes nói.
Người hướng dẫn chúng tôi bày tỏ nỗi ngạc nhiên và lòng tuyệt vọng của ông.
Lẽ nào ông lại bỏ rơi ông một cách đột ngột đến thế. Ngày mai thi rồi. Tối nay tôi buộc phải làm một cái gì đó minh bạch, dứt khoát. Tôi không thể giữ nguyên kỳ thi nếu người ta đã đụng vào những bản in thử đó.
Hãy cứ giữ nguyên. Sáng mai tôi sẽ đến đây thật sớm và chúng ta sẽ bàn lại vấn đề. Rất có thể là lúc đó tôi đã nắm được những yếu tố mới, khả dĩ giúp ông thoát ra khỏi cảnh ngộ này. Từ đây tới đó, ông đừng thay đổi gì cả.
Được lắm, thưa ông Holmes.
Ông cứ yên tâm. Tôi đem về hai cục hình chóp đen cùng những mẩu vỏ bút chì. Xin chào ông.
Khi ra tới sân, chúng tôi quan sát những khuôn cửa sổ một lần nữa. Người Ấn Độ vẫn tiếp tục sải bước trong phòng. Hai người kia thì không nhìn thấy. Khi ra tới đầu đường, Holmes hỏi:
– Anh Watson, một trò chơi ba người. Anh hãy chọn lựa đi! Người nào?
Cái nhân vật thô bạo ở trên cao. Anh ta là người “có tiếng” hơn cả. Cái anh chàng Ấn Độ cũng khéo vờ vĩnh. Tại sao anh ta lại cứ sải bước trong phòng.
Rất nhiều người đi bách bộ để thử cố học thuộc lòng một cái gì đó.
Anh chàng đã nhìn chúng ta với sự chán ghét…
Nếu có một bọn người lạ đột nhập vào phòng anh vào buổi tối trước ngày thi, anh sẽ có thái độ như thế nào? Cái bút chì, con dao nhíp, tất cả đều được hết. Duy gã nọ là bắt tôi phải suy nghĩ.
Gã nào?
Bannister. Ông ta chơi trò gì?
Tôi có cảm tưởng rằng ông ta rất thật thà.
Cả tôi cũng thế. Và đó chính là điều khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao một người lương thiện đến thế mà lại…? Đây là một cửa hàng giấy bút lớn: Chúng ta tìm kiếm từ nơi này.
Trong thành phố chỉ có bốn cửa hàng giấy bút lớn. Holmes đưa những mẩu vỏ bút chì ra và hỏi mua thứ bút đó. Lần nào người ta cũng đưa ra một thứ bút mà Holmes tìm kiếm. Bạn tôi nhún vai với một cử chỉ nhẫn nhục vui vẻ.
– Không may rồi. Chúng ta chẳng đi tới đâu cả. Chín giờ rồi bạn ơi!
Sau bữa ăn tối muộn màng, Holmes không đã động gì tới vụ đó nữa. Tám giờ sáng, anh vào phòng tôi.
Tới giờ đi St. Luke rồi. Anh có thể bỏ bữa điểm tâm được không?
Được thôi, có gì mới không?
– Có.
Anh rút ra được những kết luận gì?
Tôi đã giải quyết xong vấn đề. Tôi ra khỏi giường hồi 6 giờ, làm việc cật lực trong hai tiếng đồng hồ và đi bộ 5 dặm đường để đi tìm một cái gì đó. Anh hãy coi cái này!
Trên lòng bàn tay Holmes có ba cái chóp nhỏ bằng đất sét đen, sền sệt.
Ngày hôm qua chỉ có hai thôi mà?
Và sáng hôm nay, có thêm một cái nữa. Nơi xuất phát của cái thứ ba cũng là nơi xuất phát của hai cái kia. Nào, chúng ta hãy đi gặp ông bạn Soames.
Ông thầy đáng thương đang ở trong một tình trạng bồn chồn trong phòng ngủ của ông. Chỉ còn vài giờ nữa là cuộc thi bắt đầu và ông còn đang tự hỏi không biết nên giải thích tất cả hay cứ để mặc cho kẻ phạm tội dự thi. Ông nhạy ùa về phía Holmes với hai cánh tay dang thẳng, nói:
Tôi sợ ông nản chí. Cuộc thi có tiến hành không?
Cứ tiến hành.
Nhưng, tên vô lại đã..?
Hắn sẽ không dự thi.
Ông biết hắn là ai?
Biết. Bởi vụ này cần phải được giữ kín, nên chúng ta sẽ lập ra một thứ như “tòa án đặc biệt” nhỏ. Mong ông ngồi đây, Watson ngồi vào đây. Tôi ngồi vào ghế bành của ông ở chính giữa. Chúng ta đủ oai nghiêm để làm cho một tâm hồn phạm tội phải sững người vì sợ hãi? Xin ông vui lòng gọi chuông.
Bannister vào phòng và suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước cảnh đó.
Holmes nói với Bannister:
Mong ông vui lòng đóng cánh cửa đó lại. Giờ đây, ông hãy nói về việc đã xảy ra hôm qua.
Bannister tái mét tới tận chân tóc:
Tôi đã thưa tất cả rồi.
Ông không còn gì để nói thêm sao?
Không, thưa ông.
Trong trường hợp này, tôi phải gợi ra với ông vài ý kiến. Ngày hôm qua khi ngồi trên cái ghế bành này, có phải ông đã chọn cái chỗ đó cất để ý che giấu một đồ vật có thể tiết lộ người đã vào phòng này không.
Bộ mặt Bannister tím ngắt.
Không, thưa ông.
Đó chỉ là một gợi ý? – Holmes nói với giọng ngọt ngào – Tôi không có khả năng chứng minh điều đó. Nhưng có điều chắc chắn là ngay khi ông Soames vừa xoay lưng đi, thì ông đã đưa người trốn trong phòng ngủ ra ngoài.
Bannister liếm cập môi khô:
Không có ai cả, thưa ông.
A! Thật đáng tiếc! Cho tới giây phút này, ông vẫn có thể nói ra sự thật, nhưng tôi biết là ông đã nói dối.
Bộ mặt của Bannister chỉ còn bộc lộ một sự thách thức buồn bã.
– Không có ai cả, thưa ông.
– Coi nào, ông Bannister.
Không, thưa ông, không có ai cả.
Thôi được, ông hãy tời đứng gần bên cửa ra vào phòng ngủ. Bây giờ, thưa ông Soames, tôi mong ông leo lên phòng chàng trai Gilchrist, yêu cầu cậu ta xuống đây.
Một lát sau, ông thầy cùng với cậu sinh viên bước vào. Đó là một thanh niên đẹp trai, lực lưỡng, mảnh và cao, mềm mại, dáng đi linh hoạt, vui mắt, anh ta có bộ mặt cởi mở. Cặp mắt xanh của anh chăm chú nhìn chúng tôi trước khi đặt lên Bannister với một dáng vẻ rụng rời.
Hãy đóng cửa lại – Holmes nói – Giờ đây, ông thấy là chúng ta hoàn toàn tách biệt với bên ngoài. Không một ai nghe chúng ta nói chuyện. Vậy thì chúng ta có thể nói chuyện với tất cả lòng thẳng thắn. Chúng tôi muốn biết, làm thế nào mà ông, một người trọng danh dự, lại phạm vào một lỗi lầm như trong ngày hôm qua?
Chàng thanh niên lảo đảo và ném lên Bannister một tia nhìn oán trách.
Nhưng, thưa ông Gilchrist, tôi đã không nói gì hết – Người đầy tớ kêu lên.
Nhưng bây giờ thì ông đã nói – Holmes trả lời – Coi nào, chàng trai! Sau cái điều vừa thoát ra khỏi cổ họng Bannister, địa vị của ông hẳn là bớt đẹp. Ông chỉ còn có một cơ may: Thành thật nhận lỗi.
Trong một lúc, Gilchrist giơ một bàn tay lên thử chế ngự mối cảnh xúc và bất thình lình anh ta quỳ gối xuống bên cạnh bàn, vùi mặt vào trong hai bàn tay và khóc nức nở. Holmes dịu dàng nói:
Coi nào, coi nào. Lỗi lầm là bản chất của con người, có thể anh thích để cho tôi nói thay anh? Anh sẽ đính chính nếu tôi bị lầm lẫn. Anh đồng ý chứ? Tốt. Thưa ông Soames, kể từ lúc ông nói rằng không có ai biết những bản in thử ở trong văn phòng ông, thì vụ này đã làm cho tôi thích thú. Chúng ta có thể gạt bỏ người thợ in, bởi vì nếu muốn, anh ta có thể chép những bản văn đó ngay trong nhà mình. Tôi cũng loại bỏ người Ấn Độ: Nếu những bản in thử còn quấn thành cuộn, anh ta không thể đoán được rằng, đó là cái gì. Mặt khác, có thể có sự trùng hợp như thế này: Một người nào đó đã vào trong văn phòng ông và tình cờ nhìn thấy đề thi đang nằm ở trên bàn! Tôi cũng gạt bỏ luôn giả thiết đó.
Cái người vào đây phải là người đã biết nơi này đang có bản in thử. Vì sao người ấy biết được?
Khi tôi tới gần bàn giấy của ông, tôi quan sát khung cửa sổ. Ông đã làm tôi cười khi ông tin rằng có một ai đó đã lẻn vào văn phòng bằng ngả đó. Một giả thiết như thế thật là phi lý. Tôi đã tính chiều cao cần thiết mà người đó có thể đi ngang cửa nhà này và người ấy phải biết trước loại giấy tờ nào đang nằm trên bàn ông. Tôi cao 6 bộ và chỉ cần hơi gắng sức là tôi đã trông thấy xấp giấy trên bàn. Vậy, nếu một trong ba sinh viên của ông, người có thân hình thật cao, là mục tiêu của sự tìm kiếm. Tuy nhiên, lúc đứng trong văn phòng, tôi không rút ra được điều gì, nhưng ông đã mô tả với tôi rằng Gilchrist là một nhà vô địch chạy vượt rào và nhảy xa . Thế là tôi hiểu tất cả. Nhưng tôi cần có những chứng cớ xác minh.
Chàng thanh niên này đã tập nhảy suốt buổi chiều trên sân thể thao. Anh trở về, mang theo đôi giày nhảy, là thứ có gắn những mũi nhọn, như ông đã thấy. Khi đi ngang qua cửa phòng ông, nhờ thân hình cao, anh đã trông thấy nhưng bản in thử đó để trên bàn, còn trên cánh cửa thì có chìa khóa để quên. Một sự thôi thúc đẩy anh vào phòng và để xem coi đó có phải là đề thi của ngày hôm sau không? Nếu bị bắt gặp, anh có thể nói rằng anh tới để hỏi ông thầy một câu gì đó.
Khi thấy đó đúng là đề thi, thì anh đành chịu thua sự cám dỗ. Anh để đôi giày có gắn mũi nhọn lên bàn. Thế anh đã để cái gì lên trên cái ghế bành kê gần bên cửa sổ này?
– Đôi bao tay – Chàng trai trả lời.
Holmes nhìn Bannister với tư thế của người thắng cuộc.
Anh đặt đôi găng tay lên thành ghế và lấy từng tờ giấy để chép lại. Anh nghĩ rằng ông thầy sẽ trở về qua lối cổng chính, và anh sẽ trông thấy. Thế nhưng ông thầy lại trở về qua cổng nhỏ. Bất thình lình, anh nghe thấy tiếng gõ của thầy ở đằng sau cánh cửa. Anh vội vàng quơ lấy đôi giày nhảy và bỏ trốn trong phòng ngủ, bỏ quên đôi bao tay trên thành ghế. Vết khắc trên mặt bàn in nhẹ ở một bên, nhưng lại hằn rõ trong hướng đi tới phòng ngủ. Điều đó cho thấy thủ phạm đã trốn trong phòng. Đất bám chung quanh một mũi nhọn vương lại trên bàn, một mẩu đất thứ hai tuột ra và rơi xuống trong phòng. Sáng nay tôi đã tới sân nhảy và thấy hố đó đầy thứ đất đen dính chắc này. Tôi mang về một ít và tôi cũng ghi nhận rằng người ta đã rắc mạt cưa lên trên mặt đất để các lực sĩ khỏi bị trượt chân. Tôi nói có đúng không, ông Gilchrist?
Chàng sinh viên đứng lên.
Đúng, thưa ông.
Nhưng anh không có gì để nói thêm sao? – Ông Soames kêu lên.
Có, thưa thầy. Tôi có nhiều điều để nói thêm. Nhưng sự khám phá ra đó đã làm tôi kinh ngạc. Tôi có một lá thư gửi thầy. Tôi viết vào giữa một đêm mà lương tâm không yên ổn. Thư đó đây. Đây là câu đầu tiên: “Tôi quyết định không dự thi; người ta đã đề nghí với tôi một chỗ là trong sở cảnh sát ở Rhodésia; tôi sẽ sang Nam Phi ngay tức khắc”.
Tôi thật sung sướng được biết anh không có ý định lợi dụng một sơ sót của tôi. Nhưng tại sao anh lại đổi ý?
Gilchrist chỉ vào Bannister nói:
Đây là người đã đưa tôi trở lại con đường ngay thẳng.
Coi nào, Bannister! – Holmes kêu lên – Sau điều tôi vừa giải thích, ông hiểu rõ rằng chính ông đã để cho chàng trai này đi ra khỏi phòng, bởi ông đã ở lại một mình trong phòng và ông đã khóa cửa lại sau khi bỏ đi. Ông có muốn cho chúng tôi biết tại sao ông hành động như vậy không.
Thưa ông, một thời, tôi đã phục vụ như người quản gia nơi nhà thân phụ của chàng trai. Khi cụ bị phá sản, tôi trở thành nhân viên thuộc trường này, nhưng tôi không bao giờ quên được ông chủ cũ. Tôi đã chăm sóc con trai cụ hết sức mình để tưởng nhớ một thời êm đềm xa xưa. Hôm qua, khi tôi vào trong văn phòng này, cái đầu tiên mà tôi trông thấy, đó là đôi bao tay của cậu đặt trên ghế bành. Tôi biết, nếu ông giám học cũng trông thấy chúng, là cậu bị phát hiện. Thế nên tôi bèn “ngất xỉu” trên cái ghế bành này và không gì có thể làm tôi động đậy, mãi cho tới khi ông Soames đi ra. Người chủ trẻ của tôi đã rời khỏi chỗ ẩn nấp và thú nhận với tôi. Thuở xưa, tôi đã từng đặt cậu ấy ngồi trên đầu gối tôi. Về phần tôi, thật là tự nhiên khi tôi làm đủ mọi cách để cứu cậu ấy? Mặt khác, tôi nói với cậu rằng chẳng nên làm như thế. Ông có chê trách tôi không, thưa ông Holmes.
Holmes đứng lên nồng nhiệt nói với Bannister và ông Soames rằng vấn đề đã được giải quyết êm đẹp. Quay sang chàng trai, Holmes tiếp:
Về phần anh, người bạn trẻ, tôi tin chắc rằng ở một chân trời xa xôi kia, một tương lai xán lạn đang chờ đón anh.
Hết
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.