Tiếng Chó Tru Trong Đêm

CHƯƠNG 17



Chánh án Markhem với vẻ mặt khó đoán ngự trị sau chiếc bàn gỗ lim lớn, và khi những tia lửa loé lên trong mắt ông, mà người quan sát rất chăm chú mới nhận thấy rằng, ngài chánh án đang tập trung theo dõi sự kiện đang diễn ra.
Clod Dramm là biện lí khu, một người đàn ông cao đáng mến, cảm thấy thật thoải mái. Ông không hề nghi ngờ vào kết cục vụ tố tụng. Lần đầu tiên Perry Mason sẽ phải rời khỏi phòng nghị án là kẻ chiến bại.
Vị luật sư danh tiếng ngồi sau một chiếc bàn nhỏ. Bên cáo trạng vừa sử dụng lần thứ hai quyền bác bỏ các vị bồi thẩm, và ứng cử viên tiếp theo bước vào phòng xử án, một người đàn ông gầy, hơi còng với hai gò má nhô cao và cặp mắt không màu. Ông giơ tay phải lên, tuyên thệ và đi ra sau hàng rào ngăn tách dãy ghế các vị bồi thẩm.
Chánh án Markhem ngước nhìn Perry Mason.
— Ngài có thể đặt câu hỏi.
Ông gật đầu.
— Tên của ông?
— George Smit.
— Ông đã đọc về vụ này chưa?
— Đã.
— Có hình thành hay không quan điểm xác định trên cơ sở điều đã đọc?
— Không.
— Ông có biết những sự kiện cụ thể liên quan đến vụ án này?
— Tôi chỉ rõ điều gì được viết trong báo chí thôi.
— Nếu ông được bầu vào bồi thẩm đoàn, ông có thể chính trực và vô tư xét xử bị cáo và đưa ra bản án công minh không?
— Có, – người đàn ông đáp cứng rắn.
Mason từ tốn đứng lên.
— Chắc ông hiểu rằng đã là bồi thẩm, ông cần tuân thủ chỉ các sự kiện và các điều khoản luật pháp do toà án thông báo cho ông chứ?
— Vâng.
— Mà theo luật pháp của bang này nhiệm vụ của bên cáo trạng là chứng minh tội của bị can trước khi các bồi thẩm thừa nhận bà ta có tội, thêm nữa, bị can không nhất thiết đưa ra lời khai khẳng định sự vô tội của bà ta. Bà ta có thể im lặng và trông cậy vào việc bên cáo trạng sẽ không đủ khả năng chứng minh tội của bà ta. Ông đồng ý với điều này không?
— Tất nhiên, nếu đó là luật pháp.
— Và sự kiện bị can từ chối khai báo không phải là chứng cứ về tội của bà ta và không được ảnh hưởng đến sự phán quyết do bồi thẩm đưa ra.
— Tôi hiểu.
Mason ngồi xuống và gật đầu khẽ.
— Không có sự phản đối.
Clod Dramm đặt câu hỏi, mà phần lớn các bồi thẩm phải ngập ngừng ở đó.
— Nếu ông buộc phải thực hiện nghĩa vụ bồi thẩm, ông có cảm thấy lương tâm bị cắn rứt khi đưa ra quyết án tử hình hay không?
— Không, – người đàn ông đáp tự tin.
— Nghĩa là, nếu tội của bị can được chứng minh là có tội, và bên cáo trạng đòi phán quyết án tử hình, những cắn rứt lương tâm sẽ không là sự cản trở để thừa nhận bà ta có tội?
— Không.
— Bên cáo trạng không phản đối.
— Quyết định cuối cùng của bên bào chữa, – chánh án quay lại phía Mason.
— Không có phản đối.
— Nếu thế mời bồi thẩm đoàn tuyên thệ. – Dramm nói.
— Thưa các quý ngài, – chánh án bắt đầu, – xin mời đứng dậy và tuyên thệ. Cho phép tôi ghi nhận sự nhanh chóng và tính hiệu quả hành động của hai bên khi lựa chọn thành phần bồi thẩm đoàn.
Sau tuyên thệ, Clod Dramm phát biểu.
— Thưa các ngài, tôi xin được chứng minh rằng, tối ngày mười bảy tháng mười năm nay người đàn bà này đã bắn chết Clinton Forbs. Bị cáo có lí do để giết người. Kẻ quá cố đã xúc phạm bà ta một cách tàn nhẫn. Clinton Forbs là chồng của bị cáo. Họ sống cùng nhau ở Santa Barbara, nhưng khoảng một năm trước đây ông ấy biến mất, không hề thông báo cho vợ về các dự định của mình. Sau đó được làm sáng tỏ rằng, trốn đi cùng với ông ấy là Paula Cartrait, vợ của người quen chung của họ. Đến thành phố chúng ta, Forbs trú tại Milpas Draiv, 4889, dưới cái tên Clinton Fouli, còn Paula Cartrait thành ra Evelin Fouli. Bị cáo đã mua khẩu súng lục tự động hiệu Colt 38mm và gần một năm tìm kiếm người chồng bỏ trốn. Không lâu trước vụ giết người, các cuộc kiếm tìm của bà ta đã thành công. Đến thành phố chúng ta, bà ta đã thuê buồng tại khách sạn Bridmont với cái tên S.M. Denjefild. Tối ngày mười bảy tháng mười, khoảng vào bảy giờ hai mươi lăm phút, bị cáo đến nhà của chồng mình. Nhờ cái móc bà ta đã mở khoá và đi vào hành lang. Trông thấy chồng, bà ta lạnh lùng bắn chết ông ta, ngồi lên taxi và trở về khách sạn Bridmont mà ở đấy bà ta đã đăng kí trước dưới cái tên Denjefild. Trong xe taxi bị cáo đã bỏ quên chiếc khăn mùi soa, và tôi có bằng chứng, thưa quý ngài, rằng chiếc khăn đó thuộc về bà ta là không phải nghi ngờ. Tôi cũng có bằng chứng về khẩu súng lục là do bị cáo mua trong cửa hàng thể thao tại Santa Barbara. Và trên cơ sở của các chứng cứ không thể tranh cãi về tội lỗi của bà ta, tôi đòi hỏi phán quyết án tử hình.
Kết thúc lời buộc tội, Dramm đi lại chiếc bàn và ngồi xuống.
— Ngài sẽ phát biểu bây giờ hay giữ lại cho mình quyền được nói sau? – chánh án hỏi Perry Mason.
— Tôi sẽ phát biểu muộn hơn. – Vị luật sư đáp.
— Thưa toà, – Dramm chồm đứng lên, – thông thường đòi hỏi phải mất mấy ngày, chí ít cũng cả một ngày để lựa chọn thành phần bồi thẩm đoàn trong một vụ án xét xử tội giết người. Nhưng lần này chúng ta giải quyết được vấn đề đó chỉ trong vòng một giờ. Tôi chưa sẵn sàng trước một tiến trình như thế và đề nghị dừng lại đến ngày mai.
Chánh án Markhem lắc đầu và mỉm cười.
— Toà tiếp tục nghe vụ án. Xét rằng đại diện bên bào chữa góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình tố tụng, toà không cho việc để phí cả một ngày là hợp lí.
— Rất tốt, – Dramm trang trọng nói. – Trong trường hợp như thế tôi rất muốn xác định sự kiện phạm tội, khi trình toà Telma Benton. Yêu cầu lưu ý rằng, hiện thời tôi mời cô ấy chỉ để xác định sự kiện của tội ác thôi. Như nhân chứng, tôi sẽ cho gọi cô ấy muộn hơn.
— Toà hiểu rõ các ý định của ngài, – chánh án Markhem gật đầu.
Telma Benton bước ra phía trước, giơ tay phải lên và tuyên thệ. Cô ta khai tên cô ta là Telma Benton, hai mươi tám tuổi, đang sống tại Rivervu Epatments; biết Clinton Forbs đã hơn ba năm, từng là thư kí của ông ta ở Santa Barbara và đã trở thành quản gia khi đến Milpas Draiv cùng với ông ta.
Clod Dramm gật đầu vẻ hài lòng.
— Cô có trông thấy thi thể người bị giết tại Milpas Draiv, 4889, ngày mười bảy tháng mười năm nay không?
— Có.
— Đó là thi thể của ai?
— Của Clinton Forbs.
— Ông thuê nhà với tên gọi Clinton Fouli phải không?
— Vâng.
— Và ai đã sống ở đấy cùng với ông ấy?
— Bà Paula Cartrait dưới tên gọi Evelin Fouli, người đầu bếp Trung Hoa Ah Wong và tôi.
— Và còn con chó bécgiê nữa?
— Vâng.
— Nó tên là gì?
— Prins.
— Nó sống chỗ Forbs đã lâu chưa?
— Khoảng bốn năm.
— Cô trông thấy thi thể Forbs, bên cạnh có cả xác con bécgiê?
— Vâng.
— Theo phỏng đoán của cô, nguyên nhân cái chết của họ là thế nào?
— Con bécgiê và ông Forbs bị bắn chết. Nằm trên sàn là khẩu Colt cỡ 38mm và bốn cái vỏ đạn.
— Cô nhìn thấy ông Forbs còn sống lần cuối cùng là bao giờ?
— Tối mười bảy tháng mười.
— Vào khoảng mấy giờ?
— Bảy giờ mười lăm ạ.
— Sau đó cô vẫn ở trong nhà như cũ chứ?
— Không. Chính lúc đó là lúc tôi rời đi, lúc ấy ông Forbs cảm thấy rất sảng khoái. Vào lần sau thì tôi trông thấy ông đã chết rồi.
— Cô không nhận thấy có gì bất thường trên cơ thể của ông ấy chứ? – Dramm hỏi.
— Ngài có ý nói các vệt bọt xà phòng cạo râu ấy à?
— Phải.
— Có lẽ, ông Forbs đang cạo râu vào thời điểm xảy ra vụ giết người. Trên mặt ông ấy thậm chí còn lại bọt xà phòng. Ông nằm trong phòng đọc nối với buồng ngủ và phòng tắm.
— Ông Forbs giữ con bécgiê ở đâu?
— Bécgiê bị xích trong phòng tắm từ thời điểm người hàng xóm đâm đơn than phiền.
— Nếu ngài muốn lí giải gì đó thêm, – Dramm hướng về phía Mason, – ngài có thể hỏi.
Vị luật sư gật đầu đồng ý.
— Người hàng xóm đã than phiền về tiếng chó tru?
— Vâng.
— Người hàng xóm này là ngài Artur Cartrait, chồng của người đàn bà sống cùng với Forbs dưới cái tên Evelin Fouli?
— Vâng.
— Vào thời điểm vụ án mạng, bà Cartrait có mặt trong nhà không?
— Không.
— Thế bà ta ở đâu?
— Tôi không biết.
— Lần cuối cùng cô trông thấy bà ta là bao giờ?
Clod nhảy chồm dậy.
— Thưa toà, tôi cho rằng câu hỏi này không liên quan đến việc xác định sự kiện phạm tội.
— Sự phản đối của ngài bị bác bỏ, – chánh án Markhem đáp. – Tôi cho phép hỏi câu đó, bởi vì chính ngài đã hỏi về những người sống trong nhà Forbs.
— Hãy trả lời đi, – Mason tiếp tục hỏi cung.
— Paula Cartrait bỏ đi khỏi nhà sáng ngày mười bảy tháng mười. Bà ấy để lại bức thư…
— Tôi phản đối! – Dramm kêu to. – Nội dung bức thư không có quan hệ đến vấn đề được nêu.
— Sự phản đối được thừa nhận, – chánh án Markhem gật đầu.
— Giờ đây bức thư đó ở đâu?
Telma Benton luống cuống nhìn Dramm.
— Nó ở chỗ tôi, và tôi định trình ra muộn hơn. – Ông ta đáp.
— Tôi nhận thấy, – chánh án Markhem kết luận, – rằng vấn đề này được xem xét đã khá rộng. Nhân chứng có thể không trả lời câu hỏi của ngài.
Mason không phản đối.
— Tôi đã xong, – ông mỉm cười.
— Xin mời nhân chứng tiếp theo, – Dramm đề nghị.
Cem Marson tuyên thệ và khai rằng tên anh ta là Cem Marson, ba mươi hai tuổi, là lái xe taxi và ngày mười bảy tháng mười năm nay có làm việc.
— Vào ngày ấy ông nhìn thấy bị cáo không? – Dramm hỏi.
Marson cúi về phía trước và nhìn chăm chắm vào Bessy Forbs đang ngồi trên chiếc ghế có lưng tựa cao phía sau Perry Mason.
— Vâng, tôi đã nhìn thấy bà ta.
— Lần đầu tiên ông trông thấy bà ta vào lúc nào?
— Lúc bảy giờ mười phút.
— Ở đâu?
— Trên phố thứ Chín.
— Bà ta làm gì?
— Bà ta bắt taxi, và tôi đã lái xe lại gần. Bà ta bảo chở bà đến Milpas Draiv, 4889. Khi chúng tôi đi đến đó, bà ta đề nghị tôi gọi điện thoại theo số Parkest 62945, gọi Artur và truyền đạt rằng ông kia phải đến ngay nhà Clinton, bởi vì Clinton đang giải thích thẳng thừng với Paula.
— Và ông đã làm gì? – Dramm hỏi
— Tôi thả bà ta xuống gần nhà, rồi đi gọi điện thoại, còn sau lại trở về cạnh nhà.
— Thế sau đó?
— Bà ta bước ra, ngồi vào xe, và tôi chở bà về khách sạn Bridmont trên phố thứ Chín.
— Đêm hôm đó ông còn gặp lại bà ta lần nữa chứ?
— Vâng.
— Bao giờ?
— Tôi không nhớ. Có lẽ, chừng nửa đêm. Bà ta đi lại gần xe và nói rằng đã bỏ quên chiếc khăn mùi soa trong xe. Tôi công nhận điều đó và trả cho bà ta chiếc khăn.
— Bà ta lấy nó rồi chứ?
— Vâng.
— Ông trao khăn cho chính người đàn bà mà trước đó ông đã chở đến Milpas Draiv, 4889, phải không?
— Vâng, cho chính bà ấy.
— Và người đàn bà này bây giờ đang ngồi trước ông, và bà ta bị buộc tội giết người?
— Vâng, đó là bà ta.
Clod Dramm quay lại phía Mason.
— Ngài có thể hỏi.
— Bị cáo bỏ quên chiếc khăn trong xe? – Mason hỏi.
— Vâng.
— Ông đã làm gì với nó?
— Tôi cho ông xem, còn ông nói rằng tôi phải giữ chiếc khăn tay lại.
Dramm khịt mũi.
— Một phút, – Mason nhận xét. – Hoàn toàn không nhất thiết lẫn lộn tôi vào vụ này.
— Tốt nhất ngài nên tránh khỏi nó cho xa hơn, – Dramm cắm cẳn.
Chánh án Markhem gõ lên bàn.
— Yêu cầu giữ trật tự. Luật sư Mason, ngài muốn đề nghị tôi để người ta gạch bỏ lời đáp khỏi biên bản không?
— Vâng, thưa toà, – Mason đáp. – Tôi muốn gạch bỏ nó trên cơ sở là lời đáp không phù hợp với câu hỏi.
— Không, – chánh án phản đối cương quyết. – Toà cho rằng, lời đáp đúng cho câu hỏi được đặt ra.
Khuôn mặt ngài biện lí giãn ra với nụ cười rộng.
— Đại diện phòng biện lí đã chuẩn bị ông cho việc ông phải cung khai về vụ án này chứ?
— Không, thưa ông.
— Lẽ nào ông ấy không khuyên ông rằng khi xuất hiện khả năng đầu tiên hãy thông báo về chuyện ông đã chuyển chiếc khăn cho tôi sao?
Nhân chứng bối rối, còn Clod Dramm nhổm đứng dậy, điên cuồng phản kháng. Chánh án Markhem bỏ qua lời phản đối và nhìn Marson vẻ dò hỏi.
— Ồ, ông ấy đã nói ông ấy không thể hỏi về nội dung câu chuyện giữa tôi và ông Mason, nhưng nếu ở tôi xuất hiện làm nhân chứng, tôi phải kể về mọi thứ cho các vị bồi thẩm.
— Và ông ấy khuyên ông, – Mason tiếp tục, – cúi người ra phía trước và nhìn chăm chăm vào bị cáo trước khi trả lời câu hỏi, bà ta có phải là người đàn bà đã ngồi vào taxi của ông tối ngày mười bảy tháng mười, để các bồi thẩm có thể nhìn thấy ông đã nghiên cứu các nét mặt của bà ta thế nào chứ?
— Vâng, ông ấy nói với tôi về điều đó.
— Thêm nữa, trước khi có phiên toà, ông đã mấy lần nhìn thấy bị cáo rồi phải không? Và trong các buổi gặp, người ta chỉ dẫn cho ông cái điều là ông đã chở chính bà ta đến Milpas Draiv. Đúng thế chứ?
— Vâng, thưa ông.
— Và để nhận ra bà ta, ông buộc phải cúi về phía trước và soi mói nhìn mặt bị can?
— Ồ, – Marson đáp sau một chút bối rối, – tôi chỉ làm điều người ta yêu cầu thôi.
Perry Mason đứng lên.
— Ông tuyệt đối tin chắc là chính bị cáo đã đi với ông vào tối hôm ấy?
— Vâng, thưa ông.
— Tôi có thể khẳng định hay không, rằng lòng tự tin của ông được củng cố mạnh lên nhiều sau nhiều lần gặp bị cáo trong quá trình chuẩn bị phiên toà?
— Không, thưa ông, tôi không đồng ý với điều đó. Tôi nhớ rõ bà ta ngay vào tối hôm ấy.
— Tức là ông tin chắc rằng, cả hai lần ông có việc cùng với bị cáo chứ?
— Vâng.
— Và ông không hề có một chút ngờ vực nhỏ về điều là chính bị cáo đã lấy chiếc khăn tay chỗ ông? Và rằng ông đã chở bà ta đến Milpas Draiv?
— Vâng, tôi có việc với một và chỉ vẫn một người đàn bà ấy.
Perry Mason quay về phía gian phòng đông kín người và bằng một điệu bộ rất kịch chìa cánh tay phải ra.
— Mei Sibli, mời cô đứng lên cho! – Ông kêu lên.
Mei Sibli chậm rãi đứng lên từ chỗ của mình.
— Hãy nhìn kĩ người phụ nữ này, – Mason yêu cầu người lái xe, – hãy nói, ông đã nhìn thấy cô ấy bao giờ chưa?
Clod Dramm đứng nhổm dậy.
— Thưa toà, tôi phản đối chống hình thức kiểm tra trí nhớ của nhân chứng kiểu này. Câu hỏi này không có quan hệ đến bản chất vụ án.
— Tôi hi vọng, ngài sẽ chứng minh cho chúng tôi tính đúng đắn về hành động này của ngài, – chánh án hướng về Mason.
— Để cho rõ ràng hơn, tôi thay đổi câu hỏi cuối, – vị luật sư trả lời, – và tôi sẽ hỏi ông, thưa ông Cem Marson, ông có thừa nhận rằng, người phụ nữ đang đứng trước ông, đêm ngày mười bảy tháng mười đã đến chỗ ông vì chiếc khăn mùi soa mà cô ta bỏ quên trong xe, khi đã trở về khách sạn Bridmont trên phố thứ Chín hay không?
— Không, thưa ông. Người phụ nữ kia cơ, – anh ta chỉ vào Bessy Forbs đang ngồi.
— Ông không thể nhầm lẫn chứ?
— Không, thưa ông.
— Thế nếu ông không nhận ra nổi người phụ nữ đến lấy chiếc khăn, thì tương tự ông có thể không nhận ra nữ hành khách mà ông đã chở đến Milpas Draiv, có phải thế chăng?
— Tất nhiên, nếu tôi không nhận ra một bà, thì cũng có thể nhầm trong trường hợp thứ hai, – lái xe thú nhận.
Mason mỉm cười hài lòng.
— Mọi sự chính là thế đó.
Clod Dramm lại đứng bật dậy.
— Thưa toà, tôi yêu cầu tuyên bố nghỉ đến sáng ngày mai.
Chánh án Markhem nhăn mặt và chậm chạp gật đầu.
— Việc nghe vụ án được hoãn đến sáng mai. Tôi xin nhắc các vị bồi thẩm rằng, họ không được quyền nói về tất cả những gì họ đã nghe thấy ở đây. Cũng như cấm bàn luận vụ án khi có mặt các bồi thẩm, – chánh án gõ búa xuống bàn và đường bệ đi vào văn phòng.
Clod Dramm nhìn hai cảnh sát một cách nhiều ý nghĩa, và những người kia xông đến chỗ Mei Sibli. Mason lao theo sau họ.
— Chánh án Markhem đề nghị cả ba người các ông ghé vào văn phòng của ngài, – ông nói.
Các cảnh sát ngạc nhiên nhìn nhau.
— Đề nghị theo sau tôi, – và Mason đi về phía cánh cửa chánh án vừa vào khuất.
Trên ngưỡng cửa ông quay lại và kêu:
— Ê này Dramm!
Ông kia ngẩng lên và nhìn qua vị luật sư.
— Ngài có thể đi cùng tôi vào gặp ngài chánh án Markhem không?
Sau một chút ngẫm nghĩ Dramm gật đầu và đi về phía họ. Các luật sư đi qua vào văn phòng, Mei Sibli và hai cảnh sát theo sau họ.
Dọc theo tường là những giá đựng sách, ở giữa là chiếc bàn gỗ sồi khổng lồ chất đầy giấy tờ và những quyển sách to mở sẵn. Chánh án Markhem nhìn những người bước vào vẻ dò hỏi.
— Thưa chánh án, – Mason khởi đầu, – người phụ nữ trẻ này là nhân chứng của tôi. Cô được bên bào chữa gọi đến toà. Tôi nhận thấy, theo tín hiệu của Dramm, hai cảnh sát đã xông đến chỗ cô ấy. Tôi có thể yêu cầu ngài giải thích cho nhân chứng của tôi hiểu rằng cô ấy có thể im lặng, trong khi cô chưa bị triệu đến một cách chính thức, còn cho cảnh sát rằng họ không có quyền quấy rầy cô ấy chứ?
Clod Dramm đỏ tía mặt vì tức giân.
— Khi ngài đã khơi vụ này ra, và chúng ta không phải trong phòng xử án, chúng ta hãy làm mọi điều cho nó rành mạch ra.
— Biết sao được, chúng ta bắt tay vào việc thôi.
— Tôi định làm rõ, người ta có trả tiền cho người phụ nữ này hay không thôi. Tôi rất muốn biết, cô ta có đến chỗ lái xe taxi và đòi chỗ ông ta chiếc khăn dường như cô ta bỏ quên trong xe hay không.
— Cứ cho là cô ấy trả lời là thế. Ngài định làm gì tiếp?
— Hẳn tôi cố làm rõ, ai đã trả tiền cho màn vũ hội trá hình được dựng này, còn sau đó sẽ xin lệnh bắt người đó.
— Người đó là tôi. Tôi đã làm điều đó. Và bây giờ thì sao nào?
— Thưa các ngài, – chánh án can thiệp vào, – tôi cho rằng cuộc tranh cãi này dẫn chúng ta đi trệch hướng rồi.
— Ngược lại, – Mason phản đối, – tôi dự đoán rằng ngài biện lí sẽ nói chính những lời ấy, và tôi muốn để chúng tôi giải thích với nhau trước mặt ngài. Tại bang chúng ta không có luật cấm một người phụ nữ đóng vai một phụ nữ khác. Và tuyên bố mình là chủ sở hữu một vật bị mất cũng không phải là phạm tội, nếu trong đó không theo đuổi mục đích chiếm dụng sở hữu của người khác.
— Nhưng chính vì điều đó mà toàn bộ vụ lừa đảo này đã được bày ra! – Clod Dramm kêu lên.
Mason mỉm cười.
— Ngài Dramm, ngài quên rằng khi nhận được chiếc khăn, tôi đã lập tức chuyển ngay nó cho cảnh sát, còn Mei Sibli đã trao nó ngay cho tôi sau khi gặp lái xe. Tôi chỉ kiểm tra trí nhớ ông ta thôi. Đã làm việc với tài xế, hiển nhiên, ngài làm cho ông ta tin rằng vào tối ấy, ông ta gặp bị cáo hai lần, và tôi không hề nghi ngờ rằng, bằng các câu hỏi tôi không thể phủ định được điều đó. Vì thế tôi buộc phải tiến hành một bài học trực quan. Và chỉ có thế. Tôi không vượt ra ngoài giới hạn các quyền được luật pháp cho phép.
Chánh án Markhem chăm chắm nhìn Mason, và trong cặp mắt ông thoáng qua tia lửa vui vẻ.
— Xét mọi nhẽ, ngài đề nghị tôi không phải để xem xét mặt đạo lí của vấn đề này, hoặc để xác định, có sự trộm cắp hay không khi chuyển chiếc khăn. Nếu tôi hiểu đúng, là luật sư, ngài đòi hỏi bảo đảm cho việc nhân chứng của ngài được quyền phát biểu trên toà, còn bên cáo trạng sẽ không làm cho họ sợ.
— Đúng vậy, – Mason đáp, mắt không rời Dramm.
— Vì những hành động tương tự, ngài buộc phải chịu trách nhiệm trước hội đồng tư pháp hiệp hội các luật sư! – Ông ta rống lên.
— Thế thì chỉ tuyệt thôi, ở đấy chúng ta sẽ làm rõ ai đúng ai sai. Còn lúc này, bỏ ngay móng vuốt khỏi các nhân chứng của tôi.
— Các ngài, thưa các ngài, – chánh án Markhem đứng lên từ bên bàn. – Tôi yêu cầu xử sự trong khuôn phép lịch sự. Ngài Dramm ạ, ngài biết rất rõ rằng đòi hỏi của ngài luật sư Mason hoàn toàn là hợp pháp. Nếu bên bào chữa gọi ai đó với tư cách nhân chứng, ngài không nên gây lo lắng cho người đó.
Mặt đỏ bừng, Dramm thở hắt ra.
— Được rồi, – ông ta lầu bầu.
— Nào lại đây, – Mason mỉm cười, nắm lấy tay Mei Sibli và dẫn cô ra phía cửa. Ông vừa mở cửa ra, một chùm ánh sáng chói làm loá mắt họ. Cô gái bật kêu lên và che mặt.
— Đừng sợ, – Mason trấn an cô. – Báo chí cần ảnh cô đấy mà.
Clod Dramm bước ra từ văn phòng.
— Ngài đã cố ý dựng lên toàn bộ chuyện này! – Ông ta quát to. – Ngài muốn được lọt vào trang nhất của báo chí.
Mason mỉm cười thoả mãn.
— Ngài có gì phản đối không?
— Lại còn không! – Dramm kêu lên.
— Đúng thôi, – vị luật sư nhún vai, – đó là quyền của ngài.
Bệch mặt ra vì tức giận, ngài biện lí quay lưng lại và đi ra cửa. Mason ngó Mei Sibli.
— Tôi không muốn để cô nói với cảnh sát, nhưng với các nhà báo cô có thể kể về mọi chuyện.
Ông cúi chào và cũng đi ra cửa. Ngó lại, Mason thấy có năm hay sáu nhà báo túm quanh cô gái, hò hét át lẫn nhau, và tới tấp hỏi cô.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.