Ngày 16 tháng 7
Chúng ta không có cách nào liên lạc với nhau.
Jack nhìn theo vệt khói vạch trên nền trời. Nỗi sợ ăn sâu vào tâm trí anh. Ánh nắng gay gắt chiếu thẳng vào mặt anh nhưng anh thấy mồ hôi lạnh như băng. Anh nhìn lên trời. Tàu con thoi đâu rồi? Chỉ vài giây trước đó, anh đã thấy nó vệt thành hình vòng cung trên bầu trời. Anh đã cảm thấy sức rung của tàu khi nó cất cánh. Khi nó lao vút lên, anh thấy tim mình cũng bay lên theo con tàu, và lơ lửng cùng tiếng gầm của động cơ. Anh nhìn con tàu bay lên trời cho đến khi nó chỉ còn là một chiếc đinh ghim lấp lánh trong nắng.
Anh không thấy nó nữa. Cột khói trắng khổng lồ giờ chỉ còn là một vệt khói đen.
Anh lùng sục tìm kiếm trên trời và chỉ thấy một chuỗi những hình ảnh kỳ quái. Có quầng lửa trên trời, một cái chạc bằng khói ma quái. Những mảnh vụn nổ tung lao ầm ầm xuống biển.
Chúng ta không có cách nào liên lạc với nhau.
Anh tỉnh giấc, thở dốc. Toàn thân đẫm mồ hôi. Bây giờ đã là ban ngày, ánh nắng chiếu qua cửa sổ phòng ngủ của anh.
Anh ngái ngủ, ngồi dậy ở mép giường, lấy tay ôm đầu. Đêm qua anh đã tắt điều hòa nên bây giờ căn phòng nóng như lò thiêu. Anh nhoài người sang bên kia giường để gạt nút, rồi lại nằm vật ra giường và thở khoan khoái khi luồng khí lạnh bắt đầu tỏa ra từ điều hòa.
Một cơn ác mộng cũ.
Anh xoa mặt, cố quên đi cơn ác mộng đó nhưng chúng đã hằn sâu vào tâm trí anh. Khi anh còn là sinh viên năm thứ nhất thì thuyền Challenger bị nổ tung. Hôm đó, anh đang đi dọc hành lang ký túc xá thì đoạn phim đầu tiên về thảm họa đó được chiếu trên ti-vi. Anh đã xem đoạn băng đáng sợ đó nhiều lần và nó ăn sâu vào tiềm thức anh. Ngày hôm sau, và nhiều ngày sau đó nữa, anh cảm thấy nó thật đến mức như thể chính anh đã đứng trên khán đài ở Mũi Canaveral sáng hôm đó.
Giờ ký ức đó lại trở về trong những giấc mơ của anh.
Đó là vụ phóng tàu của Emma.
Trong nhà tắm, anh đứng cúi đầu dưới dòng nước mát lạnh, chờ cho những dư âm còn lại của giấc mơ trôi hết. Bắt đầu từ tuần tới anh sẽ được nghỉ ba tuần nhưng anh đã mong được đi nghỉ từ lâu. Nhiều tháng rồi anh không được đi du thuyền. Có lẽ vài tuần lênh đênh trên biển, tránh xa ánh đèn thành phố sẽ là phương pháp điều trị tốt nhất. Chỉ có anh, biển cả và những vì sao.
Đã lâu lắm rồi anh không thực sự ngắm sao. Dạo này hình như anh tránh không nhìn chúng nữa. Khi còn nhỏ, ánh mắt anh luôn hướng lên trời. Có lần mẹ anh kể rằng khi mới biết đi, một đêm anh đứng trên bãi cỏ, giơ cả hai tay lên, cố với đến mặt trăng. Rồi khi nhận ra không chạm đến nó được, anh hét lên giận dữ.
Mặt trăng, những vì sao, màu đen của vũ trụ. – giờ tất cả đã vượt khỏi tầm tay anh. Giờ anh lại cảm thấy như cậu bé ngày nào, muốn hét lên giận dữ. Chân anh chôn chặt dưới đất mà hai tay vẫn cố vươn lên trời cao.
Anh khóa vòi hoa sen, hai tay tì vào những viên gạch ốp tường. Đầu anh cúi xuống, nước chảy ròng ròng từ tóc anh. Hôm nay là ngày 16 tháng 7, anh nghĩ. Tám ngày nữa Emma sẽ lên đường. Anh thấy nước lạnh ngấm vào da thịt.
Mười phút sau anh đã mặc xong quần áo và ra xe.
Hôm đó là thứ ba, Emma và phi hành đoàn sẽ gấp rút chuẩn bị cho bài huấn luyện phối hợp trong ba ngày. Cô sẽ rất mệt mỏi và chẳng còn tâm trí nào nói chuyện với anh. Ngày mai cô sẽ đến mũi Canaveral. Ngày mai anh sẽ không thể gặp cô được nữa.
Tại Trung tâm vũ trụ Johnson, anh đỗ xe ở khu bãi đỗ của tòa nhà số 30. Anh đưa huy hiệu NASA của mình vào cánh cửa an ninh và đi thẳng đến phòng điều hành. Bên trong, anh thấy không khí rất căng thẳng và gấp gáp. Cuộc diễn tập phối hợp trong ba ngày tới là bài kiểm tra cuối cùng cho các phi hành gia cũng như cho đội điều khiển dưới đất. Nó sẽ tái hiện một chuỗi các rắc rối từ khi phóng tàu đến khi hạ cánh. Các trục trặc được phân loại sẽ được đưa ra khiến tất cả mọi người nháo nhào. Ba ca điều khiển thay phiên nhau trong phòng trong vòng ba ngày qua. Hai mươi người đàn ông và phụ nữ ngồi ở các bảng điều khiển bây giờ trông đều rã rời. Thùng rác ứ lên và chất đầy vỏ cốc cà phê và lon Pepsi. Vài điều khiển viên ngẩng lên chào Jack nhưng nhiều người khác không có thời gian chào hỏi. Họ đang phải xử lý sự cố nguy cấp. Tất cả mọi người đều tập trung vào vấn đề. Sau nhiều tháng, đây là lần đầu tiên Jack đến phòng điều hành trung tâm. Nhưng ngay lập tức anh đã thấy sự hưng phấn ngày xưa. Dường như nó đang lan ra khắp căn phòng khi họ thực hiện công việc.
Anh đến dãy bảng điều khiển số ba, gần Giám đốc điều khiển chuyến bay Randy Carpenter. Lúc này ông quá bận nên không thể nói chuyện với anh. Carpenter là vị linh mục tối cao của các giám đốc điều hành bay chương trình tàu con thoi. Ông nặng một trăm ba mươi lăm cân và sự hiện diện của ông rất rõ rệt trong phòng điều hành. Chiếc bụng phệ của ông hiện rõ sau đai quần. Hai chân dạng ra như một viên thuyền trưởng trên biển đang cố đứng vững trong phòng điều khiển. Trong phòng này, Carpenter là người quản lý mọi việc. Ông như muốn nói “Tôi là một ví dụ điển hình cho thấy một bé bự đeo kính có thể bắt nhịp với sự sống như thế nào”.
Ông không giống giám đốc điều hành bay huyền thoại Gene Kranz. Câu nói “Thất bại không phải là lựa chọn của tôi” của ông đã khiến ông nổi tiếng trong NASA. Ông không được bảnh trai lắm nên không thể trở thành người hùng trong bất cứ sự kiện nào.
Khi nghe cuộc đối thoại trên điện đàm, Jack nhanh chóng xâu chuỗi và hiểu ngay Carpenter đang giải quyết việc gì. Jack đã gặp rắc rối tương tự trong tình huống phối hợp cách đây hai năm. Khi đó anh vẫn làm việc trong đội phi hành gia và chuẩn bị cho chuyến bay số STS 45. Phi hành đoàn tàu con thoi đã thông báo áp suất trong buồng lái giảm mạnh, chứng tỏ không khí bị rò rỉ. Họ không đủ thời gian tìm ra chỗ rò, họ phải rời khỏi quỹ đạo khẩn cấp.
Nhân viên điều khiển động lực học ngồi ở dãy bảng điều khiển đầu tiên tên là Trench. Anh đang khẩn trương vạch ra đường đi cho tàu để xác định điểm hạ cánh an toàn nhất. Không ai coi đây là một trò chơi, họ hiểu trục trặc này có thật và mạng sống của bảy người đang gặp nguy hiểm.
– Áp suất phòng lái đã giảm xuống mười ba phẩy bảy at-mốt-phe. – nhân viên điều khiển môi trường thông báo.
– Căn cứ không quân Edwards. – nhân viên điều khiển động lực học thông báo. – Họ sẽ hạ cánh ở độ cao gần ba trăm kilômét.
– Nếu theo đà này thì áp suất buồng lái sẽ tiếp tục giảm xuống còn bảy at-mốt-phe. – nhân viên điều khiển môi trường nói. – Tôi nghĩ họ nên đội mũ bảo vệ ngay, trước khi bắt đầu vào phòng điều áp.
Chỉ huy liên lạc nhắc lại lời khuyên đó với phi hành đoàn.
– Đã rõ. – chỉ huy Vance trả lời. – Chúng tôi đã đội mũ bảo hiểm. Chúng tôi chuẩn bị đốt nhiên liệu để tách khỏi quỹ đạo.
Dù không muốn nhưng Jack đã bị cuốn vào cuộc chơi gấp rút này. Mỗi giây trôi qua và anh nhìn chằm chằm vào màn hình trước mặt. Trên đó có đường đi của tàu con thoi trên bản đồ thế giới. Dù anh biết mỗi rắc rối đều do đội tái hiện môi trường nhân tạo gây ra nhưng bài tập khắc nghiệt này đã hoàn toàn lôi cuốn anh. Hầu như anh không nhận thấy cơ bắp mình co lại khi quan sát các dữ liệu thay đổi trên màn hình.
Áp suất buồng lái đã giảm xuống mức bảy at-mốt-phe. Họ đã mất sóng điện đài. Tất cả im lặng trong mười hai phút dài dằng dặc sau đó.
Sự ma sát giữa tàu và không khí xung quanh đã cắt đứt toàn bộ liên lạc.
– Atlantis, các bạn nghe rõ không? – chỉ huy liên lạc nói.
Giọng nói của chỉ huy Vance đột nhiên xuất hiện.
– Chúng tôi nghe thấy các bạn rất rõ, Houston.
Một lúc sau, việc hạ cánh diễn ra một cách hoàn hảo. Trò chơi đã hết.
Mọi người vỗ tay trong phòng điều hành bay.
– Được rồi, các bạn! Làm tốt lắm! – giám đốc điều hành bay Carpenter khen. – Các bạn sẽ bị thẩm vấn mười lăm phút. Hãy nghỉ tay ăn trưa! – ông cười, tháo tai nghe và lúc này mới quay sang nhìn Jack. – Này, lâu lắm rồi mới thấy anh đến đây.
– Tôi đông bệnh nhân quá.
– Kiếm tiền khá chứ hả?
Jack cười.
– Đúng vậy. Anh thử nói xem tôi biết làm gì với số tiền kiếm được? – Anh nhìn các điều khiển viên giờ đang thư giãn ở chỗ ngồi của họ, uống sô-đa và đồ ăn trưa đựng trong túi giấy. – Cuộc diễn tập ổn chứ?
– Tôi rất hài lòng. Chúng tôi đã vượt qua mọi khó khăn.
– Còn phi hành đoàn thì sao?
– Họ đã sẵn sàng. – Carpenter nhìn anh thông cảm. – Cả Emma nữa. Cô ấy đang ở trong thời kỳ ổn định nhất, Jack ạ, đừng khiến cô ấy dao động. Lúc này cô ấy cần tập trung. – Đây không chỉ là lời khuyên của một người bạn, mà là lời cảnh cáo: Hãy tự lo những vấn đề cá nhân của riêng anh. Đừng mang bài giảng đạo đức ra làm phiền phi hành đoàn của tôi!
Jack đã bị khuất phục, thậm chí thấy hối hận khi anh đứng bên ngoài, vã mồ hôi chờ Emma ra khỏi tòa nhà số 5. Đó là khu nhà thực hiện các cuộc diễn tập. Cô bước ra cùng những người khác trong phi hành đoàn. Rõ ràng họ vừa nói chuyện tếu cho nhau nghe vì tất cả đều đang cười. Nhưng khi thấy Jack, nụ cười của cô phụt tắt.
– Em không biết anh sẽ đến. – cô nói.
Anh nhún vai, ngượng ngùng nói.
– Anh cũng không nghĩ là mình sẽ đến.
– Nghỉ mười phút. – Vance giao hẹn.
– Tôi sẽ đến. – cô nói. – Các bạn đi trước đi! – cô chờ cả đội đi khuất, rồi quay lại nhìn Jack. – Em phải đi cùng họ. Nghe này, em biết lần phóng tàu này khiến mọi việc phức tạp. Nếu anh đến đây vì vụ giấy tờ li hôn thì em hứa sẽ ký ngay khi trở về.
– Anh đến không phải vì chuyện đó.
– Vậy thì có chuyện gì?
Anh dừng lại.
– À… con Humphrey. Bác sĩ thú y của nó tên gì? Phòng khi nó nuốt một búi tóc hay thứ gì đó.
Cô nhìn anh bối rối.
– Vẫn bác sĩ cũ, bác sĩ Goldsmith.
– Ừ, đúng rồi!
Họ đứng im lặng một lúc, nắng chiếu trên đầu họ. Lưng anh vã mồ hôi. Bỗng nhiên anh thấy cô quá bé nhỏ và dễ bị tổn thương. Nhưng đây lại chính là người phụ nữ được nhảy lên tàu con thoi. Cô có thể vượt anh khi đua ngựa, xoay vòng anh trên sàn nhảy. Đây là người vợ xinh đẹp và dũng cảm của anh.
Cô quay đi về phía tòa nhà số 30. Cả đội đang chờ cô ở đó.
– Em phải đi, Jack ạ.
– Mấy giờ em bắt đầu đến mũi Cape?
– Sáu giờ sáng.
– Cả nhà em sẽ bay đến khu bệ phóng chứ?
– Tất nhiên. – cô dừng lại. – Anh sẽ không đến đó phải không?
Ác mộng tàu Challenger vẫn còn in đậm trong tâm trí anh. Anh vẫn nhớ làn khói đen đầy đe dọa trên trời. Anh không thể đến và xem cảnh tượng đó, anh nghĩ. Anh không thể chịu nổi nếu việc đó xảy ra. Anh lắc đầu.
Cô lạnh lùng gật đầu chấp nhận câu trả lời đó của anh. Cô nhìn anh như muốn nói: Em có thể sống tốt nếu không có anh. Cô đã chuẩn bị cất bước và quay đi.
– Emma! – Anh nắm tay cô, nhẹ nhàng xoay cô về phía mình. – Anh sẽ rất nhớ em.
Cô thở dài.
– Chắc chắn rồi, Jack.
– Anh thực sự nhớ em.
– Mấy tuần qua không nhận được điện của anh. Và giờ anh nói anh sẽ nhớ em ư? – cô cười vẻ chua xót.
Anh thấy đau lòng khi giọng cô có vẻ mỉa mai và chân thật. Mấy tháng vừa rồi, anh đã tránh mặt cô. Thật đau lòng khi ở chỗ nào đó gần cô, vì thành công của cô càng khiến những thất bại của anh thêm nặng nề.
Chẳng còn hy vọng họ có thể giảng hòa được nữa, giờ anh có thể nhận thấy điều đó trong ánh mắt lạnh lùng của cô. Chẳng còn gì để hai người nói chuyện nghiêm túc nữa.
Anh quay đi. Anh bỗng thấy mình không thể nhìn thẳng vào mắt cô.
– Anh chỉ đến đây chúc em có một chuyến đi bình an và tuyệt vời. Hãy vẫy tay với anh khi em bay qua Houston. Anh sẽ dõi theo em. – Trạm vũ trụ quốc tế trông giống một ngôi sao chuyển động, sáng hơn sao Kim và bay trên trời.
– Anh cũng sẽ vẫy tay chứ?
Cả hai cố cười. Cuối cùng đây sẽ là vụ ly hôn dân sự. Anh giang tay ra, cô cúi vào lòng anh và họ ôm nhau. Cái ôm rất cứng nhắc và chóng vánh, như thể họ là những người xa lạ gặp nhau lần đầu. Anh cảm nhận thấy cơ thể cô thật ấm áp và sống động áp vào người anh. Rồi cô quay đi, về phía tòa nhà Điều hành nhiệm vụ.
Cô chỉ dừng lại một lần vẫy tay tạm biệt anh. Nắng chiếu thẳng vào mắt anh khiến anh phải nheo mắt lại. Anh chỉ còn thấy dáng người nhỏ bé của cô, tóc cô bay trong gió. Anh biết chưa bao giờ anh yêu cô như lúc này, khi anh nhìn cô bước đi.
Ngày 19 tháng 7
Mũi Canaveral
Chỉ nhìn từ xa, cảnh tượng đã đủ khiến Emma nghẹt thở. Đứng thẳng trên bệ phóng 39B và ngập trong ánh sáng đèn pha, tàu con thoi Atlantis trông rất hợp với bình chứa nhiên liệu màu cam to đùng và một cặp máy đẩy động cơ tên lửa dạng rắn. Con tàu như cột đèn hiệu khổng lồ trên nền trời đêm đen kịt. Dù đã chứng kiến nhiều lần, nhưng cảnh tượng đầu tiên khi con tàu vút lên khỏi bệ phóng chưa bao giờ khiến cô thôi kinh ngạc.
Những thành viên còn lại trong đoàn đang đứng bên cạnh cô trên đường nhựa cũng im lặng. Họ đã luân phiên nhau ngủ, thức giấc lúc hai giờ sáng hôm đó và rời khu nhà nghỉ để lên tầng ba tòa nhà điều khiển và kiểm tra để chứng kiến cảnh tượng hiếm có của con quái vật khổng lồ sắp đưa họ vào không gian. Emma nghe thấy tiếng kêu của một con chim đi ăn đêm. Cô cảm thấy một cơn gió mát mẻ thổi từ biển Đại Tây Dương, một luồng khí trong lành thổi bay sự tù đọng của vùng đất ẩm ướt vây quanh họ.
– Dường như nó khiến các bạn thấy mình nhỏ bé đúng không? – đội trưởng Vance nói bằng giọng lè nhè của xứ Texas.
Những người khác lầm rầm tán thành.
– Nhỏ như một con kiến. – Chenoweth nói. Anh là một hòn đá lạc lõng trong phi hành đoàn. Đây là chuyến du hành đầu tiên của anh trên tàu con thoi. Anh hào hứng đến mức dường như bao nhiêu năng lượng của anh phát hết ra ngoài. – Lúc nào tôi cũng quên mất là nó lớn mức nào. Rồi sau đó tôi nhìn lại nó và tôi nghĩ về toàn bộ sức mạnh của nó. Tôi thật may mắn khi được là một trong những người lái nó.
Tất cả đều cười vang. Nhưng đó là những tiếng cười vội vã và không thoải mái như tiếng cười của giáo dân trong nhà thờ.
– Tôi chưa bao giờ thấy một tuần trôi qua lại chậm thế. – Chenoweth nói.
– Anh chàng này đã chán làm một kẻ trinh tiết rồi. – Vance trêu.
– Chết tiệt, đúng là như thế đấy. Tôi muốn lên đó. – ánh mắt Chenoweth hau háu nhìn lên trời, lên những vì sao. – Các bạn đều biết bí mật này cả rồi. Tôi không thể đợi để chia sẻ nó được nữa.
Bí mật. Điều đó thuộc về một số ít những người vinh dự được leo lên tàu con thoi. Đó không phải là bí mật mà người ta có thể chia sẻ với người khác, chính bạn phải sống với nó, nhìn tận mắt màu đen của vũ trụ và màu xanh dương của trái đất cách xa bên dưới. Bạn sẽ bị đẩy về sau chỗ ngồi do lực của tên lửa. Các phi hành gia trở về từ vũ trụ thường cười thông cảm. Họ có ánh mắt như thể muốn nói: Tôi đã chia sẻ bí mật về một điều mà ít ai trong loài người biết được.
Emma đã cười như thế khi cô bước ra khỏi cánh cửa tàu Atlantis hai năm trước. Đôi chân yếu ớt của cô đã bước trong nắng, cô đã nhìn lên bầu trời xanh vô tận hôm đó. Trong tám ngày trên quỹ đạo, cô đã nhìn thấy mặt trời mọc một trăm ba mươi lần, đã thấy cháy rừng ở Brazil và mắt bão vờn quanh Samoa. Cô đã thấy trái đất dường như rất mong manh, dễ vỡ. Cô đã trở lại và thay đổi mãi mãi.
Trong vòng năm ngày để ngăn chặn thảm họa, Chenoweth sẽ được biết bí mật đó.
– Đã đến lúc rọi chút ánh sáng vào mắt tôi rồi. – Chenoweth nói. – Đầu óc tôi vẫn cứ tưởng giờ là nửa đêm.
– Đúng là nửa đêm đấy. – Emma thêm vào.
– Với chúng ta thì đây là lúc rạng đông, thưa các vị. – Vance nhắc. Trong số tất cả những người trong số họ, anh là người điều chỉnh nhịp sinh học xảy ra mỗi ngày một lần của mình nhanh nhất cho hợp với thời gian biểu mới quy định giờ dậy và đi ngủ. Giờ anh trở lại tòa nhà Điều hành và Kiểm tra để bắt đầu một ngày làm việc liên tục lúc ba giờ sáng.
Những người khác đi theo anh. Chỉ còn lại Emma nán lại ở bên ngoài một lát, nhìn con tàu. Hôm qua, họ đã xem xét lại bệ phóng để kiểm tra lần cuối các quy trình phóng của phi hành đoàn. Khi nhìn ở cự ly gần dưới ánh mặt trời, con tàu dường như quá sáng chói và vĩ đại đến mức người ta không thể chiêm ngưỡng hết vẻ đẹp của nó. Người ta chỉ có thể nhìn vào một phần của nó một lần. Mũi tàu. Cánh tàu. Những tấm ốp màu đen như vảy bụng của loài bò sát. Dưới ánh sáng ban ngày, con tàu có vẻ thật và cứng cáp hơn. Lúc này, dường như nó không còn ở trên mặt đất nữa mà đang tỏa sáng trên nền trời đen kịt.
Do phải chuẩn bị gấp nên Emma đã không cho phép bản thân cảm thấy một chút sợ hãi nào. Cô đã chắc chắn rũ bỏ mọi lo âu. Cô đã sẵn sàng bay lên. Cô muốn bay lên nhưng giờ cô thấy hơi sợ.
Cô nhìn lên trời và thấy những ngôi sao biến mất sau một đám mây đang kéo đến. Thời tiết sẽ thay đổi. Cô run rẩy, quay lại và đi về phía tòa nhà, về phía có ánh sáng.
Ngày 23 tháng 7
Houston
Sáu ống y tế được luồn vào cơ thể Debbie Haning. Trong cổ họng cô có một ống phẫu thuật mổ khí quản để ép khí ô-xi vào hai lá phổi. Một ống thông mũi được luồn vào lỗ mũi bên trái, xuống ống thực quản rồi vào dạ dày. Ống thông đường tiểu rút hết nước tiểu ra ngoài, hai ống tĩnh mạch khác bơm các chất lỏng vào mạch máu. Trong cổ tay cô có một ống động mạch. Các đường huyết áp liên tục chạy trên máy nghiệm dao động. Jack đã xem những túi truyền nước treo trên đầu giường và thấy chúng chứa đầy chất kháng khuẩn mạnh. Đây là một dấu hiệu xấu, nó có nghĩa là cô ấy đã bị nhiễm khuẩn – bệnh nhân bị hôn mê suốt hai tuần là dấu hiệu bất thường. Mỗi lỗ thủng trên da và mỗi ống nhựa đều là phương tiện trung chuyển vi khuẩn. Trong máu của Debbie giờ đang xảy ra một trận chiến.
Chỉ cần nhìn qua, Jack đã hiểu ngay việc này nhưng anh không nói gì với mẹ của Debbie. Bà đang ngồi bên giường, nắm chặt tay con gái. Khuôn mặt cô trông mềm nhũn, cằm cứng, mí mắt khép hờ. Cô vẫn trong tình trạng hôn mê sâu và không nhận thức được điều gì, kể cả sự đau đớn.
Bà Margaret ngước lên khi Jack bước vào phòng bệnh và gật đầu chào.
– Con bé đã trải qua một đêm khủng khiếp. – Margaret nói. – Nó bị sốt. Họ không biết sao con bé lại sốt.
– Các chất kháng sinh sẽ có tác dụng.
– Rồi sau đó thì sao? Chúng ta sẽ ngăn được bệnh nhiễm khuẩn nhưng tiếp theo sẽ là chuyện gì? – Bà Margaret hít sâu. – Con bé không muốn thế này. Những cái ống, những mũi tiêm. Chắc nó không muốn chúng ta để nó đi.
– Đây không phải là lúc đầu hàng. Điện não đồ của cô ấy vẫn đang hoạt động. Não của cô ấy chưa ngừng hoạt động.
– Vậy thì sao con bé không tỉnh lại?
– Cô ấy còn trẻ. Cô ấy phải sống vì nhiều thứ.
– Đây không phải là sống. – Bà Margaret cúi xuống nhìn tay con gái. Nó tím bầm và phồng lên do những ống truyền nước và những mũi tiêm. – Khi bố nó hấp hối, Debbie đã nói với tôi nó không bao giờ muốn có kết cục như vậy, bị buộc chặt và chăm sóc trên giường. Tôi cứ nghĩ mãi về điều đó, về những gì nó nói…. – bà Margaret lại ngước lên. – Anh sẽ làm gì nếu đây là vợ anh?
– Tôi sẽ không nghĩ đến chuyện đầu hàng.
– Thậm chí nếu cô ấy nói với anh là cô ấy không muốn có kết cục như vậy sao?
Anh suy nghĩ về chuyện đó một lát rồi quả quyết nói.
– Rốt cuộc thì đó cũng là quyết định của tôi. Bất chấp cô ấy hay ai khác nói gì. Tôi sẽ không đầu hàng vì người tôi yêu quý. Không bao giờ, không bao giờ nếu vẫn còn một cơ hội mong manh để tôi cứu được cô ấy.
Lời nói của anh không an ủi được bà Margaret. Anh không có quyền đòi hỏi lòng tin hay bản năng ở bà nhưng bà đã hỏi ý kiến anh và anh đã trả lời bằng trái tim chứ không phải bằng lý trí.
Giờ anh cảm thấy có lỗi. Anh vỗ vai bà Margaret và tới phòng bệnh. Một bệnh nhân hôn mê và bị lây nhiễm có hệ thống nghĩa là người đó đã ở ngưỡng cửa cái chết rồi.
Anh rời bộ phận chăm sóc đặc biệt, buồn bã bước vào thang máy. Thật chán nản khi trải qua một kỳ nghỉ như thế này. Khi thang máy dừng lần đầu tiên, anh quyết định sẽ dừng ở tầng có đại sảnh, chỗ có cửa hàng tạp phẩm để mua hộp sáu lon bia. Điều anh cần ngay lúc này là một cốc bia lạnh và một chuyến du thuyền. Chúng sẽ giúp anh quên Debbie Haning.
– Hôn mê sâu, phòng điều trị đặc biệt! Hôn mê sâu, phòng điều trị đặc biệt!
Anh lập tức ngẩng đầu lên khi nghe thấy thông báo trên hệ thống gọi tên của bệnh viện. Debbie, anh nghĩ rồi chạy vụt ra chỗ cầu thang.
Đã nhiều người có mặt tại phòng điều trị đặc biệt của cô. Anh đẩy cửa vào, nhìn ngay màn hình. Hình thành sợi cơ trên tâm thất! Một bó cơ đang cuộn lên trong tim cô ấy. Tim không thể bơm máu lên não.
– Một epinefrin ampe đang hạ! – một y tá hét to.
– Mọi người lùi lại! – một bác sĩ yêu cầu và áp hai tấm khử rung tim lên ngực.
Jack thấy thân thể Debbie giật mạnh khi các tấm khử rung tim rời ra và thấy đường tim lao mạnh trên màn hình, rồi lại tụt xuống mức thấp nhất. Nó đi theo hình chữ V.
Một y tá đang thực hiện hô hấp nhân tạo. Mái tóc vàng và ngắn của cô rung lên mỗi khi cô ấn mạnh vào ngực bệnh nhân. Bác sĩ thần kinh học Salomon phụ trách chăm sóc Debbie ngẩng lên khi Jack đứng cạnh ông bên giường bệnh.
– Amoidarone đã vào chưa? – Jack hỏi.
– Đang vào nhưng không có tác dụng.
Jack lại nhìn những đường tim. Từ những đường gấp khúc, chúng biến thành những đường rất bằng phẳng và thoái hóa thành một đường thẳng tắp.
– Chúng tôi đã sốc điện cho cô ấy bốn lần. – Salomon nói. – Không lấy lại nhịp được.
– Màng ngoài não thì sao?
– Chúng tôi đã hạ xuống mức thấp nhất. Tiếp tục đi!
Y tá tiêm chuẩn bị một xi-lanh epinefrin và lắp một ống tiêm tim dài vào đầu. Ngay cả khi cầm lấy nó, Jack đã biết là cuộc chiến đấu đã kết thúc. Việc này sẽ không thay đổi được gì. Nhưng anh nghĩ về Bill Haning đang chờ được về nhà với vợ. Và anh nghĩ về những gì anh đã nói với bà Margaret cách đây mấy phút.
Tôi sẽ không đầu hàng vì một người tôi yêu quý. Không bao giờ, không bao giờ nếu vẫn còn một cơ hội mong manh để tôi cứu được cô ấy.
Anh cúi nhìn Debbie và trong một giây phân tâm, khuôn mặt Emma vụt qua tâm trí anh. Anh nuốt nước bọt rồi nói.
– Ngừng ép tim!
Cô y tá bỏ tay khỏi xương ức.
Jack nhanh chóng dùng thuốc Betadine bôi lên da cô và ấn mũi tiêm xuống dưới mẩu xương ức. Mạch anh đập mạnh khi anh chọc mũi tiêm qua da. Anh ấn tiếp mũi tiêm vào ngực rồi nhẹ nhàng ấn một cái.
Một vệt máu tràn vào trong xi-lanh cho anh biết mũi tiêm đã vào đến tim.
Anh vặn mạnh ống bơm, tiêm cả liều epinefrin vào rồi rút tiêm ra.
– Tiếp tục ép tim! – Anh nói rồi nhìn màn hình. Cố lên Debbie! Chiến đấu đi, chết tiệt! Hãy vì chúng tôi đừng đầu hàng. Hãy vì Bill đừng đầu hàng.
Cả phòng im lặng, mắt ai cũng dán vào màn hình. Những đường tim thẳng tắp, từng tế bào cơ tim đang chết dần. Không ai nói một lời, mặt họ đều hiện vẻ thất bại.
Cô ấy còn trẻ, Jack nghĩ. Ba mươi sáu tuổi.
Bằng tuổi Emma.
Bác sĩ Salomon đưa ra quyết định cuối cùng.
– Hãy kết thúc chuyện này. – ông nói. – Thời gian tử vong là 11 giờ 15.
Cô y tá thực hiện ép tim im lặng rời khỏi bệnh nhân. Dưới những bóng đèn phòng bệnh, thân thể Debbie trông như một tấm nhựa bợt màu, như một người nộm. Đó không còn là người phụ nữ lộng lẫy và sống động mà Jack đã gặp cách đây năm năm tại bữa tiệc của NASA được tổ chức dưới bầu trời sao.
Bà Margaret bước vào phòng. Bà đứng im lặng, không nói gì một lúc như thể không còn nhận ra con gái mình nữa. Bác sĩ Salomon khẽ đặt tay lên vai bà.
– Sự việc diễn ra quá nhanh. Chúng tôi không thể làm gì được.
– Lẽ ra nó phải ở đây. – Bà Margaret nghẹn ngào nói.
– Chúng tôi đã cố duy trì sự sống cho cô ấy. – Bác sĩ Salomon an ủi. – Tôi rất tiếc!
– Tôi cảm thấy tội nghiệp cho thằng Bill. – Bà Margaret nói. Bà nắm và hôn bàn tay con gái. – Nó muốn ở đây. Và giờ nó sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân.
Jack ra khỏi phòng bệnh và ngồi thụp xuống ghế trong phòng y tá. Những lời nói của bà Margaret vẫn vang trong đầu anh. Lẽ ra nó phải ở đây. Và giờ nó sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân.
Anh nhìn điện thoại. Mình còn đang làm gì ở đây? Anh tự hỏi.
Anh lấy sổ danh bạ trong bàn của y tá, nhấc điện thoại và quay số.
– Hãng du lịch Lone Star xin nghe. – một phụ nữ trả lời.
– Tôi muốn đi đến mũi Canaveral.