Tuyết sơn phi hồ
Hồi 7 – Phần 3
Chúng tôi vừa tới thì Trại tổng quản bảo hôm nay muốn giới thiệu với chúng tôi một vị danh nổi như cồn trong võ lâm. Trại tổng quản vào nhà trong dẫn ra một người, người này lưng thẳng đứng, dáng đi mạnh, hai mắt sáng, quả nhiên là cốt cách đáng mặt cao thủ võ lâm. Tóc mai tuy đã muối tiêu nhưng diện mạo vẫn cực kỳ tuấn tú, hẳn hồi trẻ phải là trang nam tử điển trai. Trại tổng quản cao giọng nói:
“Thưa anh em, vị này là chưởng môn Bắc Tông của Thiên Long Môn, nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, Ðiền Quy Nông đại ca!”.
Chúng tôi nghe xong đều hơi sửng sốt. Mọi người đều biết danh tiếng Ðiền Quy Nông, duy có điều Thiên Long Môn xưa nay vốn ít qua lại với quan phủ, không biết Trại tổng quản nhờ đâu mà mời được ông ta đến. Trong bữa ăn, Ðiền đại ca cũng khách khí lắm, nói rất nhiều lời khách sáo về mối giao tình song không hề hé một câu nào về nguyên nhân ông tới kinh. Cho tới khi ăn uống xong, Trại tổng quản mời mọi người sang phòng bên uống trà, Trại tổng quản và ông ta mới nói nguyên nhân vì sao.
Thì ra Ðiền đại ca tuy thân tại giang hồ nhưng lòng trung quân báo quốc thì không kém gì chúng tôi là người đang tại chức. Lần này ông tới kinh là vì có một kho báu muốn dâng lên Hoàng thượng. Kho báu này là kho vàng bạc châu báu mà tên phản nghịch Lý Tự Thành vơ vét được ở Bắc Kinh. Ðiền đại ca cho biết muốn tìm kho báu này phải có đủ hai đầu mối, phải ghép hai đầu mối này mới có thể tìm ra. Một đầu mối là thanh bảo đao của Lý Tự Thành hiện do Thiên Long Môn nắm giữ, đại ca đang mang bên mình. Một đầu mối nữa còn khó tìm, đó là bản đồ chỉ nơi cất giấu kho báu, vốn là vật truyền từ đời này sang đời khác của nhà họ Miêu.
Chỉ có bảo đao mà không có bản đồ thì cũng không thể biết kho báu ở chỗ nào.
Nếu như cùng có hai vật báu này đem ghép lại thì việc tìm kho báu dễ như trở bàn tay.
Chúng tôi tuy làm quan nhưng ai nấy vốn đều xuất thân võ lâm. Vừa nghe tới ba chữ “Miêu gia kiếm” đều nghĩ: “Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng nổi danh “Ði khắp thiên hạ không địch thủ” ghê gớm đến thế, ai dám gây sự với ông ta?”. Ðiền đại ca thấy chúng tôi có vẻ ngần ngại thì mỉm cười nói: “Nếu tại hạ không nghĩ tới kế sách đối phó với Miêu Nhân Phượng thì làm sao dám khinh xuất đến đây làm kinh động tới các vị?”. Trại tổng quản vội hỏi kế sách gì, Ðiền đại ca liền trình bày một hồi, khiến người nghe gật gù liền, đồng thanh khen là diệu kế. Diệu kế đó rốt cuộc là gì, khi nào đến lúc, các vị tất biết cả thôi, lúc này không cần nói nhiều.
Ngày hôm sau, Ðiền đại ca từ biệt rời kinh. Trại tổng quản liền sai chúng tôi tiến hành đúng kế. Trại tổng quản suy nghĩ về việc này thấy Ðiền đại ca không muốn làm quan cũng không màng của cải, sao vô duyên vô cớ lại biếu không một món béo bở như thế cho nhà quan? Trong thiên hạ đâu có người tốt đến thế? Trại tổng quản ngờ trong việc này phải có nguyên nhân khác, bèn bí mật cử mấy người đi khỏi kinh do thám. Tôi rời kinh không bao lâu thì được tin Ðiền đại ca bế môn phong kiếm, bèn chuẩn bị lễ vật đến nhà chúc mừng.
Lúc gặp mặt Ðiền đại ca, ông tỏ ra rất vui, nói rằng quý khách đến nhà thật là việc chẳng mấy khi có, sau đó lẳng lặng nhờ tôi làm giúp một việc. n đại ca, việc này nói ra xin đại ca đừng giận, ấy là ông bảo tôi đến gặp phủ quan để vu cho đại ca một tội danh nào đó, nhốt đại ca vào nhà ngục vài ba năm hẵng hay.
Ân Cát giật nảy người, sờn gai ốc, run run hỏi:
– Thì ra Ðiền sư huynh là con người như vậy. May mà được Lưu đại nhân soi xét, không nỡ bắt tội, tại hạ thế nào cũng phải báo đáp cho xứng.
Lưu Nguyên Hạc cười nói:
– Có gì đâu! Lúc ấy tôi hỏi ông ta có thù oán thế nào với n đại ca, mới biết theo quy củ của Thiên Long Môn thì thời hạn người chưởng môn Bắc tông nắm giữ bảo đao đã hết, thanh bảo đao vật báu biểu trưng phải chuyển cho Nam Tông, không trì hoãn, nếu bảo đao rơi vào tay n đại ca mà muốn đòi lại thì không tránh khỏi rắc rối. Lý do đó cũng đúng nhưng tôi bất giác càng nghi ngờ hơn. Lúc ấy tôi chỉ vâng vâng dạ dạ, không ra nhận lời cũng không hẳn từ chối, chỉ đứng sang một bên để xem sự thể ra sao mà thôi.
Sau bữa tiệc, tôi nghĩ thanh bảo đao của Ðiền đại ca thế nào cũng phải chuyển giao, khó mà thoái thác được. Tôi có cách giúp ông trong việc này. Nếu tôi lấy trộm thanh đao giấu đi, Ðiền đại ca ắt không thể bàn giao được. n đại ca dù có bất mãn thì cũng chẳng làm gì được. Ðây đúng là một thời cơ tốt cho tôi lập đại công báo ơn vua, sao có thể dễ dàng bỏ qua? Thế là tôi lẳng lặng lẻn vào phòng Ðiền đại ca, đang định tìm bảo đao thì nghe ngoài cửa có tiếng chân người, thì ra là Ðiền đại ca trở về phòng. Ðang lúc cấp bách, tôi đành nấp dưới gầm giường.
Ðiền đại ca về đến phòng thì mở hòm lấy chiếc hộp sắt ra. Bỗng ông kêu lên:
“Trời, đao đâu rồi?”. Tôi nghe tiếng kêu ấy hoảng hốt khác thường chắc không phải giả vờ. Xem ra thanh bảo đao đã bị ai đó ăn trộm. Ông lập tức gọi con gái vào hỏi. Ðiền cô nương cũng không biết nên rất cuống quýt. Lát sau Nguyễn đại ca vào phòng, hai vị sư huynh sư đệ tranh cãi gay gắt với nhau về chuyện ám muội giữa Tào Vân Kỳ và Ðiền cô nương. Một lúc sau, Ðiền đại ca bảo Nguyễn đại ca đi gọi thế huynh Ðào Tử An đến.
Ðiền đại ca trao chiếc hộp sắt cho Ðào thế huynh, sai thế huynh đem chôn ngoài quan ải. Tôi núp dưới gầm giường nghe rõ mồn một, nghĩ bụng anh chàng ngốc Ðào Tử An phen này mắc bẫy lớn rồi.
Ðào thế huynh đi rồi, tôi ở dưới gầm giường nghe tiếng Ðiền đại ca đập tay xuống giường thở dài, miệng lẩm bẩm: “Gớm thay Hồ Nhất Ðao, gớm thay Miêu Nhân Phượng!”. Lúc ấy, tôi không biết Hồ Nhất Ðao là ai, lại tưởng Miêu Nhân Phượng ăn trộm thanh đao báu. Nhưng hoá ra ông nhận được tờ thiếp của Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ, con trai Hồ Nhất Ðao, tự biết khó tránh khỏi được cái chết, cho nên rất hoảng sợ. Chẳng may đúng lúc này thanh bảo đao lại bị mất trộm, ông không thể cao chạy xa bay, bỏ mặc mọi chuyện.
Rồi Ðiền cô nương trở lại phòng nói: “Cha ơi, con tìm ra tung tích thanh bảo đao rồi!”. Ðiền đại ca bật dậy, kêu lên: “ở đâu?”. Ðiền cô nương bước đến gần nói khẽ:
“Chu sư huynh lấy trộm đây!”. Ðiền đại ca nói: “Thật ư? Hắn đâu? Ðao đâu?”.
Ðiền cô nương đáp: “Chính mắt con trông thấy Chu sư huynh đem bảo đao chôn ở một nơi”. Ðiền đại ca bảo: “Tốt lắm, con mau đi đào lên!”. Ðiền cô nương nói:
“Cha cho gọi Chu sư huynh đến, con nấp sau cửa. Cha hỏi sư huynh xem có ăn trộm bảo đao không. Nếu nhận, con sẽ ghim một trái Ðộc Long Chuỳ vào lưng hắn”. Tôi nghĩ thầm thủ đoạn cô gái này độc ác thật. Lại nghe Ðiền đại ca nói:
“Cha bẻ gẫy bộ giò của nó là được rồi, bất tất phải lấy tính mạng hắn!”. Ðiền cô nương nói: “Nếu cha không theo lời con, con không đi lấy đao cho cha đâu!”. Ðiền đại ca lưỡng lự giây lát rồi nói: “Thôi được, con mau đi lấy đao về đây, xong rồi tuỳ con xử trí nó thế nào cũng được”. Thế là Ðiền cô nương quay người bước ra.
Lúc ấy tôi không biết Ðiền cô nương có thù oán gì với Chu sư huynh của cô, hôm nay nghe Ðào thế huynh kể, tôi mới biết Ðiền cô nương muốn giết người để bịt đầu mối. Hừ, ghê gớm thật! Một cô gái con nhà nổi tiếng mà chôn đứa con hoang, việc ấy cho người khác biết được sao?
Lưu Nguyên Hạc nói đến đây thì mọi người đều chuyển ánh mắt sang Chu Vân Dương. Anh chàng này mặt tái mét, mắt chớp liên hồi.
Rồi Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Tôi quyết định nằm bẹp dưới gầm giường đợi xem màn kịch giết người này, vả chăng tôi còn phải đợi thanh bảo đao. Hơn nữa Ðiền đại ca đang thức nằm trên giường, tôi ra khỏi phòng sao được. Ðợi không lâu sau thì Ðiền cô nương hấp tấp trở vào: “Cha, thanh đao bị hắn đào lên đem đi rồi! Con ngu quá, để chậm một bước. Hắn… hắn còn…” Ðiền đại ca hoảng quá hỏi: “Hắn còn làm gì?”. Thực ra Ðiền cô nương toan nói: “Hắn còn đào cả xác con trai con nữa”, nhưng câu này nói ra sao được? Cô lặng đi một lát, nói: “Ðể con đi tìm hắn!”. Nói xong cô sải chân đi ngay. Chắc vì quá hoảng sợ nên cô chạy đến cửa thì trượt chân ngã nhào.
Tôi phải nín thở đến phát ngạt ở dưới gầm giường. Bảo đao không rõ ở đâu nữa rồi! Tôi đã toan thừa cơ tắt nến chuồn ra, nào ngờ Ðiền đại ca thấy con gái ngã thì chỉ thở dài chứ không xuống giường ra đỡ dậy. Ðiền cô nương đứng được lên, vịn vào khung cửa thở dốc một lát mới đi.
Ðiền đại ca xuống giường đến đóng chặt cửa sổ, ngồi trên ghế. Ông đặt thanh trường kiếm lên bàn, tay cầm cung tên, mặt đanh lại, trông thần sắc ông mà phát sợ. Tôi cũng thấp thỏm lo lắng, nếu để ông phát hiện ra tôi, hẳn ông sẽ trở mặt, dứt tình. Võ công của tôi không bằng ông, e rằng tính mệnh khó bảo toàn.
Ðiền đại ca ngồi im trên ghế chẳng hề động đậy, người cứ đơ ra, riêng con mắt là còn sáng long lanh, chứng tỏ lòng ông buồn bực chẳng yên. Bốn bề im ắng như chết, chỉ nghe xa xa thoang thoảng có tiếng chó sủa, rồi gần đó có tiếng chó sủa inh lên. Chợt con chó ấy kêu”ẵng” một tiếng rồi im bặt như bị ai đó đánh chết bằng một đòn cực mạnh. Ðiền đại ca đứng vụt dậy, ngay lúc đó đã nghe thấy mấy tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa quả là đến nhanh thật vì tiếng chó cắn vang lên cách đấy cũng phải mấy chục trượng. Ðủ biết người vừa đánh chết chó trong nháy mắt đã tới cửa.
Ðiền đại ca trầm giọng hỏi: “Hồ Phỉ, người đến rồi ư?”. Người ngoài cửa nói:
“Ðiền Quy Nông, huynh có nhận ra tiếng tôi không?”. Ðiền đại ca nhợt nhạt cả mặt, run run nói: “Miêu… Miêu đại hiệp!”. Người ngoài cửa nói: “Ðúng đấy, tôi đây!”. Ðiền đại ca hỏi: “Miêu đại hiệp, huynh đến đây làm gì?”. Người ngoài cửa đáp: “Hừ, tôi đưa mấy thứ đến cho huynh đây!”. Ðiền đại ca do dự giây lát rồi đặt cung tên xuống ra mở cửa. Một người đàn ông cao gầy, mặt vàng như nghệ bước vào.
Từ dưới gầm giường, tôi để ý nhìn bộ dạng của ông ta, thầm nghĩ: “Người mang biệt hiệu Ði khắp thiên hạ không địch thủ, nhân vật số một trong võ lâm ngày nay quả là không cần nổi giận ra oai, khí thế thật đáng sợ!”. Tôi nhìn thấy tay ông ta nâng hai thứ đặt trên bàn nói: “Ðây là bảo đao của huynh, còn đây là cháu ngoại của huynh!”. Thì ra một cái bọc dài dài là xác đứa trẻ mới đẻ.
Ðiền đại ca rùng mình, ngã ngồi xuống ghế. Miêu đại hiệp nói: “Ðồ đệ huynh giấu huynh đem đao đi chôn, con gái huynh cũng giấu huynh đem chôn đứa con đẻ hoang. Cả hai đều bị tôi bắt gặp, nay tôi đào lên đem trả huynh”.
Ðiền đại ca nói:
“Cám ơn. Nhà tôi xui xẻo, nói ra thêm xấu hổ”. Bỗng mắt Miêu đại hiệp hoe đỏ, dường như ông khóc, nhưng nay sau đó mặt đã đầy sát khí, nhả từng chữ hỏi:
“Nàng sao mà chết?”.
Chợt nghe “choang” một tiếng, tách trà trên tay Miêu Nhược Lan rơi xuống đất vỡ tan tành. Cử chỉ của tiểu thư vốn tao nhã điềm đạm, không hiểu sao vừa nghe câu đó đã bối rối đến thế. Cầm Nhi vội vàng rút khăn tay ra lau nước trà đổ xuống người tiểu thư, khẽ nói:
– Tiểu thư vào phòng nghỉ một lát đi, đừng nghe nữa!
Miêu Nhược Lan đáp:
– Không, ta phải nghe cho hết đã!
Lưu Nguyên Hạc liếc nhìn cô rồi kể tiếp:
– Ðiền đại ca nói: “Hôm ấy nàng bị lạnh, cảm và ho. Tôi mời thầy lang thăm bệnh, thầy lang bảo không việc gì, chỉ bị cảm gió xoàng thôi, uống một thang thuốc, ra mồ hôi hạ sốt là khỏi. Nhưng nàng kêu thuốc đắng quá, đổ cả thuốc vừa sắc đi, cũng chẳng chịu ăn cơm cháo gì. Thế là bệnh ngày một nặng, tôi mời đến mấy thầy lang song nàng chẳng chịu uống thuốc của ai, lại cũng không ăn, nói thế nào cũng không khuyên nổi”.
Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác thút thít khóc. Bọn Hùng Nguyên Hiến đều lấy làm lạ, không hiểu người đàn bà không chịu ăn và uống thuốc ấy là ai, có quan hệ gì với cả ba người là Ðiền Quy Nông cùng hai bố con Miêu đại hiệp. Còn cha con họ Ðào và người của Thiên Long Môn thì biết người nói đến là phu nhân kế thất của Ðiền Quy Nông. Song vì sao Miêu đại hiệp quan tâm đến chuyện đó, vì sao Miêu Nhược Lan đau buồn thì họ đều không rõ nguồn cơn. Họ đều nghĩ: “Lẽ nào Ðiền phu nhân là thân thích của nhà họ Miêu? Làm sao bấy lâu nay chúng ta chưa hề nghe nói đến?”.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Lúc ấy nằm dưới gầm giường, tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì hết, không hiểu họ đang nói về ai, thầm nghĩ Miêu Nhân Phượng hộc tốc đến đây chẳng qua vì muốn hỏi bệnh tình của một người. Người ấy không chịu uống thuốc, cũng chẳng chịu ăn, chẳng phải làm nũng sao. Nhưng Miêu đại hiệp lại hỏi tiếp: “Nói như thế là nàng không muốn sống nữa sao?”. Ðiền đại ca đáp: “Sau đó tôi thụp xuống đất van xin nàng, nói đến hết hơi khản tiếng mà nàng vẫn cứ trơ trơ”. Miêu đại hiệp hỏi: “Nàng có dặn lại gì không?”. Ðiền đại ca đáp: “Nàng bảo tôi sau khi nàng chết thì đem hỏa táng rải cốt tro lên trên đường đi cho mọi người giày xéo!”. Miêu đại hiệp nhảy dựng lên, nghiêm giọng hỏi: “Huynh có làm theo lời nàng không?”. Ðiền đại ca đáp: “Tôi đưa hỏa tang, cốt tro vẫn giữ ở đây”. Nói rồi, ông đứng lên, lấy từ giường ra một cái hũ sứ nhỏ, đặt lên bàn.
Miêu đại hiệp nhìn cái hũ sứ, vẻ mặt vừa đau buồn vừa giận giữ. Tôi vừa liếc một cái là không dám nhìn vào mặt ông nữa. Ðiền đại ca lại lấy từ trong người ra một cái thoa ngọc đầu phượng đặt lên bàn nói: “Nàng dặn tôi trả cái thoa này cho huynh hoặc giao cho Miêu cô nương, bảo đây là vật gia truyền của nhà họ Miêu”.
Nghe kể đến đây, ai nấy đều nhìn Miêu Nhược Lan. Chiếc thoa ngọc đầu phượng cài trên mái tóc cô hơi rung rung. Ðầu chim phượng chạm tinh xảo vô cùng, mấy hạt ngọc cũng tròn trịa trơn tru, chỉ riêng sắc ngọc đã ngả màu vàng, tựa hồ là đồ cổ trải qua lâu đời vậy.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Miêu đại hiệp cầm chiếc thoa ngọc lên rồi nhổ một sơi tóc trên đầu mình. Ông thong thả xâu sợi tóc qua mỏ con phượng, sợi tóc xuyên xuốt từ đấy ra tới đầu nhọn của thoa, thì ra thân thoa rỗng. Ông cầm hai đầu sợi tóc kéo nhẹ một cái, một bên đầu con phượng bật ra. Chiếc thoa được nghiêng đi cho một viên giấy nhỏ rơi ra.
Miêu đại hiệp vuốt thẳng viên giấy rồi lạnh lùng nói: “Huynh đã thấy chưa?”. Ðiền đại ca tái mét mặt, một hồi lâu mới thở dài.
Miêu đại hiệp nói: “Huynh nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lấy cho được bản đồ này nhưng rốt cuộc nàng đã nhận ra bộ mặt thật của huynh, không chịu nói cho huynh biết đều cơ mật, vẫn trả chiếc thoa ngọc cho nhà họ Miêu. Bản đồ kho báu ở ngay trong chiếc thoa này. Hừm, chắc có nằm mơ huynh cũng không nghĩ ra được!”. Nói xong mấy câu đó, Miêu đại hiệp lại bỏ viên giấy vào một bên đầu chim phượng rồi dùng sợi tóc kéo lại cái lẫy như cũ. Ông dặt chiếc thoa lên bàn, nói: “Tôi dạy ông cách mở đầu con chim phượng rồi đấy nhé. Ông cầm lấy, theo bản đồ mà tìm kho báu!”. Ðiền đại ca đâu dám động đến, chỉ mím chặt môi không nói một lời. Tôi ở dưới gầm giường nhìn ra thấy nôn nóng vô cùng. Bản đồ và thanh bảo đao chỉ cách tôi có vài thước, song không làm sao đoạt được. Còn Miêu đại hiệp thì ngây người nhìn cái hũ sứ rồi thong thả giơ hai tay lên đặt vào lòng. Nét mặt ông trông thật đáng sợ.
Một tiếng rên khẽ vang lên, rồi Miêu Nhược Lan phục xuống bàn khóc nức, chiếc thoa ngọc đầu phượng cài bên mái tóc rung mãi không thôi. Mọi người nhìn nhau, chẳng còn hiểu ra sao.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Ðiền đại ca đập tay xuống bàn nói: “Miêu đại hiệp, huynh cứ việc ra tay, tôi chết cũng không oán”. Miêu đại hiệp cười gằn, nói: “Tôi hà tất phải giết huynh? Người sống chưa chắc đã sung sướng bằng kẻ chết. Nhớ năm nào, tôi và Hồ Nhất Ðao tỉ thí, đánh nhau đến mấy ngày, cuối cùng cả hai vợ chồng họ đều chết mà tôi thì sống. Từ đấy tôi luôn đau buồn rồi cuối cùng mới nghĩ vợ chồng người ta chung thủy yêu nhau, sống chết có nhau, hơn tôi sống một mình trên cõi đời này nhiều lắm. Hừm, tấm bản đồ ấy ở ngay bên huynh bao nhiêu năm mà huynh chẳng hề biết, lại tự tay đưa trả tôi, tôi hà tất phải giết huynh? Cứ để cho huynh bực tức cả đời, như thế chẳng hay hơn sao?”. Nói xong Miêu đại hiệp cầm lấy chiếc thoa, rảo bước ra khỏi phòng. Tuy Ðiền đại ca có cung tên, đao kiếm song đâu dám động thủ.
Ðiền đại ca thở dài, đặt cái xác đứa bé lẫn thanh đao lên giường rồi quay ra cài chặt cửa, lẩm bẩm nói: “Người sống chưa chắc đã sung sướng bằng kẻ chết!”. Ông ngồi trên giường gọi to: “Lan ơi Lan, nàng sẩy chân vì ta, ta cũng lỡ bước vì nàng, làm sao lại khổ đến thế?”. Ngay sau đó nghe “sựt” một tiếng như một vật gì xuyên vào thịt. Ðiền đại ca giãy ở trên giường mấy cái rồi không động đậy nữa.
Tôi giật nảy mình vội chui ra, thấy ông đã đâm mũi tên có cánh vào tim, và đã tắt thở. Thưa chư vị, Ðiền đại ca tự tử chết chứ không phải bị tên bắn mà chết đâu.
Người khiến ông chết chẳng phải Ðào Tử An, càng không phải Hồ Phỉ mà chính là ông. Tôi không quen biết hai người họ Ðào, họ Hồ này nên chẳng cần phải gỡ tội cho họ.
Tôi thấy ông chết rồi liền thổi tắt nến, đang định cầm lấy thanh bảo đao rồi chuồn cho lẹ thì Ðào thế huynh đã đứng ngoài đập cửa, tôi đành lại phải chui vào gầm giường. Sự việc sau đó Ðào thế huynh đã kể rồi. Ðào thế huynh nhặt lấy bảo đao trốn ra quan ải. Tôi ở dưới gầm giường nín thở lâu đến thế lẽ nào uổng công sao? Thêm nữa, vị sư đệ họ Hùng của tôi đây xưa nay vốn có duyên với ẩm Mã Xuyên, thế là anh em chúng tôi cùng đến.
Lưu Nguyên Hạc nói xong, hai tay phẩy bụi trên người, trên tóc tựa hồ vừa mới từ dưới gầm giường chui ra vậy. Ông ta chiêu vài ngụm trà, thần sắc rất thoải mái,đắc ý.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.