Tokyo hoàng đạo án

Cảnh 2: Bức vẽ thứ 12



“Không, không thể như vậy được,” Kiyoshi nói. “Tên giết người chắc hẳn phải đào thoát qua một lối đi bí mật!”

“Anh nói đúng. Nhưng cảnh sát đã kiểm tra mọi ngóc ngách. Không có lối ra nào khác, chả nhẽ hung thủ lại nhảy xuống bồn cầu và thoát ra bằng đường ống à! Không thể nào. Bây giờ hãy xem xét đến xưởng vẽ, có hai điều rất kỳ lạ. Thứ nhất là giường của Heikichi không dựa vào tường như trong hình minh họa. Chúng ta biết là cái giường có thể di chuyển xung quanh phòng, nên điều này là hoàn toàn bình thường, nhưng biết đâu đây lại là đầu mối quan trọng. Thứ hai là Heikichi luôn để râu. Nhưng khi phát hiện ra xác ông ấy, bộ râu đã bị cắt một nửa. Những chứng cứ trên hiện trường cho thấy việc này không thể do ông ấy tự làm mà do người khác dùng kéo cắt. Mấy sợi râu vương vãi gần xác chết nhưng không hề có cái kéo hay dao cạo nào trong xưởng vẽ cả.”

“Heikichi và em trai là Yoshio trông rất giống nhau, có khả năng họ là anh em sinh đôi, thiên hạ đồn rằng người bị giết thật ra là Yoshio. Có thể Heikichi đã viện một lý do để mời em trai đến xưởng vẽ của mình, giết ông em rồi bỏ đi hoặc ngược lại. Mặc dù giả thiết này không được coi trọng lắm, nhưng không thể loại trừ chuyện nhận diện nhầm tử thi bởi vì chưa ai trong gia đình thấy Heikichi không để râu với cái đầu dập nát. Heikichi say mê nghệ thuật đến điên cuồng nên có vẻ như ông ta sẽ làm mọi việc để tạo ra Azoth.”

“Chậc, đó là tất cả những gì được biết về hiện trường. Chúng ta sẽ chuyển sang những chứng cứ vắng mặt của các nghi phạm chứ?”

“Đợi một chút…”

“Gì vậy?”

“Anh giải thích nhanh quá! Tôi chẳng kịp ngẫm các sự kiện.”

“Anh lại đùa tôi rồi!”

“Không. Tôi muốn biết thêm về Heikichi khi bị khóa ở bên trong. Chẳng phải mọi người đã suy nghĩ nát óc về chuyện đó cũng như bí ẩn của những dấu giày ư?”

“Ừ, suy nghĩ suốt bốn mươi năm rồi.”

“Hãy nói thêm cho tôi nghe về xưởng vẽ.”

“Được rồi. Hy vọng tôi có thể nhớ được tất cả các chi tiết. Mái xưởng vẽ cao ngang một tòa nhà hai tầng, cho nên dù dựng đứng giường lên thì cũng không thể với tới trần nhà. Hơn nữa các cửa trời đều có song sắt và không hề có thang trong xưởng vẽ. Ống khói lò sưởi được làm bằng thiếc nhưng nó quá mỏng, vả lại than vẫn đang tiếp tục cháy trong lò, chắc chắn không ai có thể leo qua lối đó được, kể cả ông già Nô-en. Dĩ nhiên có một lỗ trên tường để gắn đường ống nhưng quá nhỏ so với một cái đầu. Đó là tất cả những gì tôi nhớ. Thật sự không có đường khác để ra khỏi xưởng vẽ.”

“Cửa sổ có rèm không?”

“Có một số. Gần giường ngủ ở mạn phía Bắc của xưởng vẽ có tìm thấy một cây gậy dài để đóng mở rèm, cách cửa sổ khá xa.”

“Thế à. Cửa sổ có đóng không?”

“Một số khóa, một số không.”

“Thế còn cửa sổ phía trên vị trí tìm thấy dấu giày của người đàn ông?”

“Nó không khóa.”

“Tôi hiểu. Còn có gì khác trong xưởng vẽ không?”

“Không nhiều lắm, anh có thể thấy rõ trong hình minh họa: Một bàn làm việc, một ít sơn và màu vẽ, vài cái bút, quyển sổ tay mà Heikichi viết những ghi chép của mình, một cái đồng hồ đeo tay, ít tiền mặt và một tấm bản đồ. Tôi nghĩ tất cả chỉ có thể. Không có sách, báo hay tạp chí và cũng chẳng có đài đóm gì cả. Ông Umezawa không muốn bất kỳ thứ gì của đời sống thế tục xâm nhập vào xưởng vẽ.”

“Tôi thấy bức tường của khu nhà có một cánh cổng. Nó có khóa không?”

“Nó có thể khóa từ bên trong, nhưng khóa đã bị hỏng. Có thể giật mạnh và mở cổng từ bên ngoài một cách dễ dàng.”

“Không an toàn cho lắm.”

“Chính xác, rất không an toàn. À, còn nữa, vào lúc bị giết, Heikichi rất gầy do bị mất ngủ thường xuyên và không ăn được nhiều.”

“Hừm. Ông ta ốm yếu và ở trong một căn phòng khóa chặt… bị giết từ phía sau bởi một kẻ thậm chí không buồn làm giả hiện trường cho giống một vụ tự tử. Nào, Kazumi, tại sao anh nghĩ là hung thủ đã khóa xưởng vẽ?”

Tôi đã chuẩn bị sẵn cho câu hỏi này. “À, hãy nghĩ về những viên thuốc ngủ,” tôi trả lời. “Khi Heikichi uống thuốc, ông ấy đang tiếp một hoặc hai vị khách. Vì thế chắc chắn anh phải đoán rằng ít nhất một trong số họ không phải người lạ.”

“Hừm. Ông ấy có bạn bè nào không?”

“Có vài họa sĩ ông ấy đã gặp ở phòng trưng bày de Médicis và mấy người khách ở quán rượu nhỏ tên là Kakinoki. Umezawa liên tục đến đó và quen biết hai khách hàng thường xuyên là: Genzo Ogata, ông chủ một nhà máy sản xuất ma-nơ-canh và Tamio Yasukawa, nhân viên của Ogata. Nhưng họ không phải là bạn bè thân thiết. Một người quen nữa thỉnh thoảng cũng ghé thăm xưởng vẽ nhưng không thể gọi người đó là bạn thân được.”

“Thế còn Yoshio thì sao? Hay Heitaro? Họ biết Heikichi khá rõ.”

“Chứng cứ ngoại phạm của họ đã được xác minh mặc dù họ không có nhiều nhân chứng. Vào đêm ngày 25, Heitaro đánh bài với mẹ và một vài người bạn ghé chơi sau khi phòng tranh đóng cửa. Những người khách ra về lúc 10 giờ 20 phút và hai mẹ con họ lên phòng ngủ trên gác lúc 10 giờ 30 phút. Nếu Heitaro là kẻ giết người, anh ta không thể chạy như bay đến xưởng vẽ của Heikichi trong vòng ba mươi hoặc bốn mươi phút để ra tay được. Ngay cả khi không có tuyết thì cũng rất khó đi từ Ginza đến Meguro nhanh như thế, tuyết rơi dày như hôm đó thì càng không thể. Tuy nhiên, nếu Heitaro âm mưu cùng mẹ giết Umezawa thì họ có thể ra khỏi phòng tranh ngay sau khi bạn bè ra về. Như vậy họ có thể gây án trong khoảng thời gian giả định của vụ giết người. Nhưng động cơ của họ là gì? Heitaro thì có thể cho rằng Heikichi là cha của cậu ấy và hận ông ta vì sự vô trách nhiệm và những đau khổ mà ông ta đã gây ra cho mẹ cậu. Tuy nhiên, Yasue không có lý do gì thù ghét Heikichi; đã có thời gian bà rất gắn bó với ông và bây giờ bà đang là đối tác duy nhất độc quyền kinh doanh các tác phẩm của ông ấy. Đúng là tranh của Heikichi được bán với giá rất cao sau khi ông chết, đặc biệt là sau chiến tranh. Nhưng Yasue không có ràng buộc với Heikichi, cho nên bà ấy không được lợi và sẽ chẳng bao giờ được lợi gì từ cái chết của ông ấy.”

“Ừm.”

“Còn Yoshio, em trai của Heikichi, thì đã đến Tohoku vào ngày 25 tháng Hai và trở về nhà vào khoảng nửa đêm ngày 27. Vào thời điểm vụ giết người, Yoshio đang trên đường đến gặp những người bạn ở Tsugaru. Thực sự ông ta có đến đó. Đây là một câu chuyện dài nhưng tôi sẽ nói qua cho anh các tình tiết chính. Ông ấy có chứng cứ ngoại phạm, nhưng như với một số nghi phạm khác, đặc biệt là đám phụ nữ, bằng chứng ngoại phạm không được chặt chẽ cho lắm. Ví dụ như vợ của Yoshio: bà ở một mình trong khi chồng đi vắng, hai cô con gái đang ở cùng Masako. Bà không có chứng cứ ngoại phạm.”

“Nếu bà ta chính là người mẫu thì sao?”

“Lúc đó bà ta đã 46 tuổi. Không lẽ Heikichi có thiên hướng vẽ một mụ nạ dòng ở tuổi sồn sồn?”

“Hừm…”

“Tiếp đến là cô con gái lớn của Kazue. Cô này đã ly hôn và sống một mình ở Kaminoge, khi đó vẫn là một thị trấn khá hẻo lánh. Kazue cũng không có chứng cứ ngoại phạm. Masako thì ở nhà chính ăn tối với các con gái là Tomoko, Akiko, Yukiko và cùng các cháu gái là Rieko và Nobuyo. Lúc 10 giờ đêm, tất cả đều đi ngủ. Và Tokiko thì ở nhà mẹ đẻ tại Hoya.”

“Ngôi nhà chính có sáu phòng ngủ chưa kể bếp và phòng khách, nơi các cô con gái tập múa ba lê và dương cầm. Phòng ngủ của Masako, Tomoko và Akiko ở tầng trệt. Trên gác, Reiko và Nobuyo chung một phòng gần cầu thang nhất, kế bên là phòng của Yukiko và phòng còn lại của Tokiko. Heikichi chủ yếu sống trong xưởng vẽ của ông ấy.”

“Bất kỳ ai trong số những phụ nữ này cũng đều có thể lẻn ra khỏi phòng mình vào ban đêm, nhưng lại không hề có dấu giày xung quanh ngôi nhà chính. Giả sử nếu họ lẻn ra đường từ cửa trước thì họ có thể đi xung quanh khu nhà và vào qua cổng sau. Sáng ngày 26, Tomoko xúc tuyết ở các bậc cấp đá từ sáng sớm và cho biết chỉ có dấu giày của thằng bé đưa báo, tất nhiên không có nhân chứng nào khác chứng thực lời cô. Masako cũng đã xác nhận rằng buổi sáng khi bà thức dậy, không có bất cứ dấu giày nào gần bức tường bao quanh khu nhà chăng dây thép gai bên trên khiến cho việc men theo hoặc trèo qua tường là hoàn toàn không thể.”

“Vợ cũ của Heikichi, bà Tae, và con gái Tokiko làm chứng cho nhau. Tae nói rằng Tokiko ở chỗ bà ấy vào ngày 25. Trong số các con gái, chỉ có Tokiko có chứng cứ ngoại phạm được người khác chứng thực, nhưng vì đó lại là mẹ ruột nên chứng cứ ngoại phạm của Tokiko không hoàn toàn đáng tin cậy.”

“Tôi hiểu. Vì vậy tất cả đều là đối tượng tình nghi. Nào, thế còn cô người mẫu bí ẩn chưa bao giờ xuất hiện thì sao?”

“Ồ, cảnh sát nghi ngờ rằng dấu giày nữ có thể do một người mẫu để lại. Umezawa thường thuê người mẫu qua Câu lạc bộ Người mẫu Fuyo ở Ginza, hoặc qua một trong những mối quen của Yasue. Nhưng không tìm ra ai làm mẫu cho Umezawa vào ngày 25. Ngoài ra, theo lời Yasue, Umezawa đã rất phấn khích vì tìm được một người mẫu phù hợp hoàn toàn với những gì ông ấy yêu cầu. Ông ta thực sự cảm thấy hạnh phúc vì đã tìm được thiếu nữ trong mơ của mình. Umezawa dự định sẽ dành tất cả nhiệt huyết để hoàn thành bức tranh này, bởi vì nó sẽ là cơ hội cuối cùng để ông ấy làm được việc gì đó lớn lao.”

“Ừm,” Kiyoshi lầm bầm. Cậu ta nhắm mắt và nằm ườn trên tràng kỷ.

“Anh vẫn đang nghe tôi đấy chứ?” Tôi hỏi. “Tôi kể toàn bộ câu chuyện chỉ vì muốn tốt cho anh đấy! Tiếp tục nào!”

“Tất nhiên là tôi đang nghe! Tiếp tục đi nào anh bạn…”

“Cô người mẫu mà Umezawa muốn vẽ là một người cung Bạch Dương, giống với cung chủ đề của bức tranh còn lại, anh nhớ nhé. Ông ấy có thể sử dụng con gái mình là Tokiko, người thuộc cung Bạch Dương, nhưng cảnh sát suy luận rằng Heikichi đã mời một người khác bởi vì người mẫu này chắc chắn phải khỏa thân.”

“Đúng đấy.”

“Vì vậy cảnh sát đã tới tất cả các địa điểm môi giới ở Tokyo để tìm kiếm một người mẫu giống Tokiko. Cuộc điều tra kéo dài một tháng, nhưng họ không tìm thấy ai cả. Sau Sự kiện 26-3, cảnh sát quá bận rộn nên không thể tiếp tục điều tra, vụ Heikichi bị khép lại. Họ kết luận rằng ông Umezawa chắc hẳn đã thuê một cô gái trên đường hoặc trong quán rượu. Có thể cô ta rất cần tiền và sẵn sàng làm mẫu khỏa thân nhưng lại muốn giữ kín chuyện đó. Có thể cô ta đã có chồng. Nhưng dù sao thì người mẫu đó cũng chẳng bao giờ xuất hiện.”

“Tất nhiên là không đời nào nếu cô ta phạm tội!” Kiyoshi lên tiếng.

“Hả?”

“Chậc, hãy cứ cho rằng cô người mẫu đã giết Heikichi,” cậu tiếp tục. “Cô ta có thể che giấu dấu giày của mình bằng giày của đàn ông, đúng không? Do đó…”

“Giả thiết này đã bị loại trừ,” tôi ngắt lời. “Nếu cô ta mang theo một đôi giày nam, chắc chắn cô ta phải mong tuyết rơi. Nhưng không ai biết rằng sẽ có tuyết, tới 2 giờ chiều hôm đó tuyết mới bắt đầu xuất hiện. Mấy cô con gái của Heikichi nói rằng từ khoảng 1 giờ chiều, rèm xưởng vẽ buông kín, thông thường đó là dấu hiệu cho biết có người đang ở cùng cha họ. Tất nhiên là cô người mẫu có thể đi giày của Heikichi nhưng đôi giày của ông ta vẫn còn nguyên ở vị trí hằng ngày nơi tiền sảnh. Cô người mẫu không thể quay lại xưởng vẽ để trả chúng.”

“Nếu như có một người mẫu.”

“Đúng, nếu có một người mẫu.”

“Hung thủ có thể bỏ đi với một đôi giày nam và tạo ra các dấu giày của phụ nữ.”

Tôi gật đầu. “Đúng, rất có thể.”

“Nhưng đợi đã… Nó đã chẳng có nghĩa gì. Nếu hung thủ là phụ nữ và muốn đóng giả đàn ông, ả chỉ cần tạo dấu giày của một người đàn ông. Tại sao kẻ đi đôi giày nam lại cần phải tạo ra dấu giày của phụ nữ nữa nhỉ? Thật là buồn cười!”

“Có gì sai nào?”

“Anh làm tôi điên cái đầu. Anh chẳng khác gì cơn bão tuyết trong ngày 25, ào ào đến rồi đi, bắt đầu và kết thúc. Anh chỉ cần cung cấp dữ liệu cho tôi thôi.”

“Tôi xin lỗi. Anh muốn giải lao không?”

“Không, cảm ơn,” Kiyoshi nói, đưa hai ngón trỏ xoa xoa thái dương.

“Được rồi. Dữ liệu. Chà, không hề có bằng chứng để lại hiện trường. Heikichi là người hút thuốc lá liên tục, cho nên có rất nhiều đầu mẩu thuốc trong gạt tàn. Có một vài dấu vân tay của ông ấy, của người em trai và một số vân tay khác không xác định được, có thể là của những người mẫu ông ấy thuê. Không hề có bất kỳ dấu hiện nào của việc cố gắng xóa dấu vân tay.”

“Ừm.”

“Không tìm thấy hung khí giết người. Chẳng có gì trong xưởng vẽ có thể làm dụng cụ gây án.”

“Có thứ gì gợi ý như lời nhắn lúc hấp hối của Heikichi không?” Kiyoshi hỏi. “Bức vẽ biểu tượng cung hoàng đạo nào đấy chẳng hạn. Ông ấy có thể kéo một bức xuống lúc đang hấp hối và cố gắng chỉ ra dấu hiệu của kẻ giết người.”

“Có lẽ ông ấy không có thời gian.”

“Ừm. Hoặc ông ấy đã cố gắng truyền đạt một thông điệp bằng cách cắt râu của mình…”

“Người ta cho rằng ông ấy đã chết ngay lập tức.”

“Ngay lập tức hả?”

“Đúng,” tôi đáp. “Chà, tôi vừa nói với anh tất cả những gì tôi biết, bây giờ đến lượt anh bắt đầu phần suy luận của mình!”

“Hừm. Tất cả đã có bảy cô con gái và cháu gái bị giết phải không?”

“Phải.”

“Như thế có thể loại trừ họ ra khỏi danh sách nghi phạm.”

“Hãy cẩn trọng, đừng lẫn lộn giữa vụ giết Heikichi với những vụ khác.”

“À, phải. Nhưng từ quan điểm động cơ, đến giờ chúng ta đã có gì rồi? Chà, có những thành viên trong gia đình muốn – hoặc không muốn – xây khu chung cư. Hoặc các cô con gái bằng cách nào đó đã nghe phong thanh về ý tưởng điên rồ muốn tạo ra Azoth và đã giết chết Heikichi trước khi ông giết họ. Hoặc một tay môi giới nghệ thuật tin rằng chuyện giật gân như thế này sẽ làm tăng giá các bức tranh của Heikichi. Hoặc… gì nữa nhỉ?… Kazumi, sau vụ án mạng, tranh của ông ấy bán được giá bao nhiêu tiền?”

“Những bức tranh sơn dầu chủ đề hoàng đạo cỡ lớn có giá trị tương đương cả một căn nhà.”

“Ha! Vậy là mười một bức tranh có thể đổi thành mười một căn nhà?”

“Đúng, nhưng điều đó không xảy ra cho tới hơn mười năm sau. Đầu tiên là chiến tranh Trung – Nhật, sự kiện Trân Châu Cảng, rồi đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không bán được nhiều tranh vào thời điểm này. Sau đó, cuốn Tokyo hoàng đạo án được xuất bản và ngay lập tức bán rất chạy. Tae đã kiếm bộn tiền nhờ cuốn này, rất có thể Yoshio cũng không hề kém cạnh. Lúc đó giá của các bức tranh mới bắt đầu tăng vọt.”

“Tôi hiểu. Câu chuyện có rất nhiều điểm bí ẩn. Chắc hẳn nó gây xôn xao dư luận.”

“Đúng như vậy. Trên thực tế, dư luận xôn xao đến mức có thể viết hẳn một quyển sách về chính hiện tượng xôn xao ấy! Một học giả lớn tuổi cho rằng suy nghĩ của Heikichi bệnh hoạn – đủ khiến cho thần linh phải nổi giận và cái chết khủng khiếp của ông ta chính là biểu hiện của cơn giận đó. Khắp nơi người ta đặt ra vấn đề đạo đức. Một vài kẻ quá khích còn xông vào nhà Umezawa. Người ta đã phải gọi cảnh sát tới. Người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội – nhà truyền giáo, nhà tâm linh, đồng cốt – đổ ra từ mọi ngõ ngách của Nhật Bản.”

“Hay đấy!” Kiyoshi kêu lên, vẻ hứng khởi thoáng hiện ra trên khuôn mặt cậu.

“Vậy anh nghĩ sao? Dựa trên toàn bộ dữ kiện đã có, anh nghĩ kẻ giết Heikichi đã gây án thế nào đằng sau cánh cửa bị khóa?”

“Ồ, dễ thôi,” Kiyoshi vươn vai trả lời. “Hung thủ đã treo cái giường lên trần nhà và làm nó rơi xuống đầu ông ấy.”

“Làm sao anh suy luận như thế được?”

“Chậc, hung khí là một vật phẳng,” Kiyoshi tiếp tục. “Một cái bảng gỗ, thậm chí bề mặt sàn nhà cũng có thể là hung khí. Cũng chẳng có gì là kỳ quái với cái khóa nếu đích thân Heikichi tự khóa cửa. Cảnh sát tìm thấy ghi chép của ông ấy trong đó có nói đến chuyện tự tử, chi tiết rất có lời cho kẻ giết người – hoặc những kẻ giết người – nhưng trên thực tế ông ấy lại chết bởi một đòn đánh vào gáy, nên loại trừ khả năng tự tử. Thành thử chuyện phải như tôi vừa nói thôi.”

“Quá hay! Anh giỏi lắm! Cảnh sát phải mất một thời gian dài để tìm ra điều này.”

“Ý của anh là cảnh sát đã nghĩ đến cái giường rồi phải không? Ồ, tôi thấy nói chuyện mệt rồi…” Kiyoshi thở dài thất vọng.

“Được rồi,” tôi nói, “để tôi giải thích giả thiết đó cho anh. Giường của Heikichi có bánh xe. Bốn người trèo lên mái nhà, gỡ tấm kính ở cửa trời, thả một đoạn dây dài có cái móc ở đầu để móc vào thành giường và kéo lên cao. Họ biết Heikichi – lúc này đang nằm trên giường – sẽ ngủ như chết do tác dụng của thuốc an thần. Họ thả thêm ba đoạn dây nữa, giữ chặt cái giường và bắt đầu kéo cái giường lên phía trần nhà. Họ dự định sẽ đầu độc ông ấy bằng hợp chất xyanua kali hoặc cắt cổ tay ông ấy, hoặc cách gì đó giống như một vụ tự tử khi đã kéo Heikichi lên tầm tay của họ. Nhưng sự việc thất bại: kéo cái giường lên cao hóa ra không dễ dàng gì, họ không thể giữ được nổi thăng bằng. Từ độ cao 15 mét, Heikichi ngã đập đầu và chết.”

“Hay, chính là như thế.”

“Anh đúng là một thám tử giỏi, Kiyoshi ạ. Cảnh sát đã phải mất một tháng để tìm ra điều này.”

“Ừm.”

“Nhưng còn những dấu giày trên tuyết thì sao? Anh nghĩ sao về chúng?”

“Hừm…”

“Thế nào?”

“Đâu phải là chuyện gì to tát, đúng không? Dấu giày tập trung bên dưới cửa sổ bởi vì đó là nơi họ đặt thang. Cần ít nhất là bốn người mới kéo được cái giường lên. Có thể thêm một người nữa dưới đất là năm. Điều này giải thích cho việc có nhiều dấu chân ở ngay chỗ đó. Bọn họ đều là vũ công ba lê đúng không? Có nghĩa là họ có thể đi bằng đầu ngón chân, cẩn thận để giẫm đúng vào dấu chân của người đi trước. Một điều không thể tránh khỏi là dấu chân của họ tạo thành một độ nghiêng, vì vậy người cuối cùng giẫm lên từng dấu chân bằng một đôi giày nam. Lẽ đương nhiên, cách suy luận này đã giới hạn các nghi phạm, đúng không nào?”

“Anh đúng là một thiên tài! Quả là một thiệt hại lớn cho quốc gia khi anh quyết định trở thành một thầy bói nhà quê!”

“Anh biết đấy,” Kiyoshi tiếp tục, “bọn tội phạm hầu như luôn để lại dấu vết.”

“Bởi thế mới có những dấu chân và dấu giày nam giẫm lên mọi dấu vết khác, kể cả dấu của chiếc thang. Anh giỏi thật đấy Kiyoshi ạ, thực sự là rất tuyệt! Tôi không thích nói thế này nhưng thực tế tất cả những điều anh vừa suy luận hoàn toàn đúng như kết quả điều tra. Bí ẩn thực sự bắt đầu từ đó…”

Lời tôi nói dường như làm Kiyoshi tự ái. “Ồ, thật à?,” cậu cong môi. “Hừm. Chà, tôi đói rồi! Chúng ta xuống nhà tìm cái gì ăn thôi.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.