Tokyo hoàng đạo án

Cảnh 2: Chuyến viếng thăm khiếm nhã



Về đến nhà tôi lên giường đi ngủ nhưng đầu óc vẫn không ngừng quay cuồng. Cho dù Kiyoshi nói gì đi chăng nữa thì lúc này tôi vẫn tin rằng Heikichi không hề bị sát hại. Tôi chắc chắn như vậy. Tôi chưa tìm ra cách nào khác để giải thích bí ẩn này. Chắc chắn ông ta phải giết một người giống hệt mình, sau đó… thoát ra khỏi xưởng vẽ chăng? Không, ông ta không thể khóa trái cửa từ bên ngoài. Thế nếu Masako và các con gái của mình sát hại người giống hệt Heikichi – lúc này đã bị nhốt trong phòng – vì họ tin rằng họ đang xuống tay với Heikichi thì sao?

Đúng, chính là như vậy!

Để xây một chung cư trên mảnh đất của họ, Masako cùng các con và cháu gái lên kế hoạch sát hại Heikichi, nhưng hóa ra họ lại giết nhầm người. Sau đó Heikichi hăm dọa Kazue, vốn cũng là một trong số các thủ phạm, nói rằng ông ta sẽ tố cáo họ với cảnh sát… sau đó ép cô ta dụ dỗ viên cảnh sát để đổi lại một chút an toàn.

Hay lắm, âm mưu đó thật hoàn hảo!

Giả thiết của Takegoshi không thể lý giải được bí ẩn vụ án mạng của Kazue nhưng của tôi thì lại có thể. Heikichi biết rõ tội của đám phụ nữ và quay sang đe dọa Kazue! Nhưng tai sao lại phải giết cô ấy? Chà, chỉ có kẻ điên mới làm điều đó vì không có lý do gì để phải giết Kazue cả. Những người không tin rằng Heikichi đã chết đều cho rằng ông ta sử dụng em trai mình là Yoshio làm người thế mạng, nhưng tôi nghĩ sử dụng một người lạ mặt thì khả dĩ hơn. Sau khi hoàn thành việc giết người, Heikichi có thể trở thành vô hình, trốn tới đâu đó và tiếp tục tạo ra Azoth…

Tôi cần tìm ra bằng chứng cho thấy Heikichi cẫn còn sống sau vụ án. Khi đó, tôi sẽ sẵn sàng bác lại luận điểm của Kiyoshi. Đúng! Từ ngày mai, tôi sẽ đóng vai Sherlock Holmes và Kiyoshi sẽ là bác sĩ Watson!

Cuối cùng, thỏa mãn với kết luận của mình, tôi cũng lăn ra ngủ.

Ngày hôm sau, tôi hỏi Kiyoshi xem cậu có thu hoạch gì mới không. Thay vì trả lời cậu chỉ làu bàu trong miệng. Tôi đoán rằng cậu sẽ kinh ngạc khi tôi nói ra ý tưởng của mình.

“Anh vẫn nghĩ rằng đám phụ nữ kéo chiếc giường lên trần nhà sao?” Kiyoshi vặn lại ngay. “Giết kẻ thế mạng ông ấy à? Làm cách nào Heikichi có thể nhốt người đó trong xưởng vẽ? Đám phụ nữ sống ngay sát bên, họ sẽ nhận ra có chuyện bất thường. Theo giả thiết của anh, Heikichi sẽ phải đợi cho tới khi kẻ thế mạng mọc râu trong lúc dạy người đó vẽ!”

“Dạy vẽ ư?”

“Dĩ nhiên. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu kẻ thế mạng không biết vẽ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đám phụ nữ nhìn thấy một kẻ vẽ quả dưa chuột trong khi mắt nhìn quả bí ngô? Thật ngớ ngẩn!”

Kiyoshi châm chọc khiến tôi nổi khùng. “Thế anh giải thích sao về vụ Kazue?” Tôi thách thức. “Anh không có ý kiến gì, phải không? Takegoshi cũng không có. Tôi tin suy luận của mình là đúng, ít nhất cho tới khi anh đưa ra một ý tưởng hay ho hơn.”

Kiyoshi im lặng. Chắc phản ứng của tôi làm cậu bất ngờ. Vì thế tôi tiếp tục. “Sherlock Holmes đã giải quyết xong vụ này và tiếp tục sang phần sau. Hãy thử nhìn anh xem: cả ngày chỉ nằm dài trên trường kỷ. Tại sao anh không năng động lên một chút nhỉ?”

“Sherlock Holmes á? Là ai thế?” Kiyoshi hỏi, ngừng lại để gây hiệu quả. “Ồ, ý anh là cái tay người Anh khôi hài – cái gã dối trá, lỗ mãng và nghiện ma túy cứ luôn nhầm lẫn giữa sự thật với tưởng tượng ấy hả?”

Tôi không thể tin vào tai mình. Rồi nổi cáu thật sự và quát ầm lên, “Thế còn anh là gì chứ? Thám tử cừ nhất thế giới ư? Làm sao anh dám cười nhạo ông ấy? Làm sao anh dám gọi ông ấy là kẻ lỗ mãng chứ? Làm sao anh dám gọi ông ấy là kẻ dối trá chứ?”

“Ồ, anh đúng là một gã người Nhật dại dột điển hình, Kazumi ạ. Cảm nhận về giá trị của anh hoàn toàn dựa vào cảm tính.”

“Anh không cần phải phê phán tôi, xin cảm ơn. Hãy giải thích tại sao anh lại nghĩ Holmes là kẻ dối trá. Và tại sao anh lại bảo ông ấy là lỗ mãng?”

“Chậc, có rất nhiều lý do để khẳng định… Để tôi xem nào… Anh thích vụ nào nhất trong các vụ án của Sherlock Holmes?”

“Tôi thích tất!”

“Thì cứ chọn một vụ đi.”

“Được rồi… Dải băng lốm đốm. Chính là vụ mà ngay Arthur Conan Doyle cũng thích, và là câu chuyên nổi tiếng nhất của ông ấy.”

“Ồ, vụ đó à! Một vụ khó hiểu nhất trong số tất cả các vụ của ông ấy. Đó là câu chuyện về một con rắn, đúng không? Nếu anh nhốt con rắn trong một hộp kín, nó sẽ chết ngoẻo vì thiếu dưỡng khí. Giả sử nó có sống được trong đó, thì rắn cũng không hề thích sữa. Anh đã bao giờ nhìn thấy có loài bò sát nào cho con chúng bú sữa chưa? Chỉ động vật có vú mới làm như vậy. Và còn chi tiết người dùng còi để điểu khiển rắn nữa chứ? Thực tế thì rắn không thể huấn luyện được. Chúng không có tai, làm sao nghe và tuân theo hiệu lệnh của con người được? Đó là những kiến thức hết sức sơ đẳng. Có phải là Holmes rất ngớ ngẩn hay đại loại như thế không nào? Các tình tiết rất phi thực tế nên tôi buộc phải cho rằng câu chuyện do bác sĩ Watson dựng lên. Ông ta viết ra nó cứ như thể ông ta ở cùng với Holmes, nhưng có lẽ Holmes chỉ tình cờ có ý tưởng khi loáng thoáng nghe hóng ở đâu đó thôi. Holmes là người nghiện ma túy và ông ấy kể với Watson bất kỳ chuyện cũ gì nảy ra trong đầu mình. Thực tế, nhìn thấy rắn cũng là một ví dụ điển hình của người đang bị ảo giác.”

“Holmes có thể đoán được nghề nghiệp và tính cách của một người chỉ với cái liếc mắt đầu tiên. Ông ấy cảm nhận nhạy bén hơn anh nhiều.”

“Ờ, tôi bó tay với khả năng suy luận của gã thám tử ấy! Thật là gượng gạo! Chẳng hạn, trong vụ án bộ mặt vàng vọt, khách hàng tìm thấy một cái tẩu và Holmes bắt đầu suy luận về chủ nhân của nó. Theo Holmes, chủ nhân rất nâng niu cái tẩu này, bời vì ông ta đã sửa nó, tiền sửa ngang với giá của chính cái tẩu. Holmes cũng nói rằng chủ nhân thuận tay trái vì ông ta châm tẩu bằng lửa đèn chứ không phải bằng diêm, nên phải dùng tay trái giữ tẩu. Do đó, cái tẩu bị sém ở mé bên phải. Chắc chắn, nếu cái tẩu giá trị với chủ nhân của nó đến vậy thì ông ta cũng không bất cẩn đến độ để nó bị sém lửa. Thêm nữa, nếu anh dùng tẩu thì anh sẽ dùng tay nào? Anh sẽ không dùng tay thuận của mình, đặc biệt nếu anh hút trong khi làm việc khác. Cho nên chúng ta không thể xác định được liệu người đó có thuận tay trái hay không. Chỉ có Watson mới chấp nhận kiểu suy luận mơ hồ của Holmes. Chậc, có lẽ đó chỉ là một trò đùa – hay một ví dụ về khiếu hài hước dở ẹc.”

“Còn gì nữa nào?… Holmes là bậc thầy về cải trang phải không? Ông ấy ăn mặc như một bà già, đội mái tóc bạc giả, đeo lông mày giả, tay cầm ô, và đi dạo. Anh có biết Holmes cao chừng nào không? Hơn 180 cm! Rõ ràng, bà già đó trông chẳng khác gì một gã đàn ông – hay một con quái vật! Tất cả mọi người ở London chắc chắn sẽ ngã lăn trên sàn và cười gào lên: Kia chính là ông Sherlock Holmes ngớ ngẩn! Chỉ có Watson mới không nhận ra.”

“Watson nói Holmes có thể là một võ sĩ đấm bốc rất cừ. Làm sao ông ta biết được điều đó? Có lẽ Holmes, một kẻ nghiện ma túy, thỉnh thoảng lại nổi hung và đánh ông ta. Tội nghiệp bác sĩ Watson! Nhưng ông ta chẳng thể nào bỏ Holmes, vì Holmes cung cấp cho ông ta tư liệu để viết truyện. Chắc Watson phải rất cố gắng để làm cho Holmes vui vẻ. Mỗi lần Holmes trở về sau khi đi dạo, Watson lại phải vờ như không biết đó chính là ông ấy. Đó là cách Watson kiếm sống. Sao nào? Có chuyện gì không ổn với anh à, Kazumi?”

“Sao anh dám nói những điều như thế chứ? Thật là báng bổ! Anh sẽ chịu nghiệp báo rất nặng bạn ạ!”

“Ôi, phù! Mà nhân tiện, anh nói rằng tôi kém Holmes trong việc phỏng đoán tính cách của ai đó, anh nhầm rồi. Tôi nghiên cứu tử vi và tin rằng đó là cách tốt nhất để biết về mọi người. Tôi cũng nghiên cứu bệnh học tâm thần và dĩ nhiên là cả thiên văn. Để biết tính cách ai đó, tốt nhất là hỏi thời gian họ chào đời. Một số khách hàng không biết chính xác họ chào đời khi nào. Chậc, tôi có thể dễ dàng đoán ra ngày sinh của họ xét từ tính cách và ngoại hình. Anh thấy đấy, tôi gần như luôn đoán đúng. Một khi tôi có đủ dữ kiện, tôi có thể khám phá được tính cách khách hàng. Holmes sinh ra tại Anh quốc, ông ấy cũng không hề nghiên cứu tử vi. Đó là điều đáng tiếc. Tử vi sẽ giúp ông ấy làm việc tốt hơn.”

“Tôi biết anh tinh tường về xét đoán tính cách con người,” tôi đáp, “nhưng anh biết gì về thiên văn nào?”

“Làm sao tôi có thể trở thành một nhà chiêm tinh nếu tôi không hiểu gì về thiên văn chứ? Ồ, tôi hiểu, anh hoài nghi bởi vì anh chưa bao giờ thấy tôi nhìn vào kính thiên văn. Chà, tôi có một cái đấy, thực tế thì nó vô dụng tại Tokyo; thứ duy nhất chúng ta có thể nhìn thấy ở đấy là các phân tử sương lẫn khói. Tuy nhiên, thông tin của tôi tương đối cập nhật đấy. Ví dụ nhé, tất cả chúng ta đều biết rằng Sao Thổ có vành khăn xung quanh. Anh có biết hành tinh nào tương tự như vậy trong hệ mặt trời không?”

“Chẳng còn hành tinh nào nữa.”

“Anh nhầm rồi. Đó là kiến thức cách đây vài thập kỷ. Chẳng sao cả, người Nhật còn nghĩ rằng có con thỏ ngọc đang giã bột làm bánh trên mặt trăng[1]. Anh không tin chuyện đó đúng không?”

[1] Theo truyền thuyết, người Nhật tin rằng có thỏ ngọc sống trên mặt trăng vì thế khi ngắm trăng họ thường tưởng tượng như đang thấy hình chú thỏ đang ăn bánh bao, hoặc đang giã bánh Tsukimi Dango. Bánh Dango là loại bánh được làm từ bột gạo, bánh tròn mềm, với sốt mặn, ngọt đặc trưng, thường được xiên vào que tre, và ăn kèm với nước trà xanh.

Tôi không trả lời.

“Tôi không có ý làm mếch lòng anh đâu, Kazumi, nhưng mỗi phút trôi qua, nghiên cứu khoa học lại tiến bộ thêm. Sớm hay muộn, các trường tiểu học cũng sẽ dạy trẻ con về cách di chuyển của sóng điện từ trong vũ trụ cũng như sự liên quan giữa trọng lực, thời gian và không gian. Trong tương lai không xa, bọn trẻ sẽ nhìn chúng ta như đám khủng long. Giờ ta trở lại với hệ mặt trời nhé, sao Thiên Vương cũng có vành khăn, Sao Mộc cũng thế. Nhưng sự thật này mới được phát hiện mà thôi. Tôi xin hân hạnh được thông báo những tin tức mới mẻ này.”

Trông Kiyoshi khá nghiêm túc, nhưng tôi thấy câu chuyện của cậu nghe rất đáng nghi. “Đồng ý là anh hiểu biết về Holmes và thiên văn học,” tôi nói, “vậy theo anh ai là thám tử giỏi nhất nào? Anh đã bao giờ đọc loạt truyện về cha Brown[2] chưa?”

“Ai cơ? Tôi chẳng biết gì về mấy người Công giáo.”

“Thế còn Philo Vance[3]?”

“Cái gì? Loại xe tải nào cơ?”

“Còn Bà Jane Marple[4] nữa?”

“Như trong xi rô quả thích ấy à?[5]

“Vậy thanh tra Maigret[6]?”

“Ông ta là cảnh sát ở Meguro[7] à?”

“Hercule Poirot[8]?”

“Nghe như tên một loại rượu nào đó.”

“Thám tử Dover[9]?”

“Ý anh là một loại cá à? Không.”

[2] Nhân vật trong loạt truyện trinh thám của nhà văn người Anh Gilbert Keith Chesterton (1874 – 1936). Cha Brown phá án thông qua quá trình lý luận chặt chẽ quan tâm nhiều hơn tới chân lý tâm linh và triết học chứ không phải là chi tiết khoa học, khác với phương pháp của Sherlock Holmes, phương pháp Cha Brown có xu hướng trực quan hơn là suy diễn.

[3] Nhân vật thám tử trong loạt truyện trinh thám của nhà văn Mỹ Willard Huntington Wright (1888 – 1939).

[4] Nhân vật nữ thám tử nghiệp dư trong loạt truyện trinh thám của nhà văn người Anh Agatha Christie (1890 – 1976)

[5] Ở đây tác giả chơi chữ. Cái tên “Vance” khi đọc, có âm phát ra giống với danh từ “vans” (hình thái số nhiều của từ xe tải) trong tiếng Anh. Còn Marple đọc giống từ “maple” (xi rô quả thích).

[6] Cảnh sát thám tử người Pháp, nhân vật torng loạt truyện trinh thám của tác giả người Bỉ Georges Simenon (1903 – 1989).

[7] Ở đây tác giả chơi chữ. Cái tên “Maigret” theo phiên âm tiếng Nhật thì nó sẽ được đọc là “Ma-gu-rê,” nghe từa tựa như Maguro vừa có nghĩa là cá ngừ đại dương vừa là một địa danh ở Nhật Bản.

[8] Thám tử tư người Bỉ, nhân vật trong loạt truyện trinh thám của nhà văn người Anh Agatha Christie.

[9] Nhân vật thám tử ở Sở cảnh sát Metropolitan trong loạt truyện trinh thám của tác giả người anh Joyce Porter (1924 – 1990).

“Tôi chẳng biết nói thế nào với anh nữa. Anh chưa hề đọc bất kỳ chuyện trinh thám nào trong số này, thế mà vẫn khăng khăng cho rằng truyện của Sherlock Holmes là vớ vẩn.”

“Tôi đâu có nói tôi không thích Holmes. Thực tế, Holmes là một trong những thám tử tôi yêu thích nhất. Tôi thích tính hài hước của ông ấy. Chúng ta sẽ không đời nào quan tâm đến những người hành xử như những cái máy tính, phải không? Holmes cho chúng ta thấy một con người thật sự là như thế nào. Xét theo khía cạnh đó thì ông ấy rất tuyệt.”

Phần bổ sung của Kiyoshi khiến tôi ngạc nhiên, cho dù nó có phần châm biếm. Tôi cảm thấy khá xúc động. Thấy tôi mỉm cười, cậu vội vã nói thêm, “Nhưng có một điều tôi thật sự không đồng ý với Holmes: việc ông ấy dính líu đến chính phủ Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Holmes bào chữa cho việc bắt giữ các gián điệp của Đức, nhưng lại phớt lờ sự thật là Anh quốc cũng có cả gián điệp. Nếu anh xem bộ phimLawrence xứ A rập, anh sẽ thấy nước Anh rất hai mặt trong chính sách ngoại giao với Arập. Thậm chí nhìn xa hơn về quá khứ xem Anh quốc đối xử với người Trung Quốc ra sao trong Chiến tranh Nha phiến. Làm sao Holmes có thể bào chữa cho những hành động đê tiện nhường ấy? Lẽ ra Holmes đừng bao giờ tham gia vào các tội ác chính trị của quốc gia. Anh có thể ngụy biện rằng chính tình yêu tổ quốc đã thôi thúc Holmes, nhưng công lý phải đặt lên trên lòng yêu nước. Danh dự của Holmes đã bị hủy hoại vào những năm cuối đời. Khi cùng với Moriarty ngã xuống thác nước, chắc chắn Holmes đã chết. Kẻ mà chúng ta biết đến như là Sherlock Holmes sau sự cố đó là một kẻ mạo danh mà Anh quốc dùng để tuyên truyền. Thực tế thì, chúng ta có thể thấy…”

Bài giảng của Kiyoshi bị ngắt quảng bởi tiếng gõ cửa dồn dập. Chúng tôi chưa kịp trả lời thì vị khách đã lao vào văn phòng. Đó là một người đàn ông to béo trạc 40 tuổi mặc bộ vét sẫm màu.

“Cậu là Mitarai phải không?,” Ông ta hỏi tôi.

“Không, không phải tôi,” tôi lo lắng đáp.

Quay sang Kiyoshi, ông ta rút tấm thẻ từ trong túi ra như thể một doanh nhân đang khoe ví của mình. Bằng một giọng trầm, ông ta giới thiệu tên mình là Takegoshi.

Ngay khi nhận ra tấm thẻ ngành cảnh sát, Kiyoshi thay đổi thái độ. “Vậy ngài từ chỗ cảnh sát tới! Chà, đây quả là một sự ngạc nhiên ngoài mong đợi! Một người trong chúng tôi đây sẽ nhận được vé phạt đỗ sai chỗ phải không? Đây là lần đầu tiên tôi được xem một tấm thẻ ngành cảnh sát xịn đấy.”

“Cậu không biết phải nói năng ra sao với người hơn tuổi à?” Takegoshi đột ngột nói. “Thời buổi này, đám trẻ không còn biết đến cách ứng xử cho phù hợp. Đó là lý do tại sao chúng tôi bận rộn đến vậy.”

“Theo phép ứng xử phù hợp thì một vị khách phải đợi cho tới khi được mời mới vào chứ không nên tự tiện lao vào như thế. Vậy quý ngài muốn gì? Nói nhanh cho tôi xem nào. Chúng tôi không muốn lãng phí thời gian của ngài hay của chính mình đâu ạ.”

“Cái gì? Thật kinh ngạc! Cậu có biết tôi là ai không? Cậu luôn nói chuyện với người khác như vậy đấy hả?”

“Chỉ với những người không được giáo dục về ứng xử xã hội như ngài thôi. Nói cho tôi xem ngài muốn gì. Và nếu quý ngài đây muốn xem bói thì cho tôi biết ngày sinh tháng đẻ đi.”

Takegoshi bối rối, nhưng không thay đổi thái độ kẻ cả của mình. “Cậu đã gặp em gái tôi phải không?” Ông nói, giọng hơi giận dữ. “Tên nó là Misako Iida. Tôi biết nó đến gặp cậu.”

“À!” Kiyoshi đáp, đột ngột cao giọng. “Bà ấy nói có một người anh trai và chắc đó là quý ông lịch lãm này! Ngạc nhiên chưa! Hẳn ngài đây được nuôi dạy trong môi trường khác hẳn với em gái mình, anh có nghĩ vậy không Ishioka?”

“Tôi không biết tại sao nó lại tới gặp một gã thầy bói rẻ tiền như cậu. Nó đã mang bản ghi chép của cha tôi tới đây, phải không? Đừng có chối!”

“Tôi chưa hề phủ nhận nhé.”

“Em rể tôi bảo cho tôi biết như vậy. Phần ghi chép đó là một bằng chứng quan trọng. Tôi muốn lấy lại!”

“Vì tôi vừa mới đọc xong nên có lẽ tôi sẵn sàng hoàn trả nó cho ngài, nhưng như thế em gái ngài có chấp nhận được không nhỉ?”

“Nó không quan tâm. Tôi yêu cầu trả lại cho tôi ngay lập tức!”

“Vậy là ngài chưa nói với em gái mình về việc này. Chà, có thật bà ấy muốn tôi giao nó cho quý ngài đây không nhỉ? Ông Bunjiro Takegoshi sẽ nói sao nếu ông ấy còn sống? Tôi không nghĩ tôi có thể hoàn trả bản ghi chép đó cho dù ngài có đề nghị tôi một cách nhã nhặn.”

“Đồ khốn kiếp! Cậu phải biết rằng tôi có thể ra tay đấy.”

“Ra tay kiểu gì nào? Chắc chắn phải là một cung cách rất lịch thiệp. Anh nghĩ sao Ishioka? Còng tay chúng ta lại chăng?”

“Thái độ của cậu rất khác hẳn với cách chúng tôi được dạy dỗ. Cậu nên học hỏi lễ độ một chút, cậu nhóc ạ.”

“Tôi không còn trẻ như ngài nghĩ.” Kiyoshi đáp và ngáp dài.

“Tôi rất nghiêm túc. Cha tôi sẽ không thể yên nghỉ nếu cậu tiếp tục chơi trò thám tử tư với cuốn sổ của ông ấy. Điều tra hình sự không phải là một trò chơi trong nhà. Chỉ có bỏ công miệt mài cặm cụi mới mang lại thành công.”

“Ông đang nói về quá trình điều tra vụ án mạng hoàng đạo Tokyo phải không?”

“Án mạng hoàng đạo à? Là cái quái gì vậy, tên một cuốn truyện tranh à? Người ta cứ nhảy bổ lên vì bất kỳ cái gì nghe giật gân và cứ nghĩ mình là các thám tử tư. Họ cho rằng việc đó dễ dàng và thú vị, nhưng nghề thám tử thật sự rất nghiêm túc. Chúng tôi là dân chuyên nghiệp chứ không phải như cậu và cuốn sổ đó rất cần cho việc điều tra của chúng tôi.”

“Nếu tất cả chỉ cần miệt mài cặm cụi thì nghề thám tử chính là công việc tốt nhất dành cho con trai ông bán giày. Nhưng ngài quên một điều rất quan trọng: công việc trí óc. Nếu trí thông minh tạo ra một thám tử giỏi thì trong trường hợp của ngài sẽ là gì nhỉ? Tôi không nghĩ ngài xứng đáng để giữ cuốn sổ ghi chép đó. Tuy nhiên, tôi sẽ cân nhắc việc giao lại nó cho ngài. Nhưng tôi vẫn còn nghi ngại. Ngài sẽ không thể giải quyết được vụ này trừ phi ngài sử dụng cái đầu của mình – bởi vì nếu không, tôi cảnh báo trước ngài sẽ mất mặt đấy.”

“Cảnh báo tôi à? Không cần phải như vậy. Chúng tôi là những thám tử chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản. Chắc cậu cũng biết công việc điều tra tội phạm không dễ như đi dạo trong rừng.”

“Tại sao ngài cứ lải nhải mãi một điều thế nhỉ? Tôi chưa hề nói rằng công việc điều tra là dễ dàng, đúng không nào. Ngài mới là người nói đến chuyện miệt mài cặm cụi này nọ. Thật nực cười là ngài chẳng hề nghĩ đến việc sử dụng trí óc. Tôi đoán xỏ giày rồi đi dạo sẽ dễ cho ngài hơn đấy.”

“Ý cậu là tôi không có đầu óc chứ gì?” Takegoshi bắt đầu lên giọng. “Tôi chưa bao giờ gặp một kẻ mất lịch sự như cậu! Nhìn lại mình đi, cậu chẳng khác gì một thằng vô gia cư. Cậu và đám vô gia cư chỉ giỏi gây ồn ào cãi cọ như những mụ đàn bà. Chà, có lẽ đó là cách cậu kiếm sống, chứ một công chức chân chính thì không làm việc đó. Chúng tôi có trách nhiệm với xã hội. Nếu cậu giỏi giang thì nói thử cho tôi xem, cậu đã tìm ra nghi phạm chưa?”

Kiyoshi dừng lại, và sau đó nói rất thành thực, “Chưa, vẫn chưa.” Trông cậu rất bình tĩnh, nhưng tôi có thể nói rằng cậu có vẻ nản lòng.

“Đấy, thấy chưa. Cậu đúng là vô dụng!” Takegoshi cười đắc thắng. “Tôi biết cậu chẳng thể tìm ra điều gì sất. Tôi chỉ hỏi vì cậu có vẻ cao ngạo và ghê gớm. Soi gương xem mình là ai đi nhé. Cậu chỉ là thứ… đẹp mã thôi!”

“Tôi không quan tâm những gì ngài nói, nhưng cho phép tôi xin ngài một đặc ân nghề nghiệp. Tôi cần một chút thời gian trước khi ngài công bố những ghi chép của ông cụ cho công chúng biết. Ngài có thể lấy lại cuốn sổ ngay hôm nay, mặc dù có lẽ rốt cuộc nó sẽ làm thay đổi ngài đấy. Trong đó có một sự kiện khiến cụ ông vô cùng khó xử nên chắc chắn ngài sẽ muốn giữ bí mật. Vậy xin hãy dành thời gian đọc nó và hiểu đã, thưa ngài.”

“Được. Tôi sẽ cho cậu ba ngày.”

“Thế thì nhanh quá. Tôi không nghĩ rằng ngài có đủ thời gian để suy ngẫm đâu.”

“Vậy một tuần.”

“Được, một tuần.”

“Cậu đang nói là…”

“Phải, tôi nói với ngài tôi sẽ giải quyết vụ này trong vòng một tuần. Ít nhất, tôi sẽ chứng minh được sự vô tội của cha ngài, khi đó ngài không nhất thiết phài công bố cuốn sổ nữa.”

“Kể cả khi cậu chưa hề có nghi can nào trong đầu ư? Không thể được đâu!”

“Tôi đã nói một tuần. Tôi sẽ giải quyết vụ việc trong vòng một tuần trước khi ngài làm bất cứ việc gì với cuốn sổ. Hôm nay là thứ Năm, ngày mùng 5, vậy ngài sẽ đợi cho tới thứ Năm tuần sau, ngày 12. Phải vậy không?”

“Tôi sẽ trình cuốn sổ lên cấp trên vào thứ Sáu ngày 13.”

“Cám ơn ngài. Chúng ta sẽ không lãng phí thời gian nữa. Ngài có thể ra về qua cánh cửa mà ngài đã vào. Nhân tiện, ngài sinh vào tháng Mười một phải không?”

“Phải. Làm sao cậu biết? Em gái tôi nói với cậu à?”

“Dễ thấy thôi mà. Tôi còn có thể biết ngài sinh vào quãng từ 8 giờ đến 9 giờ tối nữa cơ. Được rồi, đây là cuốn sổ của cha ngài. Xin ngài cầm lấy và trở về nhà.”

Takegoshi đóng sầm cửa lúc ra về. Chúng tôi nghe rõ tiếng bước chân nặng nề của ông ta ở ngoài sảnh.

“Anh điên đấy à?” Tôi nói với Kiyoshi. “Anh thật sự nghĩ rằng mình có thể giải quyết mọi việc ư?”

Kiyoshi không nói gì cả, khiến tôi càng thêm lo lắng. Nhiều lúc, sự tự tin thái quá khiến cậu đánh mất cả lý trí.

“Anh nghĩ được thêm gì chưa?” Tôi hỏi.

“Hồi nãy khi chúng ta đang nói chuyện, tôi cảm thấy có gì đó lóe lên trong đầu. Tôi không biết là gì nhưng cảm thấy nó hơi ngờ ngợ. Tôi phải biết được cái gì đó chứ nhỉ. Nó không như một câu đố. Nó là một thứ rất đơn giản… Tôi không nhớ ra… Có lẽ tôi nhầm… Ơn trời, chúng ta có một tuần. Nhân tiện, anh có ví ở đó không?”

“Có…”

“Anh có đủ tiền trang trải cho bốn hoặc năm ngày không?”

“Tôi nghĩ là đủ.”

“Tốt rồi. Tôi phải đi Kyoto ngay. Anh có muốn đi với tôi không?”

“Kyoto à? Nhưng tôi làm sao đi được chỉ với một thông báo cụt lủn như vậy…”

“Vậy thì gặp lại anh khi tôi quay trở về nhé. Rất tiếc, nhưng tôi không thể ép anh cùng đi với tôi.”

Quay lưng lại phía tôi, cậu lôi ngay chiếc túi du lịch từ dưới gầm bàn làm việc ra.

“Đợi đã. Dĩ nhiên tôi sẽ đi cùng anh!” Tôi kêu ầm lên.

Tôi nghĩ rằng đó chính là thời điểm Kiyoshi bắt đầu phát huy hết toàn bộ nhiệt huyết của mình cho vụ án. Một khi đã quyết định, cậu sẽ hành động nhanh như một tia chớp dù đôi khi hơi vội vã bộp chộp. Chúng tôi vớ lấy tấm bản đồ Kyoto cùng một cuốn Tokyo hoàng đạo án và lao ra khỏi văn phòng.

Một tiếng rưỡi sau, chúng tôi đã ở trên tàu cao tốc đi Kyoto…


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.