Kẻ Nhắc Tuồng
Chương 18
Tuyết rơi xuống từ những đám mây màu tím trên bầu trời âm u.
Mila phải chờ ngoài đường mất bốn mươi phút mới bắt được một chiếc taxi. Khi cô cho biết nơi đến, người tài xế lắc đầu phản đối. Anh ta nói nó quá xa và do đêm tối cộng với thời tiết, anh ta sẽ không tìm được khách cho chuyến về. Khi Mila đề nghị trả gấp đôi tiền cho chuyến đi, anh ta mới đồng ý.
Trên đường, một lớp tuyết dày nhiều centimet đã hình thành, khiến việc rắc muối thành ra vô ích. Người ta chỉ có thể lưu thông với bánh xe quấn xích, việc này làm hạn chế tốc độ rất nhiều. Bên trong xe taxi bốc mùi. Mila để ý thấy phần còn lại của một chiếc bánh mì Thổ Nhĩ Kỳ kẹp hành tây để trên ghế hành khách phía trước. Mùi của nó trộn lẫn với mùi thông trong chai khử mùi đặt trước quạt thổi của máy sưởi. Một sự tiếp đón không mấy niềm nở đối với hành khách.
Trong khi xe băng qua thành phố, Mila sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu. Cô chắc chắn lý luận của mình là đúng, và càng gần nơi cần đến, sự tin tưởng của cô càng mạnh hơn. Cô đã định gọi cho giáo sư Gavila để nhận được một sự khẳng định, nhưng điện thoại của cô sắp cạn pin đến nơi. Cô sẽ dời cuộc gọi đến thời điểm tìm ra điều mình cần.
Họ băng qua khu vực đặt trạm thu phí của xa lộ. Một đội cảnh sát tuần tra đang chặn dòng xe trước trạm, yêu cầu quay đầu.
– Tuyết quá dày, đường đi rất nguy hiểm! – Các cảnh sát liên tục nhắc đi nhắc lại với các tài xế.
Nhiều chiếc xe tải kéo đang dừng bên đường, với hi vọng có thể tiếp tục hành trình vào sáng hôm sau. Xe taxi chạy vào một tỉnh lộ để tránh chốt chặn. Có thể đến được cô nhi viện mà không cần đi bằng quốc lộ. Ngày xưa có lẽ đó là con đường duy nhất, và rất may người lái taxi biết đến nó.
Chiếc taxi thả Mila xuống gần cánh cổng. Cô không nghĩ đến việc đưa thêm tiền và bảo tài xế chờ mình. Cô tin mình không nhầm, và các đồng đội của cô sẽ lại kéo đến nơi này.
– Cô không muốn tôi ở lại đây cho đến khi cô xong việc à? – Anh tài xế hỏi khi trông thấy tình trạng hoang vắng của khu vực.
– Không, cám ơn, anh có thể đi.
Anh ta không nài nỉ, mà chỉ nhún vai rồi quay đầu xe, để lại phía sau một thoáng mùi bánh mì kẹp hành.
Mila trèo qua cổng, lội bộ qua hỗn hợp bùn và tuyết trên con đường đất. Cô biết các cảnh sát đã rút đi theo lệnh của Roche. Cả chiếc xe cắm trại lưu động cũng đã ra đi. Nơi này chẳng còn gì hấp dẫn cho cuộc điều tra nữa.
Cho đến đêm nay, cô thầm nghĩ.
Cô đã đến cửa chính, nhưng sau khi bị đội đặc nhiệm phá khóa, giờ nó đã được thay ổ khóa mới. Cô quay sang phía nhà xứ để nhìn xem liệu cha Timothy có còn thức hay không.
Đã đi đến tận đây, cô không còn lựa chọn nào khác.
Mila tiến về phía nhà của cha xứ. Cô gõ cửa một lúc. Cuối cùng một ô cửa sổ ở tầng hai bật mở, cha Timothy ló đầu ra.
– Ai đó?
– Thưa cha, tôi là cảnh sát. Chúng ta đã từng gặp mặt. Cha còn nhớ không?
Cha Timothy cố gắng nhìn ra cô cảnh sát giữa những bông tuyết rơi dày đặc.
– À, tất nhiên rồi. Cô cần gì vào cái giờ khuya khoắt này? Tôi tưởng các cô đã kết thúc công việc ở đây…
– Tôi biết. Mong cha thứ lỗi, nhưng tôi cần xác minh một vài điều trong xưởng giặt. Cha có thể cho tôi mượn chìa khóa được không ạ?
– Được, để tôi xuống.
Vài phút sau, khi Mila bắt đầu sốt ruột tự hỏi cha Timothy làm gì mà lâu đến thế thì có tiếng mở then cửa. Cha Timothy xuất hiện, quấn mình trong chiếc áo khoác len đã sờn ở hai cùi chỏ, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hiền hậu như thường ngày.
– Cô lạnh run rồi kìa.
– Xin cha đừng lo.
– Cô hãy vào trong sưởi ấm một chút trong lúc tôi tìm chìa khóa. Cô biết đấy, cảnh sát các cô đã làm xáo trộn chỗ này hết cả.
Mila theo cha xứ vào trong nhà. Sự ấm áp lập tức khiến cô cảm thấy dễ chịu.
– Tôi sắp sửa đi ngủ.
– Tôi xin lỗi.
– Không sao. Cô uống trà nhé? Tôi luôn uống ít trà trước khi đi ngủ. Nó làm tôi thư giãn.
– Thôi ạ, cám ơn cha. Tôi muốn quay về càng sớm càng tốt.
– Cứ uống một chút đi, cô sẽ thấy khỏe hơn. Trà đã pha rồi, chỉ việc rót ra thôi mà. Trong lúc đó tôi sẽ đi tìm chìa khóa.
Cha Timothy rời phòng. Mila tiến về phía nhà bếp theo hướng cha đã chỉ. Quả thực ấm trà đang đặt trên bàn. Mùi trà bốc lên theo hơi nước nóng, khiến cô không thể cưỡng lại được. Cô rót một tách, thêm vào thật nhiều đường. Cô nhớ lại món trà nguội ngắt kinh khủng mà Feldher đã cố gài cho cô và Boris uống, trong căn nhà phế thải của hắn ta. Cô tự hỏi hắn lấy nước pha trà từ nguồn nào.
Cha Timothy quay lại với một chùm chìa khóa to và bắt đầu lần tìm chiếc chìa cần thiết.
– Giờ thì cô khỏe hơn rồi chứ? – Cha mỉm cười, hài lòng vì đã thấy cô uống trà.
Mila cười đáp lễ.
– Vâng ạ.
– Đây, chắc là cái chìa này, để mở cánh cửa lớn… Cô có muốn tôi đi cùng không?
– Thôi ạ, cám ơn cha. – Mila trả lời trong sự nhẹ nhõm của cha xứ. – Nhưng tôi có việc này cần nhờ cha giúp.
– Tôi nghe đây.
Mila chìa ra một tấm thẻ.
– Nếu trong một tiếng đồng hồ tôi không quay lại, cha hãy bấm số điện thoại này để gọi trợ giúp.
Cha Timothy tái mặt.
– Tôi tưởng chẳng còn nguy hiểm nào nữa.
– Chỉ là một biện pháp cẩn trọng thôi ạ. Thật ra, tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì xảy ra đâu. Chỉ là tôi không chắc mình định hướng tốt trong tòa nhà lớn, nhỡ mà gặp tai nạn… Thêm nữa, trong ấy chẳng có đèn đuốc gì.
Nói xong câu vừa rồi, cô nhận ra mình đã không lường trước vấn đề này. Làm thế nào đây? Điện thì không có, máy nổ để chạy đèn chắc chắn đã được mang đi cùng các thiết bị khác.
– Chết thật! – Cô buột miệng. – Cha có đèn pin không ạ?
– Tôi rất tiếc… Nhưng nếu cô có điện thoại di động, cô có thể dùng ánh sáng của màn hình.
Mila đã không nghĩ ra chuyện đó.
– Cám ơn cha.
– Không có chi.
Ngay sau đó, Mila lại bước ra màn đêm lạnh giá, trong khi cha Timothy cài then cửa lại đằng sau cô, từng cái một.
Cô leo lên con dốc nhỏ và đứng trước cửa cô nhi viện. Cô đút chìa vào trong ổ khóa, nghe thấy tiếng lách cách vang dội trong gian phòng phía bên kia cánh cửa. Cô đẩy mở cánh cửa đồ sộ, trước khi đóng nó lại sau lưng.
Cô đã ở bên trong cô nhi viện.
Những con bồ câu trên cửa sổ áp mái chào đón cô bằng tiếng đập cánh loạn xạ. Màn hình điện thoại của cô phát ra một thứ ánh sáng xanh nhạt, chỉ cho phép cô ghi nhận một khoảng không gian nhỏ trước mặt. Quả cầu ánh sáng đó bị bao bọc bởi bóng tối dày đặc, sẵn sàng xâm chiếm nó vào bất cứ lúc nào. Mila cố nhớ lại lộ trình đi xuống xưởng giặt. Rồi cô bắt đầu bước đi.
Tiếng những bước chân của cô phá tan sự im lặng. Hơi thở của cô ngưng đọng trong bầu không khí lạnh giá. Rất nhanh chóng, cô tìm thấy nhà bếp và nhận ra hình dáng của những cái vạc lớn bằng sắt. Sau đó cô băng qua phòng ăn, cẩn thận luồn tránh những chiếc bàn phủ formica. Hông cô va phải một chiếc bàn, làm rơi một trong số mấy cái ghế xếp trên đó. Tiếng ồn cộng thêm tiếng vang to váng óc. Trong khi xếp lại mọi thứ, Mila nhìn thấy một lối đi dẫn xuống tầng dưới qua chiếc cầu thang xoắn chật hẹp. Cô chui vào trong đoạn ruột đó và chầm chậm bước xuống những bậc thang đã bị năm tháng làm cho trơn tuột.
Cô xuống đến xưởng giặt.
Cô soi điện thoại di động để quan sát chung quanh. Trong bồn giặt bằng đá nơi thi thể Anneke được tìm thấy, ai đó đã đặt một bông hoa. Mila lại nhớ đến màn cầu nguyện tập thể tại đây.
Cô bắt tay vào tìm kiếm.
Trước tiên cô nhìn dọc theo các vách tường, sau đó lướt tay theo các chân tường. Không có gì. Cô tránh không nghĩ đến việc pin của điện thoại di động còn cầm cự được bao nhiêu thời gian nữa, không phải vì viễn cảnh phải quay ra trong bóng tối, mà chủ yếu là vì không có ánh sáng yếu ớt của nó, cô sẽ mất nhiều thời gian hơn. Sau một tiếng cha Timothy sẽ gọi cứu viện, và cô sẽ trở nên kém cỏi trong mắt người khác. Cần phải nhanh chóng hơn.
Nó ở đâu nhỉ? Cô nghĩ bụng. Mình biết nó ở đâu đó trong này mà…
Đột nhiên một tiếng động rất lớn vang lên khiến Mila thót tim. Cô mất một lúc mới nhận ra đó là tiếng chuông điện thoại của mình.
Cô nhìn màn hình và trông thấy cái tên Goran trên đó.
Đeo tai nghe vào, cô bắt máy.
– Trong studio không có ai cả sao? Tôi đã gọi cả chục cuộc mà không ai nhấc máy.
– Boris và Stern đã ra ngoài, nhưng lẽ ra Sarah phải có mặt ở đó chứ.
– Thế còn cô, cô đang ở đâu vậy?
Mila tự nhủ giờ không phải là lúc nói dối. Mặc dù chưa hoàn toàn chắc chắn về suy đoán của mình, cô vẫn quyết định nói luôn.
– Tôi nghĩ Ronald đã nghe lỏm chúng ta tối hôm trước.
– Điều gì khiến cô nghĩ như vậy?
– Tôi đã so sánh bức thư của hắn với những câu hỏi mà ông đặt ra trong lời cầu nguyện. Phải nói bức thư đúng là những câu trả lời…
– Một suy luận rất tốt.
Nhà tội phạm học không tỏ ra ngạc nhiên. Có lẽ ông cũng đã đi đến kết luận giống cô. Mila cảm thấy hơi ngu ngốc vì đã tưởng mình sẽ làm ông bất ngờ.
– Nhưng cô chưa trả lời câu hỏi của tôi. Cô đang ở đâu vậy?
– Tôi đi tìm cái micro.
– Micro nào?
– Cái mà Ronald đã bí mật gắn lại trong xưởng giặt.
– Cô đang ở cô nhi viện hả?
Giọng của Goran bắt đầu trở nên lo lắng.
– Phải.
– Cô hãy ra khỏi đó ngay.
– Sao vậy?
– Mila, chẳng có micro nào hết!
– Nhưng tôi tin chắc là…
Goran ngắt lời:
– Nghe tôi nói đây, họ đã rà soát kỹ khu vực đó, nếu có micro thì họ phải phát hiện ra nó rồi.
Mila thấy mình ngu ngốc thực sự. Giáo sư tội phạm học nói có lý: cô có thể nông cạn đến mức không nghĩ ra chuyện đó hay sao? Đầu cô toàn là bã đậu trong đó à?
– Vậy hắn đã làm thế nào để…
Mila bỏ lửng câu nói. Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng cô.
Hắn đã ở đây.
– Màn cầu nguyện chỉ là chiêu dụ rắn ra khỏi hang!
Sao mình không nghĩ ra chuyện đó nhỉ?
– Mila, ra khỏi đó mau, vì lòng kính Chúa!
Lúc đó cô mới ý thức được nguy cơ trước mắt. Cô rút súng, nhanh chóng quay ngược ra cửa chính nằm cách chỗ mình đang đứng ít nhất là hai trăm mét. Một khoảng cách lớn khủng khiếp, với sự hiện diện của “hắn” ở trong cô nhi viện này.
Là ai nhỉ? Mila tự hỏi trong khi đi theo cầu thang xoắn lên phòng ăn.
Khi cảm thấy sức mạnh của đôi chân bắt đầu rời bỏ mình, cô đã có câu trả lời. Nước trà…
Tín hiệu quá yếu, trong điện thoại vang lên những tiếng xì xẹt. Cô nghe thấy tiếng Goran hỏi trong tai nghe:
– Cái gì?
– Cha Timothy là Ronald, phải không ạ?
Xì xẹt Tiếng động. Lại xì xẹt.
– Phải! Sau cái chết của Billy Moore, cha Rolf đã gửi tất cả mọi người đi chỗ khác trước thời điểm cô nhi viện bị đóng cửa chính thức. Trừ hắn. Cha đã giữ hắn lại, vì ông sợ bản chất của hắn và hi vọng có thể kiểm soát được hắn.
– Tôi nghĩ hắn đã… thuốc tôi.
Giọng nói của Goran nghe lúc được lúc mất.
– … bảo sao? Tôi không h…
– Tôi nghĩ… – Mila cố gắng lặp lại, nhưng các từ ngữ cứ dính trong cổ họng cô không chịu thoát ra.
Cô ngã chúi.
Tai nghe điện thoại văng ra. Chiếc di động tuột khỏi tay cô và trượt vào dưới gầm một cái bàn. Nhịp tim cô tăng lên do nỗi sợ hãi và càng khiến cho thuốc khuếch tán trong cơ thể cô. Các giác quan của cô trơ ì ra. Tuy vậy cô vẫn còn nghe thấy tiếng Goran phát ra từ chiếc tai nghe nằm cách mình vài mét:
– Mila! Mila!… lời tôi đi! Có chuyện… vậy?
Cô nhắm mắt, kinh hoàng trước ý nghĩ rằng cô sẽ không bao giờ mở mắt được nữa. Rồi cô tự nhủ mình không thể chết trong một cái nơi như thế này.
Adrenalin… Mình cần adrenalin…
Cô biết cần tìm nó như thế nào. Tay phải cầm chắc khẩu súng, cô kê nòng súng vào vai mình, bóp cò. Viên đạn xé toang lớp da áo khoác và xuyên vào thịt Mila. Tiếng nổ vang dội chát chúa trong cái vực thẳm bao quanh cô. Mila hét lên đau đớn và tỉnh lại.
Goran thét gọi tên cô.
– MILA!
Cô trườn về phía phát ra ánh sáng màn hình di động, bắt lấy nó rồi trả lời:
– Mọi chuyện vẫn ổn.
Mila đứng dậy và bắt đầu bước. Cô phải nỗ lực kinh khủng mới bước được một bước. Cô thấy như mình đang ở trong giấc mơ, khi bị người khác đuổi theo mà không làm cách nào chạy được, vì hai chân cứ nặng như bị nhúng ngập đến gối trong một thứ chất lỏng đặc quánh.
Vết thương của cô nhức nhối, nhưng cô không bị mất quá nhiều máu. Cô đã tính đường đạn rồi. Nghiến chặt răng, cô bước từng bước. Lối ra đang mỗi lúc một gần hơn.
– Nếu ông đã biết mọi chuyện, tại sao ông không bắt ngay thằng khốn nạn đó? – Mila hét vào trong điện thoại. – Và tại sao tôi không được thông báo?
Giọng nói của nhà tội phạm học đã rõ ràng trở lại.
– Tôi xin lỗi. Chúng tôi muốn cô tiếp tục cư xử một cách tự nhiên với hắn để không gây nghi ngờ. Chúng tôi đã đặt các thiết bị dò tìm trong xe hơi của hắn. Chúng tôi đã hi vọng hắn sẽ đưa ta đến chỗ của bé gái số sáu…
– Nhưng hắn đã không làm thế…
– Vì hắn không phải Albert.
– Nhưng hắn vẫn nguy hiểm chứ?
Goran ngừng một lúc khá lâu. Rất lâu.
– Tôi đã báo động. Một nhóm đang đến. Nhưng sẽ mất thời gian đấy. Vùng kiểm soát quanh đó có bán kính hai cây số.
Dù gì thì cũng đã quá muộn, Mila nghĩ bụng. Với thời tiết xấu như thế này, cộng thêm lượng thuốc chạy trong cơ thể làm bào mòn sức lực, cô hết hi vọng rồi. Cô biết. Đáng lẽ cô phải nghe theo lời của người lái taxi khi anh ta thuyết phục cô bỏ ý định đến đây. Nhưng – khốn nạn thật – tại sao cô không chịu chấp nhận khi anh ta đề nghị ở lại đợi kia chứ? Vì cô dị ứng với cái mùi hành trong xe, thế đấy! Và giờ thì cô đang kẹt trong bẫy. Cô tự chui đầu vào, có lẽ cũng vì một phần trong cô muốn điều đó, một cách vô thức. Cô thích liều mạng. Thậm chí mất mạng!
Không! Mình muốn sống.
Ronald, hay cha Timothy, còn chưa động thủ. Nhưng cô chắc chắn mình không còn nhiều thời gian nữa.
Ba tiếng bíp lôi cô ra khỏi dòng suy nghĩ.
– Chết rồi. – Cô buột miệng khi chiếc điện thoại cạn pin.
Bóng tối chụp lấy cô như một bàn tay vô hình.
Đã bao nhiêu lần cô bị mắc bẫy như thế này? Nó đã từng xảy ra. Chẳng hạn như vụ ở nhà thầy dạy nhạc. Nhưng đã bao giờ cô rơi vào hoàn cảnh tệ hại đến mức này? Câu trả lời khiến cô sững người.
Chưa bao giờ.
Bị đánh thuốc, bị thương, kiệt sức và không còn điện thoại di động. Nghĩ về khoản cuối cùng ấy, cô chỉ muốn bật cười: liệu cô có thể làm gì nếu còn pin điện thoại đây? Chắc là gọi một cô bạn cũ. Graciela chẳng hạn. Và hỏi cô ấy: “Cậu ổn không? Còn tớ thì chết đến nơi rồi đây này!”
Điều tệ nhất là bóng tối. Nhưng cô cũng có thể coi nó như một lợi thế: nếu cô không thể nhìn thấy Ronald thì hắn cũng đâu thể thấy cô.
Hắn đang đợi mình bước ra ngoài…
Quả thực, cô chỉ có một mong muốn duy nhất là ra khỏi chỗ này. Nhưng cô thừa biết mình không nên nghe theo bản năng, nếu không muốn chết.
Mình cần phải nấp kĩ và đợi cứu viện đến.
Mila thấy đó là quyết định khôn ngoan nhất. Bởi cô có thể lịm đi bất cứ lúc nào. Có khẩu súng, cô cũng an tâm phần nào. Biết đâu hắn cũng có vũ khí. Nhưng Ronald xem vẻ không giỏi về khoản dùng vũ khí, chí ít cũng không giỏi bằng cô. Tuy vậy, có thể hắn chỉ đóng vai một cha xứ Timothy nhút nhát và sợ sệt. Suy cho cùng, có thể hắn đang che giấu những năng lực khác của mình.
Mila co người lại bên dưới một chiếc bàn trong gian phòng ăn mênh mông, nghe ngóng. Tiếng vang không giúp gì được cho cô. Nó khuếch đại những âm thanh không cần thiết, những tiếng cót két xa xăm ma quái, lừa mị mà cô không thể lý giải được. Mí mắt cô bắt đầu cụp xuống.
Hắn không thể thấy mình. Hắn không thể thấy được mình. Cô tự nhắc đi nhắc lại trong đầu. Hắn biết mình có vũ khí. Nếu hắn gây tiếng động và sử dụng đèn pin để tìm kiếm mình, hắn coi như tiêu đời.
Những màu sắc quái dị bắt đầu nhảy múa trước mắt Mila.
Chắc là do thuốc. Cô tự nhủ.
Các vệt màu sắc biến thành những hình thù nhảy múa. Đó không thể là do cô tưởng tượng ra. Trên thực tế, chúng giống như những tia chớp bất thần lóe lên ở nhiều chỗ khác nhau trong phòng.
Thằng khốn nạn đang ở đây. Hắn dùng đèn flash!
Mila cố nhắm bắn. Nhưng những chớp sáng chói mắt cộng thêm tác động làm suy yếu của thuốc khiến cô không thể tìm được mục tiêu.
Cô đã bị cầm tù trong một cái kính vạn hoa khổng lồ.
Cô lắc đầu, nhưng không còn kiểm soát được mình nữa. Một giây sau cô cảm thấy luồng run rẩy chạy qua tay và chân, như thể một cơn động kinh không thể kiểm soát. Khi cô cố dừng nó lại, ý nghĩ về cái chết tiếp tục quyến rũ cô với lời hứa hẹn rằng nếu cô nhắm mắt, tất cả sẽ chấm hết. Mãi mãi.
Bao nhiêu thời gian đã trôi qua? Nửa giờ? Mười phút? Còn bao nhiêu lâu nữa?
Ngay lúc đó, cô nghe thấy hắn.
Hắn đang ở gần, rất gần. Cách cô bốn hay năm mét, không hơn.
Rồi cô thấy hắn.
Chuyện đó chỉ kéo dài chưa đầy một giây. Trong vùng ánh sáng bao quanh hắn, cô chỉ kịp nhìn thấy nụ cười ghê rợn trên gương mặt hắn. Mila biết hắn sẽ phát hiện ra cô vào bất cứ lúc nào, và cô không còn đủ sức để bắn hắn nữa. Do đó cô phải hành động ngay, dù có nguy cơ bị lộ.
Cô nhắm bắn trong bóng tối, chĩa nòng súng về nơi cô nghĩ hắn sẽ tái xuất hiện trong ánh chớp đèn flash. Cũng có nghĩa là một chỗ ngẫu nhiên, nhưng cô còn lựa chọn nào khác đâu.
Cô vừa định bóp cò thì Ronald bắt đầu cất tiếng hát. Vẫn giọng hát tuyệt vời của cha Timothy lúc hát bài thánh ca trước sự chứng kiến của cả nhóm điều tra. Thật nghịch lý và sai lầm khi một năng khiếu như thế lại nằm trong trái tim lạnh lùng của một kẻ sát nhân. Và từ trái tim đó cất lên khúc hát chết chóc rợn người.
Lẽ ra nó có thể dịu dàng và cảm động. Nhưng Mila chỉ cảm thấy hãi hùng. Hai chân cô nhũn ra, cũng giống như các bắp thịt nơi cánh tay. Người cô trượt xuống sàn.
Ánh chớp đèn flash lóe lên.
Trạng thái lơ mơ phủ lên cô như một tấm chăn lạnh. Cô nghe thấy tiếng bước chân của Ronald đang tiến lại gần để lôi cô ra.
Lại một ánh chớp nữa.
Hết rồi. Hắn sẽ nhìn thấy mình.
Thật ra, phương thức giết người của hắn không quan trọng mấy đối với Mila. Cô buông xuôi trước lời nịnh nọt của cái chết với một sự bình thản không ngờ. Những ý nghĩ sau cuối của cô là dành cho bé gái số sáu.
Mình sẽ không bao giờ biết được tên của em…
Một ánh chớp phủ trùm lên toàn bộ cơ thể cô.
Khẩu súng bị tước mất khỏi tay cô. Hai bàn tay tóm lấy cô. Mila cảm thấy mình bị nhấc lên. Cô cố nói điều gì đó, nhưng âm thanh cứ mắc kẹt lại trong cổ họng.
Cô ngất đi.
Mila thức dậy khi cảm thấy cơ thể mình nhấp nhô theo nhịp: Ronald đang vác cô trên vai và trèo lên các bậc thang.
Cô lại ngất một lần nữa.
Mùi amoniac rất nồng lôi Mila ra khỏi giấc ngủ nhân tạo. Ronald đang lắc một cái lọ nhỏ trước mũi cô. Hắn đã trói tay cô nhưng muốn cô tỉnh lại.
Cơn gió lạnh lẽo thổi vào mặt cô. Họ đang ở ngoài trời. Nhưng ở đâu? Mila cảm thấy mình đang ở trên cao. Rồi cô nhớ đến tấm ảnh chụp cô nhi viện phóng to mà bác sĩ Chang đã cho cô xem để chỉ rõ nơi Billy Moore đã rơi xuống.
Cái tháp. Mình đang ở trên tháp!
Ronald quay đi trong một thoáng. Mila nhìn thấy hắn tiến đến gờ tường và nhìn xuống phía dưới.
Hắn muốn quăng mình xuống đó!
Ronald quay lại, túm lấy chân Mila và kéo cô đến gờ tường. Dùng chút sức tàn còn sót lại, Mila cố đá chân nhưng vô hiệu.
Cô thét lên, giãy giụa. Nỗi tuyệt vọng dâng ngập hồn cô. Hắn nhấc cô lên, gác người cô nằm ngửa lên gờ tường. Đầu ngả ra đằng sau, Mila trông thấy cái hốc đen ngòm phía dưới. Rồi qua làn tuyết, cô nhận thấy những ánh đèn xe cảnh sát đang lao đến trên xa lộ.
Ronald ghé sát vào tai Mila. Cô cảm thấy hơi thở ấm nóng khi hắn thì thầm:
– Muộn quá rồi, chúng không còn thời gian nữa…
Rồi hắn đẩy cô. Mặc dù hai tay đang bị trói sau lưng, Mila vẫn bíu được gờ tường trơn tuột. Cô dùng hết sức để chống lại cú đẩy, nhưng cô biết mình không thể cầm cự lâu được. Đồng minh duy nhất của cô là lớp băng phủ trên nền tháp. Nó khiến cho hai bàn chân của Ronald trượt đi khi hắn tìm điểm tựa để đẩy cô ra khỏi gờ tường. Cô nhìn thấy khuôn mặt của hắn nhăn nhúm lại vì gắng sức. Rồi hắn nổi xung lên trước sự kháng cự kiên cường của nạn nhân. Hắn thay đổi chiến thuật và quyết định nâng chân cô qua gờ tường. Hắn đứng thẳng người lên ngay trước mặt cô. Đúng vào lúc đó, bản năng sống còn đã giúp Mila dồn mọi sức lực còn lại để thúc đầu gối vào bụng dưới gã đàn ông.
Ronald lảo đảo lùi lại, há miệng thở, hai tay ôm lấy phần giữa hai chân. Mila nhận ra đây là cơ hội duy nhất của mình trước khi hắn kịp hồi phục.
Không còn sức mạnh, đồng minh duy nhất của cô là trọng lực.
Vết thương nơi vai đau xé ruột nhưng cô mặc kệ. Cô gượng dậy. Bây giờ lớp băng trơn trượt chống lại cô, nhưng cô vẫn lấy đà lao vào Ronald, khiến hắn mất thăng bằng. Hắn vung tay tìm điểm tựa, nhưng lúc này một nửa thân người hắn đã nằm ở ngoài gờ tường.
Khi nhận ra không còn cơ hội thoát chết, Ronald vươn một bàn tay ra định túm lấy Mila và kéo cô rơi xuống cùng. Cô nhìn thấy những ngón tay của hắn lướt qua ve áo khoác da của mình, rồi hắn từ từ rơi xuống, như thể những bông tuyết đã làm cho cú ngã chậm lại.
Bóng tối nuốt chửng lấy hắn.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.