Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 15 – Phần 2



Feldher có vẻ không chào đón chuyến viếng thăm, nhưng vẫn ra hiệu cho họ bước vào.

Ông ta có một cái bụng to đùng và những ngón tay vàng ệch vì thuốc lá.

Bên trong, căn nhà cũng giống với chủ nhân của nó, dơ dáy và bừa bãi. Ông ta cho họ uống món trà nguội trong hai cái cốc cọc cạch, đoạn châm một điếu thuốc và ngồi xuống một chiếc ghế dài ọp ẹp, nhường cho khách chiếc xa lông.

– Hai người may lắm mới tìm được tôi đấy. Thường thì tôi đi làm…

– Vậy sao hôm nay ông không đi? – Mila thắc mắc.

Ông ta nhìn ra bên ngoài.

– Tuyết. Thời tiết thế này thì làm lụng thế quái nào được. Tôi mất hàng mấy ngày trời rồi.

Mila và Boris cầm cốc trà lên, nhưng không uống. Feldher không tỏ ra phật ý.

– Vậy sao ông không thử đổi công việc? – Mila dò hỏi, cố làm ra vẻ quan tâm để tạo sự tiếp xúc thân thiện.

Feldher thở dài.

– Tôi có thử đấy chứ! Hai người tưởng tôi không hả? Nhưng rồi có ra cái trò gì đâu, y như con mụ vợ nhà tôi. Nó tếch đi tìm chỗ tốt hơn rồi. Ngày nào nó cũng lải nhải cái điệp khúc là tôi chẳng làm được trò trống gì. Giờ thì nó đi làm bồi bàn và ở ghép với hai đứa đần độn giống như nó. Tôi đã biết mà. Mấy người biết không, chỗ đó do cái nhà thờ mà nó theo quản lý đó! Bọn họ bảo nó là ngay cả một con hầu vứt đi như nó cũng có chỗ trên thiên đàng cơ đấy! Hai người có thấy không?

Mila nhớ đã nhìn thấy chừng một tá nhà thờ tân giáo như ông ta nói trên đường đi. Tất cả đều có những tấm bảng gắn đèn nêông to tướng đề tên giáo phận và câu biểu ngữ của họ. Từ nhiều năm nay, các nhà thờ này mọc lên như nấm trong vùng, thu hút những người cải đạo, chủ yếu là đám công nhân thất nghiệp dạt ra từ các khu công nghiệp lớn, những bà mẹ đơn thân và những người thất vọng với nhà thờ truyền thống. Mặc dù có tuyên ngôn khác nhau, nhưng các nhà thờ này vẫn có chung một sự gắn bó với thuyết sáng tạo, bài trừ đồng tính, phản đối phá thai, khẳng định nguyên tắc theo đó mỗi cá nhân đều có quyền sở hữu vũ khí và hoàn toàn ủng hộ án tử hình.

Mila tự hỏi Feldher sẽ phản ứng như thế nào khi họ cho ông ta biết là một trong số các bạn học cũ của ông ta ở cô nhi viện nay đã trở thành mục sư của một trong các nhà thờ kia.

– Lúc hai người tới, tôi tưởng là người của bọn kia. Bọn nó tới tận đây để thuyết giáo cơ đấy! Hồi tháng rồi, con mụ vợ tôi, cái con điếm ấy, nó đã cử hai đứa đến để thuyết phục tôi cải đạo đấy!

Ông ta cười hềnh hệch, để lộ hai hàm răng sâu. Mila thử tìm cách lái câu chuyện ra khỏi đề tài hôn nhân bằng một câu hỏi dò:

– Trước khi đi lao động thì ông làm nghề gì?

– Hai người không tin nổi đâu… – Ông ta bật cười, đưa mắt nhìn đống rác rưởi chung quanh mình. – Tôi từng có một tiệm giặt nhỏ.

Hai cảnh sát viên cố không nhìn nhau để không lộ ra cho Feldher thấy là điều ông ta tiết lộ đáng quan tâm tới mức nào. Mila nhận thấy Boris lướt một tay qua hông và mở bao súng. Cô nhớ lại khi đến nơi cô đã nhận ra chỗ này không có sóng di động. Do không biết gì nhiều về người đàn ông trước mặt, họ buộc phải thận trọng.

– Ông từng đi tù, phải không?

– Mấy cái tội vặt vãnh thôi mà. Chẳng khiến một người tử tế phải mất ngủ đâu.

Boris tỏ rõ anh đang ghi nhận thông tin này, đồng thời nhìn Feldher chằm chằm để khiến ông ta nao núng.

– Này, tôi giúp gì được cho mấy người đây? – Người đàn ông hỏi, không buồn che giấu sự bực dọc.

– Chúng tôi biết hồi còn nhỏ ông đã trải qua phần lớn thời gian trong một cô nhi viện. – Boris thận trọng vào đề.

Feldher nhìn anh dò xét, vẻ nghi ngờ: cũng như những người kia, ông ta không nghĩ đến việc bị hai cảnh sát đến làm phiền chỉ vì lý do đó.

– Những năm tốt nhất đời tôi đó. – Ông ta nói một cách hằn học.

Boris giải thích cho ông ta hiểu lý do đã đưa anh và Mila đến tận đây. Feldher có vẻ hài lòng khi được nghe các chi tiết trước cả cánh báo chí.

– Tôi có thể kiếm bộn tiền nếu tuồn tin này ra cho đám nhà báo. – Ông ta chỉ nói có thế khi nghe xong.

– Cứ thử đi, chúng tôi sẽ bắt ông ngay lập tức. – Boris vừa nói vừa nhìn xoáy vào mặt ông ta.

Nụ cười trên gương mặt Feldher tắt ngóm. Boris cúi người tới trước, về phía ông ta. Đó là một kĩ thuật thẩm vấn mà ngay cả Mila cũng biết. Trừ phi có một mối liên hệ tình cảm hoặc đặc biệt thân mật, người ta luôn phải tôn trọng một ranh giới vô hình với người đối thoại. Tuy nhiên, thẩm vấn viên luôn áp sát đối tượng được hỏi để xâm nhập vào vùng không gian riêng tư của anh ta, khiến anh ta lúng túng.

– Ông Feldher, tôi tin chắc là ông rất thích giỡn mặt đám cảnh sát đến tìm ông bằng cách rót cho họ món trà pha nước tiểu của mình, để ông khoái trá nhìn họ đần mặt ngồi cầm cốc mà không dám uống.

Feldher không nói lời nào. Mila nhìn Boris, tự hỏi liệu anh có đang hành động đúng trong tình trạng này. Họ sẽ biết ngay thôi. Boris bình tĩnh đặt cốc trà xuống cái bàn thấp, rồi nhìn thẳng vào mắt Feldher trở lại.

– Bây giờ tôi muốn ông kể lại khoảng thời gian ông sống trong trại mồ côi…

Feldher cụp mắt, lí nhí nói:

– Có thể nói là tôi đã được sinh ra trong đó. Tôi chẳng bao giờ biết ba mẹ mình là ai. Bọn họ đưa tôi đến đó ngay khi tôi mới chào đời. Tên tôi là do cha Rolf đặt cho. Ông ấy bảo cái tên ấy thuộc về một người ông biết rõ và đã hy sinh trong chiến tranh. Tôi tự hỏi làm sao ông cha xứ điên rồ đó lại nghĩ rằng cái tên mang đến sự xui xẻo cho người khác thì có thể mang lại hạnh phúc cho tôi kia chứ!

Bên ngoài, con chó lại sủa khiến Feldher quay ra bắt nó im tiếng:

– Yên nào Koch! – Feldher quay lại nhìn hai cảnh sát. – Hồi trước tôi có đầy chó. Cái chỗ này là một bãi rác. Lúc tôi mua nó, người ta bảo đảm là nó đã được tẩy uế. Nhưng cứ lâu lâu một thứ gì đó lại xì ra: nước rỉ rác cùng với đủ thứ bẩn thỉu khác, nhất là khi trời mưa. Lũ chó uống vào, bụng chúng trương lên rồi vài ngày sau thì chết. Tôi chỉ còn mỗi con Koch, nhưng tôi nghĩ nó cũng sắp ngoẻo rồi.

Feldher đang tìm cách đánh trống lảng. Ông ta không muốn quay trở lại nơi có lẽ đã định đoạt số mệnh của mình. Bằng câu chuyện về cái chết của đàn chó, ông ta cố gắng đấu dịu với hai cảnh sát viên để được yên thân. Nhưng Boris và Mila không chịu bỏ cuộc.

– Tôi muốn ông nỗ lực một lần này, ông Feldher… – Mila nói, cố gắng tỏ ra thuyết phục.

– Thôi được, cô nói đi…

– Tôi muốn ông nói cho chúng tôi biết đối với ông, hình ảnh “cười trong nước mắt” gợi cho ông nghĩ đến điều gì.

– Cái này giống trò của bọn bác sĩ tâm thần chứ gì? Một kiểu kết hợp hú họa hả?

– Đại loại thế. – Mila đồng tình.

Feldher ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt hướng lên trần nhà, tay gãi cằm. Ông ta muốn làm ra vẻ hợp tác, hoặc cũng có thể đã hiểu hai cảnh sát không thể buộc tội mình vì đã “ém nhẹm chuyện cũ” nên tìm cách chế giễu họ.

– Billy Moore. – Cuối cùng Feldher nói.

– Ai vậy? Một trong đám bạn học của ông hả?

– À, một thằng rất đặc biệt! Nó vào cô nhi viện năm chín tuổi. Lúc nào nó cũng vui vẻ cười đùa. Nó nhanh chóng trở thành người đem lại may mắn cho tụi tôi… Hồi đó, cô nhi viện đã bắt đầu đóng cửa. Chúng tôi chỉ còn có mười sáu người cả thảy.

– Cả một chỗ rộng lớn như thế chỉ để cho một nhúm trẻ em thôi sao?

– Ngay cả các cha xứ cũng đã ra đi! Chỉ mình cha Rolf là còn ở lại… Tôi là một trong những đứa lớn nhất, lúc đó tôi mười lăm tuổi, tầm đó… Chuyện của Billy buồn lắm. Ba mẹ nó treo cổ tự tử. Nó đã phát hiện ra họ. Nó không khóc, cũng không kêu cứu, mà chỉ bắc ghế leo lên và gỡ xác họ từ trần nhà xuống.

– Kinh nghiệm nhớ đời.

– Không phải với Billy. Nó luôn vui vẻ. Nó thích ứng được với những điều tồi tệ nhất. Đối với nó, mọi thứ chỉ là một trò chơi. Tụi tôi chưa từng thấy cái gì như thế. Với đám trẻ chúng tôi, chỗ đó là một nhà tù, nhưng Billy mặc kệ. Nó rất năng động, tôi không biết phải nói thế nào nữa… Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó không thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi! “Tôi là Billy Moore, tường thuật trực tiếp trận chung kết cúp bóng đá thế giới từ sân vận động Aztec, thủ đô Mexico…” Vào hôm sinh nhật của nó, chúng tôi đã hùn nhau mua tặng nó một cái máy ghi âm! Đúng là cá gặp nước: nó dành hàng giờ để thu âm rồi ngồi nghe đi nghe lại!

Feldher bắt đầu huyên thuyên và đi lạc chủ đề. Mila cố đưa ông ta trở lại:

– Ông hãy kể cho chúng tôi nghe về những ngày tháng cuối cùng trong cô nhi viện của ông…

– Như tôi đã nói, nó sắp sửa bị đóng cửa, chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: được nhận nuôi, hoặc là đi sang những tổ chức khác, các mái ấm tình thương chẳng hạn. Nhưng chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mồ côi loại hai, chẳng ai muốn nhận về. Billy thì khác, người ta xếp hàng nhận nuôi nó! Tất cả mọi người đều quý mến và muốn có nó!

– Mọi chuyện kết thúc như thế nào? Billy có tìm được một gia đình tử tế không?

– Billy chết rồi.

Feldher nói câu đó với một sự thất vọng não nề đến nỗi tưởng như đó là định mệnh của chính ông ta. Mà có lẽ là thế thật: thằng bé kia giống như một sự cứu chuộc cho những đứa bạn của nó. Rốt cuộc cũng có một đứa có khả năng thoát ra khỏi cô nhi viện.

– Chuyện xảy ra thế nào? – Boris hỏi.

– Viêm màng não.

Feldher sụt sịt, mắt hơi ươn ướt. Ông ta quay về phía cửa sổ, vì không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt người lạ. Mila chắc chắn là khi cô và Boris đi khỏi, những hồi ức về Billy vẫn sẽ tiếp tục ùa vào căn nhà này như một bóng ma. Nhưng cũng nhờ những giọt nước mắt, Feldher đã thuyết phục được họ. Mila thấy Boris rời tay khỏi bao súng. Ông ta là người vô hại.

– Bệnh viêm màng não đã đem Billy đi. Do sợ nó thành dịch, người ta đã lập tức đem chúng tôi ra khỏi chỗ đó… trong cái rủi cũng có cái may, nhỉ? – Feldher cười gằn. – Họ đã ân xá cho chúng tôi, theo một cách nào đó! Và cái lỗ cống đó đã bị đóng cửa sáu tháng trước dự kiến.

Lúc hai người đứng dậy ra về, Boris hỏi lại lần nữa:

– Ông có gặp lại ai trong đám bạn cũ không?

– Không, nhưng cách đây khoảng hai năm tôi có gặp lại cha Rolf.

– Bây giờ ông ta đã nghỉ hưu.

– Chỉ mong ông ta xuống lỗ cho rồi.

– Tại sao? – Mila hỏi, nghĩ đến điều tệ hại nhất. – Ông ta đã làm gì ông à?

– Không hề. Nhưng khi trải qua cả thời thơ ấu trong một nơi như thế, buộc lòng người ta phải căm ghét tất cả những gì khiến họ nhớ lại nó.

Một suy nghĩ không khác mấy so với Boris. Bất giác anh gật gù đồng tình.

Feldher không tiễn họ ra cửa. Ông ta cúi xuống bàn và cầm lấy chỗ trà nguội mà Boris không uống, đưa lên môi nốc cạn.

Rồi ông ta nhìn họ một cách đắc thắng:

– Chúc một ngày tốt lành.

Một tấm ảnh cũ của nhóm học sinh cũ – những đứa trẻ cuối cùng từng sống ở cô nhi viện trước khi nó bị đóng cửa – đã được tìm thấy tại nơi ngày trước vốn là văn phòng của cha Rolf.

Trong số mười sáu đứa trẻ đứng cùng cha Rolf, chỉ có một đứa mỉm cười trước ống kính.

Một nụ cười trong nước mắt.

Đôi mắt lanh lợi, mái tóc rối bù, một chiếc răng cửa bị khuyết, một vệt dầu mỡ trên chiếc áo phông xanh nom giống như chiếc huy chương.

Billy Moore mãi mãi nằm lại trong bức ảnh và khu nghĩa trang nhỏ cạnh nhà thờ của cô nhi viện. Nó không phải là đứa trẻ duy nhất được chôn tại đó, nhưng ngôi mộ của nó là cái đẹp nhất. Một bức tượng thiên thần bằng đá giương cánh trong tư thế bảo vệ thằng bé.

Sau khi đã nghe báo cáo của Mila và Boris, giáo sư Gavila yêu cầu Stern thu thập tất cả những tài liệu có liên quan đến cái chết của Billy. Anh thực hiện công việc bằng sự nhiệt tình thường lệ, và trong khi phân tích hồ sơ, anh đã phát hiện một sự trùng hợp lý thú.

– Đối với loại bệnh có khả năng lây lan như viêm màng não, việc báo cáo cho nhà chức trách là bắt buộc. Người bác sĩ đã ký vào biên bản báo cáo do cha Rolf viết cũng chính là người đã viết giấy chứng tử. Hai giấy tờ này được ký cùng ngày.

Goran ngẫm nghĩ:

– Bệnh viện gần nhất cách đây ba mươi cây số. Khó có chuyện ông ta cất công đi đến tận nơi để tự mình xác nhận.

– Ông ta tin tưởng vào lời của cha xứ. – Boris nói. – Vì nhìn chung các cha không bao giờ nói dối…

Không phải lúc nào cũng thế, Mila nghĩ bụng.

Gavila thì không còn nghi ngờ nữa.

– Ta cần phải khai quật ngôi mộ.

Tuyết rơi từng bông nhỏ xíu, như thể dọn đường cho trận rơi tiếp theo. Do vậy, họ cần phải nhanh tay lên. Đội đào huyệt của bác sĩ Chang đang làm việc. Nhờ sự trợ giúp của một chiếc máy xúc, họ đào xuống lớp đất đông cứng vì lạnh. Không ai nói nửa lời.

Thanh tra Roche đã được thông báo về diễn tiến của vụ án và đang bận xua đuổi cánh báo chí đã sôi sục trở lại. Có lẽ Feldher quả thật đã thử đồn đoán dựa trên những gì được hai cảnh sát kể cho, nhưng vẫn tránh không tiết lộ quá nhiều. Thêm vào đó, như Roche vẫn luôn nói: “Khi không biết chuyện, truyền thông sẽ dựng chuyện”.

Do vậy họ cần phải gấp rút hơn trước khi có ai đó quyết định bù khuyết vào sự im lặng này bằng những thứ vớ vẩn được dựng lên. Đến lúc đó sẽ rất khó để bác bỏ mọi thứ.

Một tiếng thịch vang lên. Máy xúc cuối cùng đã chạm phải thứ gì đó.

Đội của Chang trèo xuống hố và bắt đầu đào bới bằng tay. Một tấm vải bạt được phủ lên quan tài để làm chậm quá trình phân hủy. Họ cắt nó ra. Qua vết cắt, có thể nhìn thấy nắp của một cỗ áo quan màu trắng nhỏ.

– Nó mục rữa hết cả rồi. – Bác sĩ Chang nói sau khi quan sát thật nhanh. – Nếu nhấc nó lên, ta có nguy cơ làm nó vỡ vụn. Chưa kể tuyết đang làm mọi thứ lộn xộn hết cả. – Anh nói thêm với giáo sư Goran và chờ nghe quyết định của ông.

– Thôi được, mở nó ra đi.

Không ai chờ đợi việc ông quyết định mở quan tài tại chỗ. Do đó đội của Chang trải một tấm vải dầu trên cái hố, dùng mấy cái cuốc căng nó ra như một mái che lớn để bảo vệ hiện trường khai quật.

Anh mặc vào người một chiếc áo chẽn có gắn đèn trên vai, rồi leo xuống hố dưới cái nhìn của thiên thần đá. Một kĩ thuật viên dùng ngọn lửa hàn xì nung chảy mối hàn bằng kẽm của cỗ áo quan. Nắp quan tài bắt đầu nhúc nhích.

Làm sao người ta có thể đánh thức một đứa trẻ đã chết từ mười tám năm trước? Mila tự hỏi. Billy More lẽ ra xứng đáng với một buổi lễ nho nhỏ, hoặc một vài lời cầu nguyện. Nhưng không ai muốn và cũng chẳng có thời gian cho việc đó.

Khi Chang mở nắp quan tài, họ phát hiện ra phần còn lại của thằng bé Billy tội nghiệp trong bộ trang phục của lễ ban thánh thể. Lịch lãm, với cà-vạt có ghim kẹp và quần dài gấu lơvê. Trong một góc quan tài là đôi giày trượt han gỉ và một chiếc máy ghi âm cũ.

Mila nhớ lại lời kể của Feldher: “Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó không thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi”.

Đó là tất cả những gì mà Billy sở hữu.

Chang bắt đầu dùng dao mổ cắt lớp vải quần áo ở một đôi chỗ. Mặc dù tư thế không được thoải mái, các thao tác của anh vẫn rất mau lẹ và chính xác. Anh kiểm tra tình trạng của bộ xương, rồi quay ra tuyên bố với những người còn lại:

– Có rất nhiều vết gãy. Tôi không thể khẳng định thời điểm của chúng… Nhưng theo tôi nghĩ, thằng bé này chắc chắn không chết vì viêm màng não.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.