Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 23 – Phần 1



Nó đã ở trước mắt họ ngay từ đầu.

Ngôi nhà đối diện đã quan sát họ hoài công đi tìm lời giải đáp trong câm lặng suốt cả ngày trời. Nó ở đó, cách họ vài bước chân, và kêu gọi họ bằng cách nhắc đi nhắc lại tín hiệu cầu cứu lỗi thời duy nhất ấy.

Ngôi nhà hai tầng thuộc về một bà Yvonne Gress nào đó. Một họa sĩ, theo như lời kể của hàng xóm. Bà ta sống với hai người con, một cậu bé mười một và một cô bé mười sáu tuổi. Họ dọn đến Capo Alto sau khi Yvonne ly dị chồng, và bà quay lại với niềm đam mê nghệ thuật đã từng từ bỏ để đi lấy một luật sư trẻ nhiều triển vọng.

Lúc đầu, những bức tranh trừu tượng của Yvonne không được công chúng đón nhận. Phòng tranh không bán được một bức nào sau cuộc triển lãm cá nhân. Nhưng tin tưởng ở tài năng của mình, bà đã không bỏ cuộc. Khi một người bạn đặt vẽ một bức chân dung gia đình bằng chất liệu sơn dầu để treo trên lò sưởi, Yvonne đã phát hiện ra mình có một thế mạnh ở trường phái hội họa ngây thơ. Chỉ trong thời gian rất ngắn, bà đã trở thành họa sĩ vẽ tranh chân dung được yêu cầu nhiều nhất bởi những ai đã chán những tấm ảnh thông thường và muốn lưu giữ hình ảnh gia đình mình trên vải.

Khi thông điệp bằng mã Morse hướng sự chú ý của mọi người sang ngôi nhà bên kia đường, một người bảo vệ sực nhớ ra rằng bà Yvonne và các con đã không xuất hiện một thời gian.

Rèm cửa sổ đã được buông xuống, nên không thể quan sát bên trong.

Trước khi thanh tra Roche ra lệnh tiến vào trong nhà, Goran đã gọi vào số điện thoại của Yvonne. Ngay sau đó, giữa sự yên tĩnh của con đường, họ nghe thấy tiếng chuông điện thoại vang ra từ trong nhà, nhỏ nhưng rõ. Không ai bắt máy.

Các cảnh sát cũng đã cố liên lạc với người chồng cũ của bà Yvonne Gress với hi vọng ít ra bọn trẻ đang ở cùng ông ta. Khi tìm ra người đàn ông đó, cảnh sát được cho biết là bố con họ không gặp nhau từ lâu. Chẳng có gì phải ngạc nhiên vì ông ta đã bỏ gia đình để chạy theo một cô người mẫu ngoài hai mươi tuổi và cho rằng việc gửi một khoản tiền chu cấp hàng tháng là đã làm tròn nghĩa vụ của một người cha.

Đội kĩ thuật đã đặt các cảm ứng nhiệt độ quanh nhà để tìm nguồn nhiệt nếu có.

– Nếu như có vật thể sống trong nhà, chúng ta sẽ biết ngay. – Roche nói, tin tưởng một cách mù quáng vào công nghệ.

Trong lúc đó, các chỉ số tiêu thụ điện, ga và nước được kiểm tra kĩ lưỡng. Tất cả không bị cắt do các hóa đơn được thanh toán tự động qua ngân hàng, nhưng côngtơ đã ngừng từ ba tháng trước đó, cho thấy không ai bật dù chỉ một bóng đèn trong nhà trong khoảng chín mươi ngày vừa qua.

– Nghĩa là từ khi ngôi nhà của gia đình Kobashi được hoàn thành và cả nhà họ dọn đến đây. – Stern lưu ý.

Goran nói:

– Rosa này, tôi muốn cô kiểm tra băng hình các camera an ninh. Có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà, và chúng ta cần phải phát hiện ra nó.

– Hi vọng là không có lần mất điện hệ thống nào nữa. – Rosa đáp.

– Chúng ta chuẩn bị vào thôi. – Gavila tuyên bố.

Trong lúc đó, Boris mặc áo chống đạn trong chiếc xe cơ động.

– Tôi muốn vào bên trong. – Anh nói khi gặp Mila ở cửa xe. – Họ không thể ngăn tôi được. Tôi muốn tự mình vào trong đó.

Boris không thể chịu được ý nghĩ rằng Roche sẽ yêu cầu đơn vị đặc nhiệm vào nhà trước.

– Bọn họ sẽ làm hỏng việc. Ở trong đó họ sẽ phải dò dẫm trong bóng tối…

– Tôi nghĩ họ sẽ xoay xở được. – Mila bình luận, tuy không muốn phủ nhận lời Boris.

– Vậy họ cũng biết bảo vệ các bằng chứng chứ? – Boris hỏi với giọng mỉa mai.

– Vậy thì tôi cũng muốn vào. Tôi nghĩ mình đáng được làm chuyện này. Nói cho cùng tôi là người đã phát hiện ra thông điệp…

Boris ngừng phắt lại và nhìn Mila không nói. Sau đó anh ném cho cô một chiếc áo chống đạn.

Lát sau hai người rời khỏi xe cơ động đến gặp Goran và Roche để giải thích vì sao họ phải vào nhà.

– Không có chuyện đó. – Ngài chánh thanh tra lập tức gạt phăng. – Đây là việc của đội đặc nhiệm. Tôi không thể chấp nhận một hành động khinh suất như vậy.

– Ông nghe này, thanh tra. – Boris đứng đối mặt với Roche để ông ta không thể tránh né cái nhìn của anh. – Cứ để Mila và tôi vào do thám trong đó. Những người khác chỉ vào khi thực sự cần. Tôi là một cựu binh, tôi đã được huấn luyện cho những chuyện này. Stern đã có hai mươi năm kinh nghiệm thực địa, anh ấy sẽ xác nhận với ông, và nếu như không thiếu một quả thận thì anh ấy đã xung phong đi cùng tôi. Ông thừa biết điều đó. Còn với đặc vụ Mila Vasquez, cô ấy từng một mình vào trong hang ổ của kẻ điên khùng đã giam giữ một thằng bé và một cô gái.

Mila chua xót tự nhủ nếu Boris biết chuyện gì đã xảy ra khi cô để cho tính mạng của con tin và của bản thân mình bị đe dọa, chắc anh chàng đã không hăng hái bảo vệ cô đến thế.

– Ông nghĩ kĩ đi. Có một bé gái còn sống đang ở đâu đó, nhưng không lâu nữa đâu. Mỗi hiện trường lại cho chúng ta biết thêm điều gì đó về kẻ thủ ác. Nếu ở trong kia có gì giúp chúng ta tiếp cận được Albert, – anh đưa tay chỉ ngôi nhà của Yvonne, – thì cần phải bảo đảm là nó không bị phá hủy. Và cách duy nhất là phái chúng tôi vào trong đó.

– Tôi không nghĩ vậy. – Roche cương quyết phản đối.

Boris dấn tới thêm một bước, mắt nhìn thẳng vào mắt ông thanh tra.

– Ông có muốn mọi chuyện phức tạp hơn không? Như thế này là đã khó khăn lắm rồi nha…

Câu này nghe như một lời đe dọa, Mila nghĩ bụng. Cô ngạc nhiên khi Boris dám ăn nói với cấp trên bằng giọng như thế. Có chuyện gì đó giữa hai người này mà cả cô lẫn Goran đều không biết.

Roche nhìn Gavila khá lâu: ông ta đang cần lời khuyên, hay chỉ đơn giản là cần một ai đó để chia sẻ trách nhiệm trong quyết định này?

Nhưng ông giáo sư tội phạm học không mảy may tính toán. Ông chỉ gật đầu.

– Tôi tin là chúng ta sẽ không phải hối tiếc. – Thanh tra Roche dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nhấn mạnh phần trách nhiệm của Goran.

Đúng lúc đó, một kĩ thuật viên tiến đến, trên tay là màn hình của thiết bị tầm nhiệt.

– Thưa thanh tra, máy dò đã xác định được thứ gì đó trên gác… Một sinh vật sống.

Mọi người cùng quay nhìn về phía ngôi nhà.

– Đối tượng vẫn ở trên tầng hai, không di chuyển. – Stern thông báo qua radio.

Boris đếm ngược trước khi xoay nắm đấm cửa ra vào. Trưởng nhóm bảo vệ đã đưa cho anh chìa khóa dự phòng. Mỗi ngôi biệt thự đều có một chiếc để phòng trường hợp khẩn cấp.

Mila quan sát sự tập trung của Boris. Phía sau họ, đội đặc nhiệm đã sẵn sàng để can thiệp. Boris bước qua ngưỡng cửa trước, Mila theo sau, giơ cao súng, và ngoài bộ áo chống đạn, họ còn đội một chiếc mũ cối có gắn tai nghe, micro cùng một đèn pin nhỏ ở thái dương bên phải. Stern chỉ đường cho hai người từ bên ngoài qua radio, trong khi vẫn để mắt đến vật thể được ghi nhận trên màn hình của thiết bị tầm nhiệt. Nó có nhiều cấp độ màu sắc để thể hiện những vùng nhiệt khác nhau của cơ thể, đi từ xanh dương sang vàng rồi đến đỏ. Không thể phân biệt rõ hình thù của đối tượng.

Nhưng nó trông giống như một người nằm trên sàn nhà.

Có thể đó là một người bị thương, nhưng trước khi đoán chắc về điều này, Boris và Mila phải thăm dò một cách kĩ lưỡng, đặt tiêu chí an toàn lên trên hết.

Phía bên ngoài biệt thự, hai đèn chiếu cực mạnh được đặt để rọi sáng hai mặt tiền nhà, tuy vậy ánh sáng lọt vào bên trong khá yếu do bị rèm cửa che chắn. Mila cố gắng tập cho mắt quen với bóng tối.

– Mọi chuyện ổn cả chứ? – Boris thì thầm hỏi cô.

– Vẫn ổn. – Cô đáp.

Trong khi chờ đợi, Goran Gavila đứng ở nơi từng là khu vườn của Kobashi, thèm một điếu thuốc lá như thể chưa được hút hàng năm trời. Ông thấy lo lắng. Nhất là cho Mila. Bên cạnh ông, Sarah Rosa đang xem lại các đoạn băng an ninh trên bốn màn hình trước mặt. Nếu thực sự có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà đối diện nhau thì họ sẽ sớm tìm ra thôi.

Điều đầu tiên Mila ghi nhận được là nhà của Yvonne Gress rất lộn xộn.

Ngay từ cửa vào, họ đã thấy toàn bộ phòng khách ở bên trái và gian bếp bên phải. Trên bàn là hàng đống hộp ngũ cốc đã mở, những chai nước cam vơi phân nửa và các hộp sữa đã hỏng. Ngoài ra còn có nhiều vỏ lon bia rỗng. Tủ chạn đang mở toang và một phần đồ ăn bên trong đã bị đổ lung tung xuống sàn.

Quanh bàn có bốn chiếc ghế. Chỉ có một chiếc bị dời chỗ. Bồn rửa đầy chén đĩa bẩn và xoong nồi dính cặn thức ăn. Mila chiếu đèn vào tủ lạnh: bên dưới một miếng nam châm hình con rùa là tấm ảnh của một phụ nữ tóc vàng ngoài bốn mươi đang tươi cười, hai tay quàng qua một cậu bé và một cô bé lớn hơn.

Trong phòng khách, trên chiếc bàn thấp đặt phía trước màn hình ti vi cực lớn ngổn ngang các chai rượu đã cạn, lon bia và gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. Một chiếc trường kỷ đã bị kéo ra giữa phòng. Thảm lót sàn lem luốc dấu giày.

Boris khều Mila và chỉ vào sơ đồ ngôi nhà, giải thích cho cô hiểu rằng họ phải tách nhau ra trước khi gặp lại tại chân cầu thang dẫn lên tầng trên. Anh chỉ cho cô một khu vực nằm phía sau bếp, để thư viện và phòng làm việc lại cho mình.

– Stern, mọi thứ trên lầu vẫn ổn chứ?

– Không có động tĩnh gì. – Stern trả lời.

Hai người ra hiệu cho nhau rồi Mila tiến đến khu vực được phân công.

– Đây rồi. – Trong lúc đó Sarah Rosa tuyên bố trước dãy màn hình. – Ông nhìn này…

Goran nghiêng người qua vai cô: theo như ngày tháng ghi trên một góc màn hình, đoạn băng đã được quay chín tháng trước đó. Biệt thự của Kobashi lúc đó hãy còn là một công trường đang xây dựng. Trong đoạn băng tua nhanh, các công nhân ríu rít xung quanh mặt tiền dang dở như những chú kiến hoảng loạn.

– Giờ thì ông xem cái này…

Rosa tua đoạn băng đến thời điểm chiều tối, khi mọi người rời công trường để về nhà trước khi quay lại vào sáng hôm sau. Cô cho đoạn băng chạy với tốc độ bình thường trở lại.

Họ có thể thoáng thấy một thứ gì đó ở ngay cửa ra vào ngôi nhà của Kobashi.

Đó là một cái bóng bất động, như thể đang chờ đợi. Nó hút thuốc.

Đốm lửa chập chờn của điếu thuốc tiết lộ vị trí của cái bóng.

Cái bóng đứng ở trong ngôi biệt thự của ông nha sĩ, chờ đợi cho trời tối hẳn, rồi mới bước ra ngoài. Hắn nhìn quanh, sau đó băng qua đoạn đường vài mét giữa hai ngôi nhà và bước vào trong ngôi nhà đối diện, không buồn gõ cửa.

– Nghe này…

Mila đang ở trong xưởng vẽ của Yvonne Gress, ở đó các tấm tranh nằm chồng chất khắp nơi, giá vẽ và màu vẽ nằm lung tung. Nghe thấy giọng nói của Goran, cô dừng bước.

– Chúng tôi có lẽ đã biết được chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà này.

Cô chờ đợi.

– Chúng ta đang gặp phải một tên ăn bám: một trong các công nhân được thuê để xây dựng ngôi nhà của Kobashi tối nào cũng ở lại sau giờ làm việc và lẻn sang nhà đối diện. Chúng tôi e là hắn… – ông ngừng một lúc để tìm từ diễn đạt sự việc kinh hoàng – đã giam cầm gia đình bà Yvonne trong chính ngôi nhà của họ.

Kẻ lạ mặt chiếm lấy cái tổ và hành xử như những người khác, tự thuyết phục rằng hắn là một thành viên của nó. Hắn chứng tỏ mọi thứ bằng tình yêu bệnh hoạn của mình. Nhưng khi đã chán, hắn loại bỏ gia đình mới quen và đi tìm một cái tổ khác.

Trong khi quan sát các dấu ấn ghê tởm hắn để lại trong xưởng vẽ của Yvonne, Mila lại nhớ đến những con giòi Sarcophaga carnaria lúc nhúc trên tấm thảm nhà Kobashi.

Sau đó cô nghe tiếng Stern hỏi:

– Trong bao lâu?

– Sáu tháng. – Goran đáp.

Mila thấy bụng quặn lên. Suốt trong sáu tháng trời, bà Yvonne và các con đã bị giam cầm bởi một kẻ tâm thần được tùy ý muốn làm gì họ thì làm. Quá đáng hơn, hắn làm chuyện đó ngay giữa một tá các ngôi nhà khác, nơi các gia đình khép mình trong thiên đường xa hoa này để tách rời khỏi thế giới tàn khốc và đặt niềm tin vào một sự an ninh lý tưởng đến vô lý.

Sáu tháng. Và không một ai nhận ra chuyện gì.

Khu vườn được xén cỏ hàng tuần, các luống hoa hồng đều đặn nhận sự chăm sóc tận tâm của các bác làm vườn. Ánh đèn trước hiên nhà được bật lên mỗi tối, nhờ công tắc hẹn giờ theo đúng quy định của ban quản lý. Đám trẻ đạp xe và chơi đá bóng trên con đường trước nhà, các quý bà vừa đi dạo vừa tán gẫu và trao đổi công thức làm bánh, còn cánh đàn ông chạy bộ mỗi sáng Chủ nhật và rửa xe trước gara nhà mình.

Sáu tháng trời. Mà không ai thấy gì.

Họ không tự hỏi vì sao các tấm rèm luôn che kín mít, kể cả vào ban ngày. Họ không nhận ra đống thư từ dồn ứ trong hộp thư. Không ai buồn chú ý đến sự vắng mặt của Yvonne và các con trong các dịp sinh hoạt của câu lạc bộ, chẳng hạn như vũ hội mùa thu và buổi quay xổ số may mắn ngày 23 tháng Mười hai. Các món đồ trang trí Giáng sinh – nhà nào cũng như nhà nào – được các công nhân sắp đặt như thường lệ, rồi gỡ đi sau dịp lễ. Điện thoại đổ chuông không người nhấc máy, bà Yvonne và các con không mở cửa khi có người gọi, nhưng chẳng ai lo lắng.

Các họ hàng của bà Yvonne Gress đều ở xa. Mà ngay cả họ cũng không thấy gì bất thường bởi sự im lặng quá lâu này.

Trong suốt khoảng thời gian dài đó, gia đình nhỏ đã ao ước, hi vọng, cầu nguyện hàng ngày cho một sự giúp đỡ hoặc một sự chú ý chẳng bao giờ đến.

Có lẽ gã là một kẻ ác dâm. Và đây là trò chơi, là thú tiêu khiển của hắn.

Ngôi nhà búp bê của hắn, Mila thầm nghĩ trong đầu khi nhớ đến trang phục mà Albert đã mặc cho thi thể đặt trong nhà Kobashi.

Cô nghĩ đến những trò bạo lực không đếm xuể mà bà Yvonne và các con đã phải hứng chịu trong khoảng thời gian dài đó. Sáu tháng đày ải. Sáu tháng bị tra tấn. Sáu tháng thống khổ. Nhưng nghĩ cho cùng, chỉ cần một khoảng thời gian ngắn hơn là đã đủ để cho mọi người quên hẳn họ.

Ngay cả “đội ngũ giữ gìn pháp luật” cũng không nhận ra điều gì, dù họ đứng trước nhà suốt hơn hai mươi bốn giờ vừa qua, trong tình trạng báo động. Họ cũng có tội và là những kẻ đồng lõa theo một nghĩa nào đó. Ngay cả cô cũng vậy.

Một lần nữa. Albert đã cho thấy thói đạo đức giả nơi nhóm người cảm thấy “bình thường” chỉ vì mình không giết và cắt tay của các bé gái vô tội. Chính sự vô tâm của họ cũng là một tội ác nghiêm trọng không kém.

Boris cắt ngang dòng suy nghĩ của Mila.

– Stern, trên đó vẫn ổn chứ?

– Đường vẫn thông.

– Vậy chúng ta đi thôi.

Họ gặp nhau như đã hẹn ở chân cầu thang dẫn lên tầng trên, ở đó có các phòng ngủ.

Boris ra hiệu cho Mila yểm trợ phía sau. Từ lúc này, họ phải quan sát trong tình trạng yên lặng hoàn toàn để không bị lộ. Stern chỉ được phép lên tiếng để cảnh báo họ trong trường hợp vật thể sống trên màn hình di chuyển.

Hai người bước lên các bậc thang. Kể cả thảm trải cầu thang cũng dính đầy vết bẩn, dấu giày và đồ ăn. Trên tường treo những tấm ảnh chụp các chuyến du lịch, những dịp sinh nhật hoặc lễ kỷ niệm gia đình, và một bức chân dung bà Yvonne cùng các con nơi đầu cầu thang. Kẻ nào đó đã khoét đi những đôi mắt trên đó, chắc là cảm thấy khó chịu vì cái nhìn thiêu đốt.

Khi lên đến nơi, Boris tránh sang bên đợi cho Mila bắt kịp mình. Sau đó anh đi trước mở đường. Có nhiều cánh cửa khép hờ hai bên hành lang. Ở phía cuối, hành lang rẽ sang trái.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.