Trăm năm cô đơn
Chương 09 – Phần 1
Đại tá Hêrinênđô Mackêt là người đầu tiên nhận thấy cái hư vô của chiến tranh. Với tư cách người chỉ huy toàn quyền ở Macônđô chàng duy trì đều đặn một tuần hai buổi nói chuyện điện tín với đại tá Aurêlianô Buênđya. Lúc đầu những buổi trao đổi này đã khẳng định được dòng chảy của cuộc chiến đẫm máu mà ở bất kỳ thời điểm nào các đường viền của nó cũng cho phép xác lập điểm đích sẽ đi tới và dự kiến những đường hướng trong tương lai. Dù không bao giờ tự để mình bị sa lầy trong lĩnh vực tình cảm thân tín, ngay cả đối với những người bạn chiến đấu gần gũi nhất, lúc này đại tá Aurêlianô Buênđya đã giữ được cái cách nói quen thuộc cho phép người ở bên kia đầu dây nhận ra mình. Nhiều lần chàng kéo dài các buổi nói chuyện điện tín quá thời gian quy định và để chúng dây dưa sang các câu chuyện phiếm. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc chiến ngày càng mở rộng và căng thẳng hơn, hình ảnh của chàng dần dần lu mờ đi trong thế giới mông lung không có thực. Những nốt tạch và nốt tè theo cách ấn cần manip của chàng ngày một xa xưa và mơ hồ hơn, và chúng họp lại thành những từ ngữ dần dần cũng mất hết ý nghĩa. Lúc này, đại tá Hêrinênđô Mackêt chỉ nghe thôi và chàng cảm thấy khó chịu bởi cảm giác mình đang tiếp xúc qua điện tín với một người xa lạ thuộc thế giới khác.
– Mình đã hiểu, Aurêlianô ạ! – Chàng ấn cần manip để kết thúc – Đảng Tự do muôn năm!
Đại tá Hêrinênđô Mackêt đã hoàn toàn bị mất liên hệ với chiến tranh. Cái mà trước đây vốn là một hành động thực tế, một đam mê không thể kiềm chế được của tuổi trẻ, giờ đây đối với chàng đã trở thành một câu chuyện xưa, một nỗi trống trải hư vô. Nơi duy nhất để chàng chạy trốn nỗi cô đơn ấy là phòng máy may của Amaranta. Chiều nào chàng cũng đến thăm cô. Chàng thích ngắm đôi bàn tay cô trong lúc gấp nếp vải trên bàn máy do Rêmêđiôt – Người đẹp quay maniven. Hàng giờ, hàng giờ bọn họ ở bên nhau, không nói lấy một lời. Trong lúc Amaranta tự thoả mãn với việc duy trì ngọn lửa yêu đương mãnh liệt của chàng, thì chàng hoàn toàn không thể hiểu nổi mục đích ấy của trái tim kia. Khi được biết tin chàng sẽ trở về, Amaranta cảm thấy sung sướng đến ngạt thở. Nhưng khi thấy chàng lẫn trong đội bảo vệ ồn ĩ của đại tá Aurêlianô Buênđya bước vào nhà, thấy chàng tiều tuy vì phải lăn lộn nơi hải ngoại, thấy chàng già đi vì tuổi tác và sự lãng quên, thấy chàng nhớp nháp thứ mồ hôi quện bụi đường, hôi mùi hôi súc vật, thấy chàng xấu trai với cánh tay bị băng bất động ở trước nghe, lúc ấy cô thất vọng quá muốn chết luôn. “Trời ơi. – Cô nói – người này không phải là người mình hằng mong đợi”. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, chàng đến nhà trong tư thế bảnh bao hơn: đã cạo râu và tắm rửa, bộ ria mép thơm mùi oải hương, và cánh tay không đeo băng nữa. Chàng mang cho cô một cuốn kinh cầu nguyện bọc bìa cứng khảm xà cừ.
– Ôi, đàn ông mới lạ làm sao. – Cô nói bởi không biết nói gì hơn. – Cả đời đấu tranh chống lại các thày tu, thế nhưng họ lại đi tặng sách kinh đấy.
Kể từ ngày đó, ngay dù trong những ngày chiến sự ác liệt nhất chiều nào chàng cũng đến thăm cô. Rất nhiều lần chàng quay bánh xe quay của chiếc máy khâu khi không có mặt Rêmêđiôt – Người đẹp. Amaranta cảm thấy lúng túng trước tấm lòng thuỷ chung son sắt, trước tinh thần tận tuy của người đàn ông được ông anh mình tin cậy uỷ thác cho nhiều quyền thế ấy mà khi bước vào phòng máy may vẫn cứ cởi vũ khí để ở ngoài phòng khách. Nhưng, trong bốn năm ròng chàng đã thổ lộ tình yêu của mình với cô và cô đã tìm được cách thoái thác mà không làm chàng đau khổ, bởi vì cô không yêu chàng, nhưng cũng thấy mình không thể sống thiếu chàng. Rêmêđiôt – Người đẹp, người dường như dửng dưng với mọi sự trên đời, bị coi là người kém phát triển trí tuệ, lại tỏ ra không thờ ơ lắm và đã ra vẻ mến đại tá Hêrinênđô Mackêt. Amaranta ngay lập tức phát hiện ra rằng cái cô bé do cô nuôi ấy tuy chưa ở tuổi dậy thì đã là cô gái đẹp nhất ở Macônđô rồi. Trong trái tim mình cô cảm thấy đang sống lại mối hận thù cô từng đối xử với Rêbêca trước đây, và cầu khẩn Thượng đế hãy đừng để mình phải mong cô bé chết, cô đã tống khứ nó khỏi phòng máy may của mình. Đó là thời kỳ đại tá Hêrinênđô Mackêt bắt đầu cảm thấy chán ghét chiến tranh. Chàng sử dụng đến sự thận trọng của mình, đến tính nết dịu dàng của mình, sẵn sàng từ bỏ vinh quang từng đổi bằng những năm tháng đẹp nhất của đời mình để chiếm lấy trái tim Amaranta. Nhưng chàng đã không thuyết phục nổi cô.
Vào một chiều tháng tám, đau khổ trước thái độ kiên trì của chàng, Amaranta ở lỳ trong phòng ngủ để khóc cho nỗi cô đơn của số phận mình, sau khi đã dứt khoát từ chối tấm lòng kiên trinh của chàng:
– Chúng ta hãy mãi mãi quên nhau đi. – Cô nói với chàng – Bởi vì chúng ta đã nhỡ thì rồi.
Buổi chiều ấy đại tá Hêrinênđô Mackêt vội chạy đến đáp lời cú điện tín của đại tá Aurêlianô Buênđya. Đó là một buổi nói chuyện thường lệ không hề làm xoay chuyển cuộc chiến tranh trì trệ. Vào lúc kết thúc, đại tá Hêrinênđô Mackêt ngắm nhìn những con đường hiu quạnh, những giọt nước long lanh như pha lê trên tán những cây hạnh đào, rồi chàng lạc lối trong nỗi cô đơn.
– Aurêlianô này. – Chàng buồn rầu nói qua cần manip – Đang mưa ở Macônđô đấy!
Im lặng hồi lâu trên đường dây. Bỗng nhiên máy móc vang lên những tiếng tạch tè bực bội của đại tá Aurêlianô Buênđya.
– Đừng có mà lẩn thẩn thế, Hêrinênđô ạ. – Những tín hiệu nói. – Dĩ nhiên tháng tám thì trời mưa.
Đã lâu lắm hai người không được nhìn mặt nhau, đến mức đại tá Hêrinênđô Mackêt phải ngạc nhiên trước thái độ phản ứng đầy vẻ khiêu khích ấy. Tuy nhiên, sau đó hai tháng, khi đại tá Aurêlianô Buênđya trở về Macônđô thì sự ngạc nhiên ấy trở thành một niềm vui đến bần thần cả người. Ngay đến cả Ucsula cũng phải ngạc nhiên khi thấy chàng thay đổi nhiều quá.
Lẩn mình trong chiếc áo khoác ngoài mặc dù đang lúc oi bức, chàng lặng lẽ trở về không hề có lính hộ vệ, mang theo ba ả nhân tinh. Chàng để họ cùng ở với mình trong một nhà, còn mình thì nằm dài trên võng gần như hết ngày. Hầu như chàng không đọc những bức điện thông báo tình hình chiến sự hàng ngày. Có lần, đại tá Hêrinênđô Mackêt xin chàng cho những lời chỉ dẫn để giải quyết một vấn đề đang có chiều hướng gây nhiều phiền phức trong quan hệ quốc tế ở một địa. điểm trên biên giới và được chàng trả lời:
– Đừng làm phiền ta vì những chuyện cỏn con này. – Chàng ra lệnh cho đại tá. – Hãy đi hỏi đức Toàn năng ấy.
Có lẽ đó là giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc chiến. Các tay địa chủ thuộc phái Tự do, những người ngay từ lúc đầu ủng hộ cách mạng, đã ngầm liên minh với các tay địa chủ thuộc phái Bảo hoàng để chặn đứng cuộc cải cách ruộng đất. Các chính khách từng tài trợ cho cuộc chiến tranh, ngay từ ở hải ngoại họ đã công khai phản đối những quyết định táo bạo của chàng. Nhưng chàng phớt lờ hết, ngay cả đối với sự phế truất quyền lực này. Chàng không đọc lại những bài thơ của mình giờ đây đã dày tới năm tập và thường xuyên bị bỏ quên dưới đáy rương. Về ban đêm hoặc vào giờ ngủ trưa, như thường lệ, chàng gọi một nhân tình lên võng hú hí với ả rồi sau đó lăn ra ngủ say như trâu chết, chẳng còn biết đến trời đất là gì nữa. Lúc ấy, chỉ có chàng mới hiểu rằng trái tim sôi nổi của mình đã vĩnh viễn bị đày vào cõi hỗn mang. Lúc đầu, say sưa trước thắng lợi trở về trước những thắng lợi quá hiển nhiên, chàng đã bước lên tột đỉnh vinh quang. Chàng hài lòng bám chặt lấy công tước Macbôru, người thày vĩ đại trong nghệ thuật quân sự của mình, người mặc chiếc áo khoác làm bằng da hổ vẫn giữ nguyên vuốt sắc khiến người lớn phải kính nể và trẻ con phải sợ hãi. Đó là lúc chàng quyết định không một ai, kể cả Ucsula, được đến gần chàng ba mét. Với những mệnh lệnh ngắn gọn và kiên quyết, chàng quyết định vận mệnh thế giới ngay từ trung tâm cái vòng tròn do những kẻ tuỳ tùng lấy phấn trắng vẽ ở bất kỳ nơi nào chàng đến và chỉ một mình chàng bước vào. Lần đầu tiên có mặt ở Manaurê, sau khi hành hình tướng Môncađa, chàng vội vã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của nạn nhân mình. Bà quả phụ nhận lấy kính, huân chương, đồng hồ, nhẫn cưới nhưng không cho phép chàng bước chân qua cửa.
– Đại tá không nên vào nhà, – bà nói. – Ngài điều hành ngoài mặt trận, còn tôi, tôi điều hành trong nhà mình.
Tuy đại tá Aurêlianô Buênđya không để lộ ra mặt nỗi căm tức nhưng tâm trí chàng chỉ hết day dứt khi biết đám tuỳ tùng đã cướp phá và thiêu thành tro ngôi nhà bà quả phụ. “Xin anh hãy lo giữ gìn trái tim mình, Aurêlianô ạ.” Lúc ấy đại tá Hêrinênđô Mackêt nói với chàng. “Anh đang mục ruỗng trong lúc còn đang sống”. Lúc này, chàng tổ chức hội nghị lẩn thứ hai các tướng lĩnh khởi nghĩa chủ chết. Chàng gặp mặt tất cả: các nhà ảo tưởng có, những kẻ nhiều tham vọng có, những tay mạo hiểm có, những kẻ nặng hiềm thù cá nhân có, và ngay cả đến những tên đầu trộm đuôi cướp cũng có. Cũng còn có một quan chức Bảo hoàng đã chạy trốn toà án vì tội biển thủ công quỹ.
Rất nhiều người không biết gì, kể cả vì sao mình chiến đấu họ cũng không biết nốt. Trong khung cảnh lộn xộn của đám đông mà sự khác biệt nhau về chính kiến suýt nữa gây ra vụ bùng nổ trong nội bộ, nổi bật lên một thế lực đáng sợ: đó. là tướng Têôphilô Vacgat. Ngài là một người Anhđiêng thuần gốc, thô bạo, mù chữ, nhưng lại có đức ranh mãnh ngầm và có tài dùng ma thuật vùng Tiểu Á để trói buộc quân linh mình trong một thứ cuồng tín điên rồ. Đại tá Aurêlianô Buênđya triệu tập Hội nghị với mục đích thâu tóm quyền chỉ huy quân khởi nghĩa vào tay mình để chống lại các thủ đoạn của đám chính khách.
Tướng Têôphilô Vacgat đã đi trước những dự định của chàng: Trong ít giờ đồng hồ ngài phá vỡ được sự thống nhất của một số viên tư lệnh nổi tiếng nhất và nhẩy lên nắm quyền chỉ huy chung. “Đó là một con mãnh thú cản phải dè chừng.” Chàng nói với các sĩ quan thuộc quyền mình. “Đối với chúng ta, con người ấy còn nguy hiểm hơn cả viên Bộ trưởng Bộ quốc phòng đấy”.
Giữa lúc ấy có một viên đại uý trẻ, vốn thường trội hơn người đời bởi tính uỷ mị của mình, đã thận trọng giơ tay:.
– Thưa đại tá, thật quá dễ dàng. – Viên đại uý trẻ nói để thăm dò. – Giết quách hắn đi là xong thôi mà!
Đại tá Aurêlianô Buênđya không ngạc nhiên trước tính chất giá lạnh của lời đề nghị được đưa ra mà trái lại chàng ngạc nhiên trước cái cách thức trong đó một phần tử thứ yếu đã đi trước chính sự suy nghĩ của mình.
– Các ngài đừng đợi ta ra cái lệnh ấy nhé. – Chàng nói.
Quả nhiên, chàng không ra lệnh. Nhưng mười lăm ngày sau đó tướng Têôphilô Vacgat đã bị dao băm vằm trong một vụ phức kích bất ngờ và đại tá Aurêlianô Buênđya bước lên nắm quyền chỉ huy chung. Chính trong cái đêm chức vụ mời của chàng được tất cả các viên tư lệnh quân khởi nghĩa thừa nhận, chàng bỗng hoảng hốt bật thức dậy, gào toáng đòi người ta mang đến cho mình một chiếc áo khoác ngoài. Một cơn lạnh bên trong biết thấu tận xương, làm chàng nhức nhối, ngay lúc mặt trời đứng bóng cũng không để cho chàng yên. Tình trạng ấy kéo dài vài tháng cho đến khi chàng bị mất ngủ kinh niên. Cơn mơ quyền lực bắt đầu đổ vỡ từng mảng. Để tìm cách giải cơn rét bên trong chàng ra lệnh bắn viên sĩ quan trẻ nêu đề nghị giết tướng Têôphilô Vacgat. Các mệnh lệnh của chàng được thi hành trước lúc được ban bố, nhiều khi ngay cả trước khi chàng dự định và thường thường vượt quá mức chàng dám mong muốn. Lạc lối trong nỗi cô đơn của quyền lực vô biên, chàng bắt đầu mất phương hướng. Chàng khó chịu trước đám dân chúng ở những làng bị chiếm đóng tung hô mình và chàng cảm thấy họ chính là đám dân chúng từng tung hô kẻ thù của mình. Trên khắp các nẻo đường, chàng đều gặp những trang thiếu. niên nhìn mình với chính đôi mất mình, nói chính giọng nói của mình, chào chàng bằng chính sự nghi ngờ mà chàng đã chào chúng và đều nhận chúng là con của chàng. Chàng cảm thấy mình bị phân tán, bị lặp lại, và cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chàng nhận ra chính đám sĩ quan của mình đã lừa phỉnh mình. Chàng đánh lộn với công tước Macbôru. Người bạn tốt nhất, – chàng vẫn thường nhủ mình, – là người vừa chết xong.
Chàng mệt mỏi trước hoàn cảnh mơ hồ, trước vòng luẩn quẩn của cuộc chiến dằng dai ấy mà chàng luôn luôn bắt gặp mình ngay tại một địa điểm, chỉ có điều là chàng ngày một già thêm, ngày một yếu hơn mà không hề biết vì sao, như thế nào và đến bao giờ. Lúc nào cũng có kẻ đứng ở ngoài vòng phấn trắng. Đó là kẻ đòi tiền chàng, là kẻ có đứa con đang bị ho gà, hoặc là kẻ muốn đi ngủ mãi mãi vì không thể ngậm mãi trong miệng mình cái mùi vị cứt đái của chiến tranh, và là kẻ tuy nhiên vẫn cố gắng gượng đứng nghiêm để báo cáo: “Thưa đại tá, tất cả đều bình thường ạ”. Và chính sự bình thường ấy, vốn có nghĩa là không có gì xảy ra, lại là cái đáng sợ hơn cả của cuộc chiến tàn bạo. Vì bị điềm báo bỏ rơi và để chạy trốn cơn rét bên trong cơ thể sẽ theo riết chàng cho tới khi chết, chàng tìm đến nơi ẩn nấp duy nhất ở làng Macônđô, trong hơi ấm của những kỷ niệm xa xưa ấy. Sự lười biếng của chàng thật là quá đáng đến mức khi người ta báo tin có phái đoàn của đảng đến để thảo luận về việc đình chiến thì chàng chỉ cựa mình trên võng, không hề thức dậy.
– Dẫn bọn nó đến nhà thổ nhé. – Chàng nói.
Đó là sáu luật sư mặc áo đuôi tôm đội mũ phớt đang cố chịu đựng cái nóng ngột ngạt của tháng mười một gay gắt nắng.
Ucsula để họ trú chân ngay trong nhà mình. Phần lớn buổi ban ngày bọn họ đóng kín cửa ở lỳ trong phòng ngủ để lén lút bàn luận. Khi tối đến họ đòi cho một đội linh bảo vệ và một nhóm nhạc công đàn phong cầm rồi tự ý đến tiệm bác Catarinô. “Đừng làm phiền họ nhé.” Đại tá Aurêlianô Buênđya căn dặn. “Ta đã biết tỏng bọn chúng muốn gì rồi”. Vào đầu tháng chạp, cuộc thảo luận từng chờ đợi lâu nay, được mọi người dự đoán là một cuộc thảo luận không thể kết thúc đã diễn ra trong không đầy một giờ. Trong phòng khách nực nụa, bên cạnh cây đàn pianô tự động được một tấm vải trắng phủ kín, lần này đại tá Aurêlianô Buênđya không ngồi vào chính giữa vòng phấn trắng do đám tuỳ tùng của mình vạch ra. Chàng ngồi trên một chiếc ghế giữa những cố vấn chính trị của mình. Cuộn mình trong chiếc áo khoác nỉ, chàng lặng lẽ nghe những đề nghị ngắn gọn của các sứ giả đặc nhiệm. Đầu tiên họ đề nghị bỏ việc kiểm tra văn tự ruộng đất để lấy lại sự ủng hộ của cánh địa chủ Tự do. Sau đó họ đề nghị từ bỏ cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng của giáo hội để tranh thủ sự đồng tình của giáo dân. Cuối cùng họ đề nghị từ bỏ lý tưởng bình đẳng về quyền lợi giữa con hoang và con đích để bảo vệ tôn ty trật tự trong gia đình.
– Nghĩa là, – Đại tá Aurêlianô Buênđya mỉm cười khi các sứ giả ngừng đọc, – chúng ta đang chiến đấu chỉ để giành chính quyền thôi.
– Đó chỉ là những cải cách tạm thời. – Một đại biểu cãi lại. – Lúc này hơn lúc nào hết, điều căn bản là mở rộng cơ sở quần chúng của cuộc chiến. Sau đó chúng ta sẽ xem lại.
Một cố vấn chính trị của đại tá Aurêlianô Buênđya vội vã tham gia tranh luận.
– Thật là nhảm nhí, – ông ta nói. – Nếu những cải cách này là đúng đắn thì điều đó muốn nói rằng: chế độ Bảo hoàng là tốt đẹp. Nếu bằng những cải cách này chúng ta mở rộng được cơ sở quần chúng của cuộc chiến thì điều đó muốn nói rằng chế độ Bảo hoàng đang có cơ sở quần chúng rộng lớn. Và nhìn chung, điều đó muốn nói rằng trong gần hai mươi năm nay chúng tôi đã chiến đấu chống lại lương tri dân tộc mình.
Ông ta còn định tiếp tục nói nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya ra hiệu cho ông dừng lại. “Xin tiến sĩ đừng làm mất thời giờ.” Chàng nói. “Điều có ý nghĩa quan trọng là kể từ bây giờ trở đi chúng ta chiến đấu với mục đích duy nhất là giành lấy chính quyền”. Chàng vẫn mỉm cười, cầm lấy những tờ giấy do các sứ giả đưa cho và sẵn sàng định ký.
– Gặp thời thế thế thời phải thế. – Chàng kết thúc. – Chúng tôi hoàn toàn chấp nhận mà.
Những người thuộc phe chàng thảng thốt đưa mắt nhìn nhau.
– Xin đại tá thứ lỗi cho. – Đại tá Hêrinênđô Mackêt nhỏ nhẹ nói – Đó là một sự phản bội ạ?
Đại tá Aurêlianô Buênđya dừng ngọn bút đã chấm mực ở trên không và trút lên đầu đại tá Hêrinênđô Mackêt tất cả sức nặng quyền uy của mình:
– Nộp vũ khí cho ta. – Chàng ra lệnh.
Đại tá Hêrinênđô Mackêt đứng dậy, đặt vũ khí lên bàn.
– Hãy trình diện ở trại lính. – Đại tá Aurêlianô Buênđya ra lệnh cho chàng. – Anh sẽ phải chịu sự định đoạt của toà án cách mạng.
Sau đó chàng ký bản tuyên bố, trao giấy má cho các sứ giả và nói với họ:
– Hỡi các ngài, các ngài đã có giấy tờ của mình ở đấy cả rồi. Mong các ngài hãy tận hưởng chúng nhé.
Hai ngày sau đó, đại tá Hêrinênđô Mackêt bị tố cáo là kẻ phản bội, đã bị kết án tử hình. Nằm trên võng mình, đại tá Aurêlianô Buênđya cứ trơ lỳ trước mọi lời van xin khoan hồng cho đại tá Hêrinênđô Mackêt. Đêm trước ngày hành hình, bất chấp lệnh không được làm phiền chàng, Ucsula đã vào thăm chàng ngay trong phòng ngủ. Mặc bộ đồ đen tuyền phủ từ đầu đến phân, vẻ trịnh trọng khác thường, cụ đứng suốt ba phút trong lúc nói với chàng. “Ta biết mày sẽ bắn thằng Hêrinênđô. – Cụ dõng dạc nói, – và ta không thể làm gì để ngăn chặn vụ hành hình này. Nhưng ta nói cho mày biết ngay sau khi thấy tử thi nó ta sẽ thề trước hài cốt của cha mẹ ta, trước vong linh của Hôsê Accađiô Buênđya, ta sẽ thề trước Thượng đế rằng dù mày trốn đi bất kỳ đâu ta cũng lôi mày ra và ta sẽ tự tay giết mày”. Trước khi ra khỏi phòng, không đợi nghe con mình cãi lại, cụ kết thúc:
– Cũng như ta sẽ giết mày nếu mày sinh ra với cái đuôi con lợn.
Trong cái đêm dài đằng đẵng ấy, khi đại tá Hêrinênđô Mackêt nhớ lại những buổi chiều êm đẹp trong phòng máy may của Amaranta thì đại tá Aurêlianô Buênđya bức bối dằn vặt, cố cấu xé cho vỡ nát cái đêm dài dằng dặc, cái vỏ dai bọc quanh nỗi cô đơn của chàng. Quãng đời hạnh phúc duy nhất của chàng, kể từ buổi chiều xa xưa ấy khi cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá, đã diễn ra trong xưởng kim hoàn, nơi thời gian cứ trôi đi trong lúc chàng miệt mài đúc những con cá vàng. Chàng đã phải khơi dậy ba mươi hai cuộc nội chiến, đã nhiều lần thoát chết, và đã phải tìm kiếm vinh quang như con lợn dũi đống rác tìm kiếm thức ăn, để gần bón mươi năm sau mới phát hiện ra ý nghĩa của câu phương ngôn “ngu si hưởng thái bình.” một đức tính vốn có của sự nhẹ dạ cả tin.
c nh� a���P�khi thấy ngài đã già đi nhiều quá, khi thấy tay ngài run lẩy bẩy, khi thấy ngài an phận chịu chết và do đó lúc này chàng cảm thấy tự khinh bỉ mình đến mức có thể nhầm nó với lòng thương hại:
– Anh hẳn biết hơn tôi. – Chàng nới, – rằng tất cả toà án quân sự là một trò cười, vì rằng trên thực tế anh phải đền tội cho những kẻ khác, bởi vì lần này bằng mọi cách chúng tôi sẽ giành được chiến thắng. Nếu anh ở vào địa vị tôi lúc này, lẽ nào anh lại không làm như vậy?
Tướng Môncađa ngồi dậy lấy vạt áo lau cặp kính gọng đồi mồi. “Cũng có thể.” Ngài nói. “Nhưng điều tôi phải bận tâm không phải là việc anh bắn tôi, bởi vì dù thế nào đi nữa đối với loại người chúng ta thì cái chết này là hiển nhiên”. Ngài đặt cặp kính lên giường rồi cởi chiếc đồng hồ quả quít. “Điều tôi bận tâm,” ngài nói tiếp, “là từ một người căm thù đám tướng lĩnh nhà nghề, từng đấu tranh không mệt mỏi với chúng, từng trăn trở suy nghĩ về chúng thế mà nay anh lại chẳng khác gì chúng. Trong cuộc đời không có mẫu người nào đại diện cho sự thấp hèn của con người như anh”. Ngài cởi chiếc nhẫn cưới, và chiếc huân chương Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt rồi đặt chúng xuống bên chiếc đồng hồ và cặp kính.
– Đến cái nước này, – ngài kết thúc, – anh không chỉ là một tên độc tài khát máu điển hình nhất của lịch sử nước ta, mà rồi anh còn sẽ bắn cả cụ Ucsula để lương tâm mình được yên ổn.
Đại tá Aurêlianô Buênđya cứ đứng thần ra như một bức tượng. Tướng Môncađa đưa cho chàng kính, huân chương, đồng hồ, nhẫn cưới rồi đồi giọng nói:
– Nhưng thôi, tôi không muốn anh đến để mà xỉ vả anh. – Ngài nói. – Tôi muốn nhờ vả anh chuyển những thứ này đến tay vợ tôi.
Đại tá Aurêlianô Buênđya nhận các thứ rồi đút vào túi.
– Bà ấy vẫn sống ở Manaurê chứ?
– Vẫn ở Manaurê. – Tướng Môncađa xác nhận. – Vẫn cái ngôi nhà ở phía sau nhà thờ nơi anh đã đến gửi bức thư ấy.
– Tôi sẵn lòng làm. Hôsê Raken ạ. – Đại tá Aurêlianô Buênđya nói.
Khi chàng bước ra ngoài trong ngọn gió xanh ẩm hơi sương, mặt chàng ướt nhoè như trong buổi bình minh trước đây, và chỉ lúc ấy chàng mới hiểu vì sao mình đã quyết định bản án phải được thi hành ngay trong sân nhà tù chứ không thể ở bên cạnh bức tường nghĩa địa được. Đội hành hình xép hàng ngay trước cửa, bồng súng chào chàng, vị tư lệnh của họ.
– Các anh đã có thể lôi hắn đi được rồi. – Đại tá ra lệnh.
��. H�Ig����0�� chuyện về gà chọi. Hai người hứa hẹn với nhau sẽ xây dựng một chuồng nuôi những chú gà chọi tuyệt vời, không chỉ để vui vẻ trước một số trận thắng mà còn để giải khuây trong những ngày chủ nhật man mát buồn ở cõi âm phủ. Pruđênxiô Aghila là người tắm rửa cho cụ, cho cụ ăn, kể cho cụ nghe những thắng lợi hiển hách của một người hoàn toàn xa lạ được gọi là Aurêlianô và người này là đại tá trong chiến đấu. Khi ở một mình, Hôsê Accađiô Buênđya khuây khỏa đôi phần với giấc mơ trong căn buồng vô cùng tận. Cụ mơ thấy mình đứng dậy khỏi giường, mở cửa chính mà đi sang phòng bên có cái giường với đầu giường làm bằng thép tôi, một chiếc ghế xích đu bằng gỗ liễu giỏ với chính một bức chân dung Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt treo trên bức tường cuối phòng. Từ phòng này cụ đi sang phòng khác giống y hệt, mà cửa của nó mở ra dẫn sang phòng khác giống y hệt, rồi sau đó sang phòng khác cũng giống y hệt, cứ như thế cho đến vô cùng tận. Cụ thích đi từ phòng này sang phòng khác, như đi trong một hành lang hai bên tường đều gắn gương, cho tới khi Pruđênxiô Aghila vỗ vai cụ. Thế là cụ trở về lần lượt đi qua các phòng, trong lúc quay lại mà tỉnh giấc dần, cụ chạy trên con đường ngược lại, để rồi lại gặp Pruđênxiô Aghila trong cái phông của đời thực. Nhưng rồi có một đêm nọ, sau hai tuần Ucsula đưa cụ vào nhà, Pruđênxiô Aghila vỗ vai cụ ngay ở phòng trung gian giữa cõi thực và cõi mộng và cụ mãi mãi dừng lại ở đấy, mà cứ tưởng rằng đó là phòng của đời thực. Sáng ngay hôm sau, khi mang bữa điểm tâm cho cụ, Ucsula bắt gặp một người từ ngoài hành lang đi lại phía mình. Người ấy béo lùn, mặc bộ quần áo đen, đội một chiếc mũ đen rộng vành chụp gần hết đôi mắt buồn rầu của ông ta. “Trời ơi.” – Ucsula nghĩ bụng. “Ai như là Menkyađêt… Người đó là Cataurê, em trai Visitaxiôn, người tự bỏ nhà ra để tránh dịch mất ngủ và từ đó đến nay không có tin tức gì. Visitaxiôn hỏi em mình trở lại để làm gì thì ông ta dùng tiếng thổ dân trả lời:
– Em đến dự đám tang của hoàng đế.
Thế là mọi người đổ xô vào phòng Hôsê Accađiô Buênđya dùng hết sức lay cụ, gào to lên để gọi cụ, lấy gương soi chiếu vào lỗ mũi cụ để gọi, nhưng không làm sao gọi cụ tỉnh được. Sau đó ít lâu, khi người thợ mộc đo cụ để đóng áo quan, qua cửa sổ, người ta thấy trời đổ xuống trận mưa hoa li ti màu vàng. Cả đêm ấy, những bông hoa nhỏ li ti màu vàng rơi xuống một cái làng đang trong nỗi âm thầm đau khổ. Hoa phủ kín các nóc nhà và hoa lấp kín các lối ra vào. Bầu trời sực nức mùi hoa khiến cho những con vật ngủ ngoài trời phải ngột thở. Hoa trời rơi xuống không biết cơ man nào mà kể, đến mức khi trời sáng các con đường phủ đầy hoa phẳng lỳ như một tấm chăn. Người ta buộc phải dùng gậy, sào mà hất hoa đi để lấy lối cho đám tang đi qua.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.