Trăm năm cô đơn
Chương 09 – Phần 2
Vào lúc trời rạng sáng, người phờ phạc mệt mỏi bởi đêm mất ngủ hành hạ, chàng xuất hiện trong xà lim tử tù trước lúc hành hình một giờ. “Trò hề đã hết rồi, anh bạn ạ.” Chàng nói với đại tá Hêrinênđô Mackêt. “Chúng mình sẽ ra khỏi nơi đây trước khi muỗi kịp hành hình anh”. Đại tá Hêrinênđô Mackêt không thể kìm được sự khinh bỉ của mình trước thái độ ngạo mạn kia.
– Không đi đâu hết, Aurêlianô ạ. – Chàng phản đối. – Tôi thà chết còn hơn phải nhìn thấy anh trở thành con dao đẫm máu.
– Anh sẽ không thấy tôi nữa mà. – Đại tá Aurêlianô Buênđya nói. – Anh hãy đi giày vào và hãy giúp tôi kết thúc cuộc chiến bẩn thỉu này.
Ngay trong lúc nói chàng vẫn chưa hình dung nổi rằng khởi sự một cuộc chiến bao giờ cũng dễ dàng hơn nhiều so với việc kết thúc nó. Chàng cần tới một năm chiến đấu đẫm máu để buộc chính phủ phải đưa ra những để nghị hoà bình có lợi cho quân khởi nghĩa và một năm nữa để thuyết phục phe cánh mình nhất trí chấp nhận những điều kiện đó. Chàng đã bước tới những thái cực không muốn của tội ác để dìm tắt các cuộc khởi nghĩa của chính các sĩ quan dưới quyền mình, những người vẫn ngoan cường chiến đấu chống lại sự bán rẻ thắng Lợi của cuộc khởi nghĩa, để rồi kết thúc bằng việc chính chàng giúp đỡ cho các lực lượng thù địch hoàn toàn thống trị họ. Chưa bao giờ chàng là một chiến binh dũng mãnh như lúc ấy. Sự nhận thức sáng rõ rằng cuối cùng mình chiến đấu vì chính sự giải phóng mình chứ không phải vì những tư tưởng trừu tượng, vì những khẩu hiệu do các chính khách có thể phất phải hoặc phất trái tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, đã truyền cho chàng một nhiệt tình phấn khích mới. Đại tá Hêrinênđô Mackêt, người chiến đấu cho sự thất bại với tất cả lòng hăng say và trung thành như trước đây từng chiến đấu vì thắng lợi, đã phản đối sự sợ hãi vô tích sự của chàng. “Anh đừng lo.” Chàng nói. “Chết đâu có phải là quá dễ dàng như người ta tưởng”. Trong trường hợp của chàng đó là sự thật. Niềm tin vững chắc rằng ngày chết của mình sẽ được báo trước đã phú cho chàng tính bất khả xâm phạm kỳ lạ, một sự bất tử, chắc chắn đến mức khiến chàng không thể bị thương trong những lúc xông trận nguy hiểm và cuối cùng đã cho phép chàng giành được một sự thất bại còn khó khăn hơn nhiều, còn đẫm máu và phải trả giá đắt hơn nhiều so với việc giành lấy một thắng lợi.
Trong gần hai mươi năm chiến tranh, đại tá Aurêlianô Buênđya đã nhiều lần có mặt ở nhà, nhưng trạng thái vội vã mỗi lần chàng trở về, cái bộ máy quân sự ồn ĩ theo chàng đi khấp các miền đất nước cũng như vầng hào quang huyền thoại ôm toả hình ảnh chàng và ngay đối với hình ảnh của chàng trong ánh hào quang huyền thoại ấy không ai cảm thấy gần gần kể cả chính Ucsula, tất cả những cái đó đã biến chàng thành một kẻ lạ lẫm. Lần cuối cùng chàng có mặt ở Macônđô và đã sử dụng một ngôi nhà cho ba ả nhân tình của mình ở, ngoài ra chỉ thấy chàng ở nhà mình hai hoặc ba lần, khi chàng có thời gian để trở về nhà ăn cơm theo lời mời của gia đình. Rêmêđiôt – Người đẹp và hai cậu bé sinh đôi, những kẻ sinh ra ở giữa thời buổi loạn lạc, hầu như không quen biết chàng. Amaranta không tìm ra mối tương đồng giữa hình ảnh ông anh đã để cả tuổi trẻ của mình trôi đi trong xưởng kim hoàn đúc những con cá vàng với hình ảnh một chiến binh huyền thoại từng cách ly mình với phần còn lại của. nhân loại bởi một khoảng cách dài ba mét.
Nhưng khi cô biết sắp có đình chiến và nghĩ rằng một lần nữa chàng trở về làm người bình thường, và cuối cùng chàng được tự do trở lại với trái tim của những người thân, thì tình cảm gia đình, bị ngủ quên đã khá lâu, nay sống lại mạnh mẽ hơn bao.
– Cuối cùng, – Ucsula nói, – một lần nữa chúng ta lại có người đàn ông trong nhà.
Amaranta là người đầu tiên hồ nghi rằng người ta đã làm cho chàng thất bại vĩnh viễn. Một tuần trước khi đình chiến, khi chàng bước vào nhà không có lính hộ vệ, theo sau là hai lính dõng đi chân đất, những người này đặt xuống hành lang tất cả các đồ thô do la chở, và một hòm đựng thơ, vật còn lại duy nhất trong số tư trang đẹp đẽ của chàng, thì cô thấy chàng đi qua trước phòng máy may và gọi chàng. Đại tá Aurêlianô Buênđya dường như khó nhận ra cô.
– Em là Amaranta đây! – Cô nói đùa, vui vẻ vì anh mình trở về và chìa cho chàng xem tấm băng đen. – Hãy nhìn này, anh.
Đại tá Aurêlianô Buênđya nhoẻn một nụ cười y hệt nụ cười chàng nhìn thấy cô băng tay lần đầu tiên, cái lần chàng trở về Macônđô bị kết án tử hình.
– Ôi, thật khủng khiếp. – Chàng nói. – Thời gian trôi đi sao mà nhanh thế!
Quân đội thường trực có nhiệm vụ bảo vệ ngôi nhà. Chàng trở về trong tư thế bị áp giải, bị phỉ nhổ, bị buộc tội đã làm cho chiến tranh tái phát với mục đích bán nó đắt hơn. Chàng run lẩy bẩy vì sốt và vì rét và một lẩn nữa hai nách chàng lại sưng. tấy lên. Sáu tháng trước khi nghe tin sẽ có đình chiến, Ucsula đã mở cửa và quét dọn phòng của vợ chồng chàng rồi xông trầm hương khắp các xó xỉnh mà nghĩ rằng chàng sẽ trở về tĩnh dưỡng tuổi già bên cạnh những con búp bê lâu ngày không dùng đến của Rêmêđiôt. Nhưng thực ra, trong hai năm cuối cùng chàng đã trả cho cuộc đời những gì mình được hưởng kể cả phần mình hưởng trong tuổi già. Vào lúc đi qua xưởng kim hoàn từng được Ucsula chuẩn bị khéo léo, chàng không nhận ra ngay cả đến chùm chìa khoá đã cài sẵn ở ổ khoá. Chàng không cảm nhận gì hết ngay cả những hư hỏng dù lớn dù nhỏ do thời gian trôi đi đã để lại trong ngôi nhà và rằng sau một thời gian vắng nhà rất lâu ấy nếu một người vẫn giữ sống nguyên những kí niệm của mình hẳn phải thấy đó là một tai hoạ. Chàng không mảy may đau khổ trước những vết vôi lở trên tường, trước những mạng nhện giăng khắp các xó xỉnh, trước bụi bặm phủ trên các cây thu hải đường, trước những vết mọt lỗ chỗ mắt sàng trên xà nhà, trước rêu bám trên bậu cửa. Chàng ngồi ở ngoài hiên, vẫn đi ủng và cuộn mình trong chiếc áo khoác, như thể đang đợi trời tạnh mưa, và cứ ngồi nguyên như thế suốt buổi chiều ngắm mưa rơi trên những cây thu hải đường. Lúc ấy Ucsula hiểu rằng đã lâu lắm cụ không có chàng ở nhà này.
Nếu không phải là chiến tranh – cụ nghĩ – Thì chỉ có thể là thần chết. Đó là một dự đoán hết sức sáng rõ, có sức thuyết phức đến mức cụ đồng nhất nó với một điềm báo. Đêm ấy trong lúc ăn tối, cậu bé mạo danh Aurêlianô Sêgunđô cầm bánh bằng tay trái và múc súp bằng tay phải. Người anh em sinh đôi với cậu, mạo danh Hôsê Accađiô Sêgunđô, cầm bánh bằng tay phải và múc súp bằng tay trái. Bọn chúng cử động thật là nhịp nhàng đến mức không thể nghĩ là hai người ngồi đối diện nhau mà đó dường như là một người ngồi nhìn vào gương. Cảnh tượng hai đứa trẻ sinh đôi đồng cảm với nhau kể từ khi chúng có ý thức rằng chúng giống nhau như đúc được lắp lại để chào đón người mới trở về. Nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya cũng không nhận ra nó. Dường như chàng xa lạ với tất cả, ngay đến việc Rêmêđiôt – Người đẹp khoả thân đi qua để vào phòng ngủ cũng không khiến chàng để ý. Ucsula là người duy nhất đã dám làm khuấy đảo cơn trầm tư mặc tưởng của chàng:
– Nếu con cần phải ra đi nữa. – Cụ nói với chàng vào lúc giữa bữa ăn. – Thì ít ra con cũng phải làm cái gì để chúng ta còn nhớ đêm nay chúng ta đã sống như thế nào nữa chứ!
Vậy là không một chút ngạc nhiên, đại tá Aurêlianô Buênđya nhận ra rằng Ucsula là người duy nhất đã đoán biết được nỗi đau của lòng mình, và lần đầu tiên trong rất nhiều năm chàng dám nhìn thẳng vào mắt cụ. Da cụ nhăn nheo, răng cụ khấp khiễng, tóc cụ khô héo và cái nhìn trên mắt cụ đầy vẻ thảng thốt. Chàng so sánh cụ với hình ảnh xa xưa của cụ mà chàng vẫn giữ được, hình ảnh cụ trong buổi chiều chàng đã nói ra điểm báo nói rằng cái nồi canh vừa sôi sẽ đổ khỏi bàn và quả nhiên nó đã đổ xuống đất vỡ tan từng mảnh. Ngay lập tức chàng nhận ra những vết nhăn nheo, những vết sần sùi, những vết chai, những vết sẹo đã để lại trên làn da cụ trong hơn một nửa thế kỷ làm lụng vất vả và chàng nhận thấy rằng những dấu vết ấy không mảy may làm lay động lòng mình. Ngay lập tức chàng cố vội tìm trong trái tim mình cái nơi có những tình cảm dã bị mục ruỗng và chàng đã không thể tìm ra. Chí ít ra, trong lúc khác, chàng cảm thấy xấu hổ khi bỗng nhiên chàng bắt gặp hơi hám của Ucsula trên làn da mình và nhiều lần chàng cảm thấy những suy tư của cụ đã giao thoa vào những suy tư của mình. Song tất cả những cái đó đều bị chiến tranh choán hết chỗ. Ngay trong thời điểm ấy, chính Rêmêđiôt, vợ chàng, cũng là hình ảnh mờ nhạt của một người nào đó có thể là con gái chàng. Những cô gái chàng quen biết trong nỗi hiu quạnh của tình yêu và là những người để chàng gieo rắc nòi giống mình trên khắp miền duyên hải, không một ai để lại dấu ấn trong tình cảm của chàng. Phần lớn các cô ấy đã bước vào phòng chàng ngủ lúc trời tối và đã ra đi trước khi trời sáng, và ngày hôm sau họ chỉ còn là một chút hoài nhớ bâng khuâng trong ký ức chàng. Tình cảm duy nhất vẫn trụ lại trước sức tàn phá của thời gian và chiến tranh là tình cảm chàng nhớ thương người anh trai Hôsê Accađiô khi cả hai người còn là trẻ thơ, chưa hề biết đến yêu đương mà chỉ cùng nghịch ngợm thôi.
– Xin mẹ thứ lỗi cho. – Chàng nói để đáp lại yêu cầu của Ucsula. – Chỉ vì cuộc chiến tranh này đã huỷ hoại hết cả.
Những ngày sau đó, chàng loay hoay lo xoá sạch dấu ấn của mình từng hiện hữu trong cõi đời này. Chàng dọn quang quẻ xưởng kim hoàn, chỉ để lại những đồ dùng nào không gợi nhớ mình, phân phát quần áo của mình cho những người lính gác, rồi với chính ý nghĩ hối hận mà cha chàng đã có khi chôn ngọn giáo đâm chết Pruđênxiô Aghila, chàng chôn vũ khí của mình ở ngoài sân. Chàng chỉ giữ lại một khẩu súng lục với độc một viên đạn. Ucsula không dám can dự vào công việc của chàng. Chỉ có một lần duy nhất cụ khuyên giải chàng, ấy là lúc chàng sắp xé bức ảnh Rêmêđiôt được giữ gìn cẩn thận ở trong phòng và được một ngọn đèn lúc nào cũng thắp toả sáng chiếu vào. “Bức chân dung này đã từ lâu không thuộc về con nữa.” Cụ nói với chàng. “Đó là một bảo vật của gia đình”. Đêm trước ngày ký hiệp định đình chiến, khi trong nhà không còn lấy một vật gợi người khác nhớ tới mình, chàng cắp chiếc hòm đựng năm tập thơ mang đến lò nướng bánh trong lúc Santa Sôphia đê la Piêđat đang chuẩn bị nhóm lò.
– Lấy cái này mà nhóm lò. – Chàng nói rồi đưa cho cô cuộn giấy đã ố vàng. – Lò sẽ mau bốc lùa hơn bởi vì toàn là của đã lâu ngày rồi.
Santa Sôphia đê la Piêđat, người phụ nữ thầm lặng, người phụ nữ díu dàng, người không bao giờ cãi lại ai ngay cả với các con mình, nhận ngay ra đó là một hành động đã bị cấm.
– Đó là những giấy tờ quan trọng đấy. – Cô nói.
– Chả có gì quan trọng đâu. – Đại tá nói. – Đó là những trang giấy hoàn toàn riêng tư chỉ để cho ai viết người ấy đọc.
– Vậy thì, xin ông trẻ hãy đốt hộ. – Cô nói.
Không những chàng đốt giấy mà còn lấy rìu chẻ thùng ra từng mảnh rồi đưa tất cả vào lò. Trước đó mấy giờ, Pila Tecnêra đã đến thăm chàng. Sau nhiều năm không nhìn thấy bà, đại tá Aurêlianô Buênđya vô cùng ngạc nhiên thấy bà đã già đì và béo đẫy ra quá nhiều, thấy bà đã đánh mất tiếng cười vang khanh khách, nhưng chàng cũng ngạc nhiên khôn xiết trước tài bói bài chính xác của bà. “Hãy giữ miệng.” Bà đã bảo chàng, và chàng tự hỏi, nếu như lần khác trong tột đỉnh vinh quang mà bà bảo chàng điều đó, thì liệu nó có phải là một cái nhìn đã bất ngờ ảnh hưởng tới số phận chàng không. Sau đó ít lâu, khi viên bác sĩ bảo vệ sức khoẻ đã lau xong mủ ở hai nách, không một chút hứng thú đặc biệt, chàng chỉ hỏi ông ta tim nằm chính xác ở dâu. Viên bác sĩ đã chỉ vào chỗ tim nằm rồi lấy bông bẩn thấm thuốc đỏ vẽ lên ngực chàng một vòng tròn.
Ngày thứ tư, cái ngày ký hiệp định đình chiến bừng sáng trong quang cảnh trời mưa và thời tiết ấm áp dễ chịu. Đại tá Aurêlianô Buênđya xuất hiện ở nhà bếp trước lúc năm giờ và như thường lệ uống cà phê không đường. “Con đã chào đời vào đúng cái ngày như thế này.” Ucsula bảo chàng. “Tất cả mọi người ai cũng phải ngạc nhiên trước đôi mắt mở thao láo của con”. Chàng không chú ý nghe cụ nói, bởi vì đang lắng nghe quân lính chuẩn bị, lắng nghe những hồi kèn đồng báo thức vang lên lanh lảnh và những tiếng hô ra lệnh đang làm xốn xang buổi bình minh. Dù sau nhiều năm chiến tranh, những tiếng động ấy dường như đã thân quen với chàng nhưng lần này chúng lại khiến chàng có cảm giác rụng rời ở nơi đầu gối, có cảm giác rờn rợn nơi làn da từng cảm thấy trong tuổi thanh xuân khi đứng trước một người đàn bà khoả thân. Chàng nghĩ một cách hỗn độn, vào lúc đã bị nhốt trong cạm bẫy của nỗi cô đơn, rằng nếu mình lấy cô gái ấy hẳn mình đã là một người đàn ông không lăn lộn trong chiến tranh và không mang quang vinh, đã là một thợ thủ công bình thường không tên tuổi, một con đực hạnh phúc. Chính cảm giác buồn muộn màng ấy, vốn không nổi bật lên trong các dự kiến của chàng, khiến chàng ăn sáng mà thấy đắng miệng. Vào lúc bảy giờ sáng, khi đại tá Hêrinênđô Mackêt đến tìm chàng để cùng đi trong nhóm sĩ quan cách mạng, đã bắt gặp chàng lầm lỳ, suy tư, cô đơn hơn bao giờ hết. Ucsula định khoác lên vai chàng chiếc áo khoác mới. “Chính phủ sẽ nghĩ như thế nào.” Cụ nói với chàng, “Họ sẽ nghĩ rằng con đầu hàng chẳng qua là vì con đã khánh kiệt tới mức không mua nổi một chiếc áo khoác”. Nhưng chàng vẫn không chịu nhận chiếc áo khoác. Khi đã ra tới cửa, vì nhìn thấy trời vẫn mưa nên chàng đã để cụ đội cho mình chiếc mũ nỉ cũ của Hôsê Accađiô Buênđya.
– Aurêlianô con ạ, – lúc ấy cụ kịp nói với chàng, – hãy hứa với mẹ rằng nếu ở đấy con gặp điều rủi ro thì con hãy nghĩ tới mẹ mình. Hứa đi con!
Với cụ chàng mỉm một nụ cười lơ đễnh, giơ bàn tay xoè rộng năm ngón, rồi không nói lấy một lời chàng ra khỏi nhà mình để chường mặt trước những tiếng gào thét, những lời chửi bới và nguyền rủa theo chàng cho đến tận cổng làng. Ucsula cài thật chặt then cửa với ý định sẽ không mở trong suốt quãng đời còn lại của cụ. “Chúng ta sẽ chết mục trong nhà.” Cụ nghĩ. “Chúng ta thà để tro phủ kín người ở trong ngôi nhà không có đàn ông này, chứ nhất định không để cho dân làng khốn nạn này thích thú nhìn chúng ta khóc”… Cả buổi sáng ấy cụ lực khắp các xó kín để tìm một kí niệm của con mình nhưng không sao tìm nổi.
Buổi lễ ký kết được tổ chức ở một địa điểm cách Macônđô chừng vài chục kilômét, ngay dưới bóng một cây gạo khổng lồ mà sau này thị trấn Neclanđia được thành lập. Đại biểu của chính phủ, của các đảng phái, của đội quân nộp súng đầu hàng được một nhóm ồn ĩ các cô nữ tu sĩ mặc áo trắng phục vụ, nom các cô giống như đàn bồ câu đang hoảng hốt trước trời mưa. Đại tá Aurêlianô Buênđya cưỡi trên lưng một con lừa lấm bê bết bùn đến địa điểm. Chàng không cạo râu, chàng đau đớn bởi cơn nhức nhối do nách sưng tấy hơn là do sự thất bại khủng khiếp của các mơ ước của chàng, bởi lẽ chàng đã đạt tới điểm tận cùng của mọi niềm tin, nó hơn cả vinh quang và hơn cả nỗi luyến tiếc vinh quang. Theo đúng như điều chàng đề nghị, buổi lễ không có âm nhạc, không có pháo nổ, không có chuông ngân reo vui, không có lời tung hô, không làm theo bất kỳ một kiểu phô trương hình thức nào để có thể làng đảo lộn tính chất tang tóc của lễ ký hiệp định đình chiến. Một bác phó nháy lưu động, vì chụp được ảnh chàng – tấm chân dung này có thể được lưu giữ – đã bị buộc phải huỷ ngay toàn bộ số phim mà không cần phải kiểm tra từng cái một.
Buổi lễ hầu như diễn ra trong thời gian vừa đủ để cho chữ ký ráo mực. Các sĩ quan, còn trung thành đến phút chót với đại tá Aurêlianô Buênđya ngồi xung quanh một chiếc bàn mộc thô đặt ở chính giữa rạp xiếc cũ, nơi có các đại biểu ngồi. Trước khi ký văn bản, vị đại diện cho Tổng thống nước cộng hoà định đọc to văn bản đầu hàng, nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya đã kịp phản đối. “Không nên mất thời giờ trong các nghi thúc.” Chàng nói rồi định ký mà không cần đọc lại các văn bản. Một trong số các sĩ quan của chàng lúc đó phá vỡ cái không khí lặng lẽ đến mức nặng nề trong rạp xiếc.
– Thưa đại tá. – Người ấy nói, – xin đại tá làm ơn đừng để chúng ta là những người ký trước ạ?
Đại tá Aurêlianô Buênđya dừng lại. Văn kiện đã đi một vòng quanh bàn trong không khí yên tĩnh tuyệt đối đến mức có thể đọc được các chú ký nhờ ngọn bút vẽ nguệch ngoạc trên giấy.
Chỗ ký đầu tiên vẫn còn để trống. Đại tá Aurêlianô Buênđya sẵn sàng đặt bút ký vào.
– Thưa đại tá, – lúc đó một viên sĩ quan khác của chàng nói. – Ngài vẫn còn đủ thời gian để ký ạ.
Không hề mất bình tĩnh, đại tá Aurêlianô Buênđya ký bản sao thứ nhất. Chàng vẫn chưa ký bản sao cuối cùng thì ở ngoài cửa rạp xuất hiện một đại tá quân khởi nghĩa trẻ măng đang nắm cương một con lừa cái thồ hai chiếc hòm. Mặc dù đang lúc còn trẻ măng, người ấy để lộ vẻ điềm tĩnh đầy chua chát. Đó là người giữ công quỹ của lực lượng cách mạng ở quanh vùng Macônđô. Chàng trẻ tuổi đó phải trải qua sáu ngày đường cực nhọc, lôi chú lừa lả đi vì đói để đến kịp giờ ký kết hiệp định đình chiến. Với điệu bộ thư thả của người đang thất vọng, chàng trẻ tuổi dỡ hai chiếc hòm, mở tung chúng ra, rồi đặt lên bàn bảy mười hai viên gạch vàng từng viên từng viên một. Không một ai nhớ số của cải kếch sù ấy vẫn còn. Trong năm chiến tranh cuối cùng đầy biến động khi bộ chỉ huy trung ương bị vỡ từng mảng và cuộc cách mạng biến chất thành một cuộn đánh lộn đẫm máu giữa các viên tư lệnh, thật khó mà xấc định được bất kỳ một trách nhiệm nào thuộc về ai. Số vàng của quân khởi nghĩa, vốn bị nung chảy thành từng cục và sau đó được phủ một lớp bùn nung, trên thực tế không được một ai kiểm soát. Đại tá Aurêlianô Buênđya bảo liệt ghi bảy mươi hai viên gạch vàng ấy vào danh sách của cải do phía quân cách mạng đầu hàng giao cho chính phủ rồi kết thức lễ ký kết mà không cho phép ai đọc diễn văn. Anh thanh niên gầy còm xanh tái ấy vẫn đứng trước mặt chàng với đôi mắt màu hổ phách nhìn thẳng vào mắt chàng.
– Còn gì nữa chàng trẻ tuổi? – Đại tá Aurêlianô Buênđya hỏi.
Đại tá trẻ tuổi nghiến hai hàm răng lại:
– Chứng từ! – Chàng trẻ tuổi nói.
Đại tá Aurêlianô Buênđya chìa cho anh chứng từ do chính tay chàng viết. Sau đó, chàng uống một cốc nước chanh và một chiếc bánh biscô do các cô nữ tu sĩ phân phát; rồi chàng đi về một trong những gian lều người ta chuẩn bị sẵn nếu chàng muốn nghỉ ngơi. Tại đây, chàng cởi áo sơ mi, ngồi lên mép chiếc giường một. Vào lúc ba giờ mười lăm chiều, chàng chĩa mũi súng lục vào ngay vòng tròn do viên bác sĩ bảo vệ sức khoẻ lấy thuốc đỏ vẽ lên ngực mình rồi bóp cò. Ở Macônđô vào đúng cái giờ ấy Ucsula mở vung nồi sữa nấu trên bếp lửa, ngạc nhiên thấy rằng sao nó lâu sởi thế và cụ thấy giòi bọ đầy trong nồi sữa.
– Người ta đã giết Aurêlianô rồi. – Cụ thảng thốt kêu lên.
Cụ nhìn ra sân, ngoan ngoãn vâng theo thói quen cô đơn của mình, rồi lập tức cụ nhìn thấy Hôsê Accađiô Buênđya, người đầm đìa nước mưa vẻ buồn bã vì trời mưa và già đi rất nhiều so với lúc cụ mất. “Người ta đã giết nó vì tội phản bội, – Ucsula bình giá, – và chẳng một ai làm ơn vuốt mắt cho nó”. Đêm xuống, qua làn nước mắt cụ nhìn thấy những cái đĩa tròn vàng óng ánh màu da cam vù vù bay trên trời giống như những tia chớp và cụ nghĩ đó là dấu hiệu của thần chết. Cụ vẫn ngồi dưới bóng cây dẻ, gục đầu trên đầu gối chồng mình mà sụt sùi khóc, trong lúc người ta khiêng đến cho cụ đại tá Aurêlianô Buênđya, với đôi mắt mở trừng trừng đầy giận dữ cuộn mình trong chiếc áo khoác bê bết máu khô.
Chàng không bị nguy hại đến tính mạng. Viên đạn xuyên một đường thẳng tắp qua ngực chàng đến mức viên bác sĩ lấy một sợi dây đã dấm thuốc đỏ luồn từ ngực ra sau lưng. “Đây là tác phẩm tuyệt vời của tôi.” Ông ta nói với chàng vẻ sung sướng. Đó là điểm duy nhất mà một viên đạn xuyên qua không hề gây thương tổn cho bất kì bộ máy bên trong nào”. Đại tá Aurêlianô Buênđya thấy xúm quanh mình là các cô nữ tu sĩ khốn khổ đang tụng những bài nhã ca buồn thương cầu cho vong linh chàng được thảnh thơi nơi yên nghỉ vĩnh hằng và lập tức chàng hối hận đã không bắn ngay vào hàm ếch miệng mình như chàng đã dự tính và chàng đã không bắn như vậy chỉ là để chế giễu lời phỏng đoán của Pila Tecnêra.
– Nếu ta vẫn còn quyền lực, – chàng nói với viên bác sĩ – ta sẽ bắn chết anh mà không cần phải xét hỏi. Không phải vì anh đã cứu sống ta mà vì anh đã biến ta thành trò cười cho thiên hạ.
Việc tự vẫn không thành đã trả lại cho chàng uy danh từng mai một. Chính những người mọc chuyện cho là chàng bán rẻ chiến tranh để lấy ngôi nhà với bốn bức tường xây toàn gạch bằng vàng đã khẳng định sự tự vẫn ấy là một hành động cao thượng và do đó đã tuyên bố chàng là một người tuẫn tiết. Sau đó, khi chàng từ chối Huân chương Công Huân do ngài Tổng thống nước Cộng hoà tặng thì ngay đến cả những kẻ tử thù cũng đã phải lần lượt đến diễu hành qua phòng ngủ của chàng để yêu cầu chàng không công nhận các điểm trong bản hiệp định đình chiến và khơi dậy một cuộc chiến tranh mới. Vì cảm động trước sự ủng hộ rộng lớn của các bạn chiến đấu cũ, đại tá Aurêlianô Buênđya không từ chối khả năng thoả mãn ý nguyện của họ. Trái lại, đã có lúc dường như chàng quá phấn chấn trước ý nghĩ về một cuộc chiến tranh mới mà đại tá Hêrinênđô Mackêt nghĩ rằng chỉ chờ một cái cớ nào đó nó sẽ được tuyên bố ngay. Quả nhiên, nguyên cớ đã xuất hiện khi ngài Tổng thống nước Cộng hoà từ chối việc trợ cấp khoản lương hưu chiến tranh cho các cựu chiến binh kể cả phe Tự do cũng như phe Bảo hoàng một khi mỗi hồ sơ cá nhân chưa được xem xét và luật trợ cấp lương hưu chiến tranh chưa được Quốc hội thông qua. “Đó là một sự lạm dụng.” Đại tá Aurêlianô Buênđya nổi cáu, “Rồi người ta sẽ chết già hết trong lúc chờ đợi thư từ phúc đáp”. Lần đầu tiên chàng bỏ trống chiếc ghế xích đu do Ucsula mua để chàng tĩnh dưỡng, đi đi lại lại trong phòng đọc một bức điện dứt khoát gửi ngài Tổng thống nước Cộng hoà. Trong bức điện này chàng tố cáo những vi phạm đầu tiên của phía chính phủ đối với hiệp định đình chiến Neclanđia và đe doạ sẽ tuyên bố chiến tranh nếu như lương hưu không được giải quyết trong vòng mười lăm ngày. Thái độ của chàng rất đúng đắn đến mức nó cho phép chờ đợi sự ủng hộ của tất cả, ngay cả sự đồng tình của các cựu chiến binh thuộc phái Bảo hoàng. Nhưng lời phúc đáp duy nhất của chính phủ là sự tăng cường lính gác trước cửa nhà với lí do để bảo vệ ngôi nhà và cấm ngặt tất cả các cuộc lui tới thăm viếng. Những biện pháp tương tự cũng đã được áp dụng trong toàn quốc đối với các tướng lĩnh bị quản thức. Đó là một chiến dịch rất đúng lúc, rất thô bạo và cũng rất hiệu nghiệm đến mức hai tháng sau hiệp định đình chiến, khi đại tá Aurêlianô Buênđya bình phục hoàn toàn, những người bạn chiến đấu gần gũi nhất của chàng đều đã chết hoặc đã bị trục xuất hoặc đã hoàn toàn quy phục trước ách quản thúc công khai.
Vào tháng chạp, đại tá Aurêlianô Buênđya bước ra khỏi phòng ngủ và chỉ cần liếc mắt nhìn hành lang là đủ để chàng không còn nghĩ đến chiến tranh nữa. Với sức sống dường như không thể có ở tuổi mình, Ucsula đã làm tất cả để thanh xuân hóa ngôi nhà. “Giờ thì họ sẽ biết ta là ai.” Cụ nói khi biết chắc con mình sẽ sống. “Trong thị trấn này sẽ không có ngôi nhà nào sang trọng hơn, mở rộng cửa đón gió bốn phương hơn là ngôi nhà những người điên này”. Cụ sai lau chùi nhà, quét vôi nhà, thay mới bàn ghế giương tủ, sửa lại vườn hoa và trồng thêm hoa mới rồi mở toang mọi cửa: cửa ra vào và cửa sổ, để ánh sáng mùa hè rực rỡ tràn vào tận phòng ngủ. Cụ quyết định thôi để tang những người thân chết kế tiếp nhau, và hình cụ cũng mặc lại những bộ váy áo đậm màu xuân trẻ thay cho những bộ váy áo cũ quá xuềnh xoàng. Âm nhạc lại vang lên từ cây đàn pianô tự động khiến cho không khỉ trong nhà thêm vui tươi hơn. Vào lúc nghe âm nhạc ấy, Amaranta lại da diết nhớ Piêtrô Crêspi, nhớ bông hoa dành dành ngà vàng cài trên ve áo, nhớ mùi oải hương lan tỏa từ người chàng. Và tự trong trái tim héo hắt của cô đã bừng nở một tình cảm trong sáng, được thanh sạch nhờ thời gian. Một buổi chiều dọn dẹp cho gọn gàng phòng khách, Ucsula đã nhờ các chú lính gác ngôi nhà giúp cho một tay. Người chỉ huy trẻ tuổi của đội gác cho phép cụ. Dần dà, Ucsula nhở họ làm hộ cả những việc khác. Cụ mời họ ăn cơm, cho họ quần áo và giày tất, dạy họ học đọc học viết. Khi chính phủ bỏ việc canh gác, một trong số những người linh ấy đã ở lại nhà hầu hạ cụ trong nhiều năm.
Ngày tết Năm mới bừng sáng với việc người chỉ huy trẻ tuổi của đội gác, cuồng điên trước những hành vi vô ý vô tứ của Rêmêđiôt – Người đẹp, đã chết vì tình ngay bên cạnh cửa sổ phòng cô gái.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.