Trăm năm cô đơn
Chương 12 – Phần 2
– Cám ơn lòng tốt của anh. – Nàng nói. – Nhưng chỉ cần hai bàn tay em cũng đủ.
– Cho anh xoa đằng lưng thôi mà. – Chàng van nài.
– Chẳng cần như vậy. Em chả thấy ai lại xoa xà phòng sau lưng bao giờ.
Sau đó, trong khi nàng lau mình, chàng trai nước mắt đắm đìa khẩn khoản được cầu hôn với nàng. Nàng thực thà trả lời rằng chẳng bao giờ nàng lại đi lấy một người con trai xoàng tới mức bỏ phí cả hàng tiếng đồng hồ, thậm chí bỏ cả bữa cơm, để chỉ làm cái việc là xem một cô gái tắm. Cuối cùng, khi nàng mặc chiếc váy đầm vào, chàng trai không thể nào chịu đựng được trước sự thực là nàng không mặc đồ lót gì cả, như mọi người vẫn đoán như vậy và cảm thấy điều bí mật ấy như một thanh sắt nung đỏ ấn dấu mãi mãi vào da, thịt lệnh. Lúc đó chàng trai bèn dỡ thêm hai viên ngói nữa để trèo vào bên trong nhà tắm.
– Mái nhà cao lắm? – nàng gọi, giọng kinh hoàng, – khéo ngã chết đấy!
Tiếng những viên gạch vỡ rơi loảng xoảng như báo hiệu một thảm hoạ, và anh chàng khách lạ kia chỉ kịp rú lên một tiếng khủng khiếp, sọ vỡ tan và chết không kịp ngáp trên nền xi măng. Những người khách lạ từ trong nhà ăn nghe thấy tiếng đổ ầm ầm đã vội chạy ra khiêng xác chàng trai trẻ, cảm thấy từ làn da của anh ta toả ra cái mùi nồng nặc đến khó thở của Rêmêđiôt – Người đẹp, và cái mùi này vẫn tiếp tục hành hạ đám đàn ông cả sau khi chết, cả khi họ chỉ còn là nắm xương tàn. Mặc dù vậy, họ không liên hệ tai nạn khủng khiếp đó với cái chết của hai người đàn ông khác cũng vì Rêmêđiôt – Người đẹp. Phải đợi đến khi có một nạn nhân nữa thì những người khách lạ và rất nhiều người sinh trưởng ở Macônđô mới tin vào câu chuyện huyền thoại nói rằng hơi thở của Rêmêđiôt – Người đẹp không phải là làn hơi tình ái mà là luồng khí giết người. Câu chuyện xảy rá vài tháng sau đó, vào một buổi chiều khi Rêmêđiôt – Người đẹp cùng với mấy bạn gái đi xem những đồn điền mới. Dân Macônđô gần đây có thói quen tiêu khiển mới bằng cách đi dạo dọc những con đường ẩm ướt và dài như vô tận trồng chuối kín cả hai bên, là nơi sự im lặng dường như được bắt nguồn từ một xứ sở hoang vu nào đó, và do đó âm thanh thật khó lan xa. Có khi chỉ cách nhau có nửa mét mà không nghe thấy tiếng nhau, nhưng tiếng nói từ tít phía bên kia cánh đồng vọng tới lại rất rõ. Trò chơi mới mẻ đó làm cho các cô gái ở Macônđô được những mẻ cười thoải mái hoặc những trận hồi hộp hù doạ và trêu đùa nhau. Tối đến các cô thường kể lại các cuộc dạo chơi đó như kể lại những giấc mơ. Sự im lặng kia được coi trọng tới mức Ucsula không dám ngăn cản cuộc tiêu khiển của Rêmêđiôt – Người đẹp, và một buổi chiều đã cho phép nàng đi chơi với điều kiện phải đội chiếc mũ rộng vành và diện bộ cánh thật đẹp. Từ lúc các cô gái vào tới đồn điền, bầu không khí như đượm một mùi thơm chết chóc. Những người đàn ông làm việc trên cánh đồng như cảm thấy bị mê hoặc, bị đe doạ bởi một hiểm hoạ vô hình, và rất nhiều người như chìm đắm trong cơn khủng khiếp đẫm nước mắt. Rêmêđiôt – Người đẹp và các cô bạn hốt hoảng của cô vừa kịp ẩn vào một ngôi nhà gần đó khi bọn họ suýt bị một đám đàn ông cuồng nhiệt làm nhục Sau đó các cô được cứu thoát nhờ có bốn anh em Aurêlianô, mà những chữ thập tro thánh trên trán họ in đậm một sự tôn kính, dường như chúng là một dấu ấn của đẳng cấp, của sự bất khả xâm phạm. Rêmêđiôt – Người đẹp không kể với ai câu chuyện một kẻ trong số đó lợi dụng lúc ồn ào sờ tay vào bụng dưới của nàng, cái bàn tay ấy có vẻ như những chiếc móng chim ưng bám vào bờ vực thẳm. Trong tích tắc nàng gạt tay chàng trai trẻ ngông cuồng và nhìn thấy một đôi mắt rầu rĩ làm cho trái tim nàng nhói lên một cảm giác thương cảm. Ðêm ấy, chàng trai đến phố Thổ Nhĩ Kỳ khoe khoang về sự liều lĩnh và số may của mình. Vài phút sau anh chàng bị một con ngựa đá một phát giập ngực và đám đông khách tứ phương chứng kiến cảnh anh ta giãy giụa trong vũng máu, chết gục giữa đường.
Thế là điều phỏng đoán về chuyện Rêmêđiôt – Người đẹp mang trong người uy quyền của thần chết đã được chứng minh bằng bốn trường hợp không gì bác bỏ được. Mặc dù một số người hay tán gẫu thường nói cho sướng miệng rằng nếu được ngủ một đêm với người đàn bà quyến rũ như vậy thì có chết cũng đành nhưng thực ra chẳng anh nào cố sức để làm việc đó cả. Có lẽ chỉ cần một thứ tình cảm nguyên thuỷ và giản dị như tình yêu là đủ để không chỉ chinh phục nàng mà còn để tránh mọi nguy hiểm, nhưng đó chính là điều duy nhất không ai nghĩ tới.
Ucsula không chú ý gì đến nàng nữa. Trước kia, khi cụ còn chưa từ bỏ ý định cứu vớt nàng thành người hữu ích cho cuộc đời, cụ thường cố làm cho nàng quan tâm đến những công việc chính ở trong nhà. “Ðàn ông họ thường đòi hỏi nhiều hơn là mày tưởng.” Cụ thường nói mập mờ như vậy, “Nào nấu nướng, nào quét dọn, rồi biết bao nhiêu điều lặt vặt phải lo toan, ngoài những điều mày nghĩ”. Thực ra cụ đã tự lừa dối mình bằng cách dạy cho nàng hưởng hạnh phúc gia đình, bởi vì chính cụ cũng tin rằng một khi dục vọng được thoả mãn thì không một người đàn ông trên trái đất này có thể chịu đựng được, dù chỉ trong một ngày, sự lơ đễnh không thể hiểu được ấy… Khi người đàn ông cuối cùng[30] của nhà Hôsê Accađiô ra đời, cụ dứt khoát muốn nuôi dạy cho nó trở thành Giáo hoàng, cho nên cụ chả còn tâm lực đâu mà lo lắng đến cô chắt gái.
[30] Tức con trai đầu lòng của Aurêlianô Sêgunđô với Phecnanđa.
Cụ để mặc nàng, nghĩ rằng sớm muộn gì thì cũng có điều kỳ diệu xảy ra, và trong cái thế giới mọi sự đều có thể này hẳn là cũng sẽ phải có một người đàn ông đủ nhẫn nại để rước lấy nàng. Từ lâu rồi, Amaranta đã dứt bỏ mọi ý định cố dạy nàng thành một cô gái hữu ích. Ngay từ những buổi chiều khâu vá chẳng còn nhớ rõ nữa ấy, khi cô cháu gái chỉ thích có mỗi việc quay maniven chiếc máy khâu, bà đã kết luận dứt khoát nó là đứa ngốc nghếch. “Ðến phải mang đấu giá mày đi thôi.” Bà nói, và rất ngạc nhiên trước thái độ tỉnh bơ của nàng đối với những lời tán tỉnh của đám đàn ông. Về sau khi Ucsula cứ nhất quyết bắt Rêmêđiôt – Người đẹp phải phủ mạng che mặt lúc đi lễ nhà thờ, Amaranta nghĩ rằng cái trò bí ẩn kia có lẽ lại trở thành khêu gợi tới mức mà chẳng mấy chốc sẽ có một người đàn ông đủ sức hiếu kỳ và nhẫn nại để đi tìm chỗ yếu của trái tim nàng. Nhưng khí trông thấy cung cách ngờ nghệch mà nàng khước từ một kẻ cầu thân có nhiều điểm còn ăn đứt cả vương tôn công tử, thì bà không còn hy vọng gì nữa. Phecnanđa thậm chí không muốn hiểu nàng nữa. Khi thấy Rêmêđiôt – Người đẹp vận đồ xiêm áo Hoàng hậu trong ngày hội Cacnavan đẫm máu, Phecnanđa nghĩ rằng đó là một cô gái dị thường. Nhưng khi thấy nàng dùng tay ăn bốc, và trả lời bằng những câu ngớ ngẩn thì Phecnanđa chỉ cảm thấy tiếc là những kẻ đần độn trong gia đình lại có cuộc sống lâu dài thế. Mặc dù rằng đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn tin và thường nhắc đi nhắc lại rằng thực ra thì Rêmêđiôt – Người đẹp là đứa thông minh sáng suốt chưa từng thấy, và mặc dù rằng nàng vẫn thường tỏ ra khéo léo lạ kỳ trong việc bỡn cợt mọi người khác, cả nhà đã phó mặc nàng cho Thượng đế lòng lành. Rêmêđiôt – Người đẹp một mình bơi trong sa mạc cô đơn, chẳng có cây thánh giá trên vai, chìm đắm trong những giấc mơ tươi đẹp, trong những buổi tắm triền miên, trong những bữa ăn không giờ giấc, trong chuỗi lặng im sâu thẳm không hồi tưởng, cho đến một buổi chiều tháng ba khi Phecnanđa ở trong vườn muốn gấp những chiếu chăn thô trải giường và gọi các bà các chị ra giúp mình một tay. Họ vừa mới bắt đầu, thì Phecnanđa phát hiện thấy Rêmêđiôt – Người đẹp toàn thân xanh tái.
– Chị ốm hay sao vậy? – Phecnanđa hỏi.
Rêmêđiôt – Người đẹp đang cầm một dầu mép chăn bên kia mỉm cười như nuối tiếc.
– Không phải đâu. – Nàng nói,- chị thấy mình khoẻ hơn lúc nào hết.
Nàng vừa nói đến đấy thì Phecnanđa cảm thấy một làn gió dễ chịu đầy ánh sáng làm bật chiếc chăn khỏi tay mình và hất tung nó lên trời. Amaranta cảm thấy lạnh xương sống và cố bám lấy chiếc chăn cho khỏi ngã, đúng vào lúc Rêmêđiôt – Người đẹp bay lên. Ucsula, lúc ấy gần như loà mắt, là người duy nhất bình tĩnh nhận ra thực chất của làn gió không gì cưỡng lại kia và cứ để mặc cho những chiếc chăn bay như vậy mà nhìn Rêmêđiôt – Người đẹp đang vẫy tay vĩnh biệt mình.
Giữa luồng sáng phập phồng của những chiếc chăn cùng bay lên theo nàng, có cả mùi những con bọ cạp và hoa mẫu đơn, tất cả cùng đi theo nàng trong cái bầu không khí kết thúc lúc bốn giờ chiều, và tất cả cùng theo nàng vĩnh viễn biến mất ở trên tầng cao không khí nơi những con chim bay cao nhất cũng chẳng vỗ cánh tới bao giờ.
Ðám khách lạ tất nhiên nghĩ rằng Rêmêđiôt – Người đẹp cuối cùng đã hoá thân theo cái số mệnh tiền định của nàng là con ong chúa, và gia đình nàng đã ra sức cứu vãn danh dự bằng cái huyền thoại nàng tự bay lên. Phecnanđa ghen tức vô cùng, cuối cùng cũng chấp nhận câu chuyện ly kỳ, và rất lâu sau đó vẫn tiếp tục cầu trời đem trả lại những chiếc chăn. Mọi người đấu tin vào câu chuyên kỳ diệu và họ đều hương khói khấn khứa. Có lẽ sẽ không ai nói chuyện gì khác trong một thời gian lâu nữa, nếu như không có chuyện tàn sát man rợ đám con trai của đại tá Aurêlianô Buênđya, làm cho sự ngạc nhiên biến thành sự hãi hùng! Mặc dù chưa bao giờ nói ra miệng lời tiên đoán của mình, nhưng đại tá Aurêlianô Buênđya đã dự cảm trước trong chừng mực nào đó cái kết cục bi thảm của các con mình. Khi Aurêlianô Sêrađô và Aurêlianô Accada tỏ ý muốn ở lại Macônđô, ông bố đã cố ngăn cản. Ông không hiểu chúng sẽ làm gì ở cái làng mà chỉ từ đêm đến sáng đã biến thành một nơi nguy hiểm. Nhưng Aurêlianô Xêntênô và Aurêlianô Tristê được Aurêlianô Sêgunđô ủng hộ đã nhận hai người vào làm trong xí nghiệp của mình. Ðại tá Aurêlianô Buênđya có nhiều lý do đúng sai lẫn lộn để không tán đồng quyết định ấy. Kể từ khi trông thấy ngài Brao trên chiếc ôtô đầu tiên đến Macônđô – một chiếc xe màu da cam có chiếc còi làm khiếp vía những con chó cứ chạy theo mà sủa ầm ĩ – người lính già bực mình với sự xun xoe khúm núm của dân làng, và nhận ra rằng có cái gì thay đổi trong phẩm cách con người kể từ hồi ngài từ bỏ vợ con, vác khẩu súng lên vai ra đi chiến trận. Các nhà chức trách địa phương, sau Hiệp định đình chiến Neclanđia, đều trở thành những thị trưởng chăng có sáng kiến gì, những thẩm phán làm vì, được chọn trong số những người bảo thủ mệt mỏi và hiền lành ở Macônđô. “Ðây là một chế độ của những con quỉ đói”; đại tá Aurêlianô Buênđya bình phẩm khi trông thấy những viên cảnh sát đi chân đất mang dùi cui đi ngang qua, “Chúng ta đã bao lần nổi dậy làm chiến tranh cốt để cho chúng nó không bắt chúng ta phải quét vôi xanh nhà mình”. Tuy vậy khi Công ty chuối đến, các viên chức địa phương bị thay thế bằng đám chức dịch lạ mặt mà ngài Brao đưa đến sinh sống ở khu nhà chung cư, khu “trại gà mắc điện.” Để cho họ được hưởng – theo lời ngài giải thích – vinh dự hợp với chức vị của mình, và không phải chịu cảnh nóng bức, muỗi và vô số sự thiếu thốn khổ ải của dân chúng. Những viên cảnh sát cũ bị thay thế bằng bọn giết người bằng dao chặt mía. Chúi đầu trong xưởng, đại tá Aurêlianô Buênđya nghĩ ngợi về những đổi thay đó, và lần đầu tiên trong những năm cô đơn thầm lặng của mình, ngài trằn trọc mãi với điều khẳng định dứt khoát rằng không tiếp tục cuộc chiến tranh tới cùng là một sai lầm. Vào những ngày ấy, một người anh em của đại tá Măcgơniphicô Visban bị quên lãng dẫn đứa cháu bảy tuổi đi uống nước ngọt ở một hàng rong ngoài quảng trường. Chẳng may đứa trẻ va phải viên đội xếp cảnh sát và đánh đổ cốc nước ngọt vào quần áo của y. Tên man rợ này liền rút dao chém đứa bé làm mấy khúc, người ông chạy tới ngăn cản liền bị y chém phăng đầu. Cả làng đều trông thấy ông già bị chém cụt đầu khi một số người khiêng ông về nhà, và một người phụ nữ túm tóc xách chiếc đầu lâu chạy theo cùng với chiếc bao tải đẫm máu đựng xác đứa trẻ.
Ðối với đại tá Aurêlianô Buênđya thì đây là giới hạn của sự trừng phạt. Ngay lập tức, ngài cảm thấy phẫn nộ giống như hồi còn trai trẻ ngài đã phẫn nộ khi đứng trước xác người đàn bà bị lính đánh chết chỉ vì tội bị chó dại cắn. Nhìn những đám người tò mò đứng trước cửa nhà, bằng cái giọng căm thù không thể chịu đựng được nữa ngài quát tướng lên:
– Một ngày kia ta sẽ trang bị vũ khí cho các con ta để chúng nó kết liễu đời cái bọn Gringô chết tiệt này!
Trong tuần lễ ấy, ở những địa điểm khác nhau thuộc vùng duyên hải, mười bảy người con của ngài đã bị những tên giết người vô hình nhằm vào dấu thánh trên trán mà bắn như bắn thỏ. Aurêlianô Tristê ra khỏi nhà mẹ đẻ vào lúc bảy giờ tối thì một phát súng từ trong bóng tối xuyên giữa trán. Aurêlianô Xêntênô chết cứng trên chiếc võng vẫn thường buộc trong nhà máy vì bị một chiếc dùi đâm ngập đến tận cán ở chính giữa hai lông mày. Aurêlianô Sêrađô từ rạp chiếu bóng đưa người yêu về nhà, trên đường trở về đến phố Thổ Nhĩ Kỳ thì có kẻ trà trộn trong đám đông bắn một phát súng lục làm anh ta đổ gục vào nốt chảo bơ đang sôi. Mấy phút sau, có người gõ cửa căn phòng nơi Aurêlianô Accada đang ngủ với một người đàn bà và gọi: “Nhanh lên, chúng nó giết anh em mày ngoài kia.” Người đàn bà cùng ở trong phòng với anh ta về sau kể rằng Aurêlianô Accada nhảy ra khỏi giường và mở cửa chạy ra thì bị một loạt đạn môde bắn vỡ sọ. Cái đêm chết chóc ấy, khi cả nhà chuẩn bị đèn nến khâm liệm bốn xác chết thì Phecnanđa chạy như điên khắp làng để tìm Aurêlianô Sêgunđô, lúc đó được Pêtra Côtêt ấn vào trong chiếc tủ áo vì tin chắc rằng mật lệnh tàn sát nhằm rào tất cả những ai mang tên ngài đại tá. Mãi đến bốn ngày sau, khi các bức điện nhận được từ nhiều nơi thuộc vùng duyên hải cho phép hiểu rằng sự điên cuồng của kẻ thù vô hình chỉ thẳm vào những anh em Aurêlianô có dấu chữ thập ở trán, Pêtra Côtêt mới cho anh ta ra ngoài. Amaranta lục cuốn sổ nhỏ ghi chép về những đứa cháu, và cứ nhận được bức điện báo tử nào thì gạch tên đứa đó, cho tới khi chỉ còn lại đứa cháu lớn. Bà nhớ rõ đứa cháu này vì cậu ta có nước da đen tương phản với lôi mắt xanh to tướng. Ðó là Aurêlianô Amađô vốn là thợ mộc, sinh sống ở một làng nhỏ tít trong bìa rừng. Sau hai tuần đợi không thấy có điện báo của anh, Aurêlianô Sêgunđô cho người đi báo để anh đề phòng, sợ rằng anh không biết gì về mối nguy hiểm đang treo trên đầu. Người đưa tin trở về nói là Aurêlianô Amađô đã thoát nạn. Có hai người đàn ông đến lùng anh ở nhà vào cái đêm tàn sát ấy. Chúng đã nã súng vào anh, nhưng không trúng được vào chỗ có dấu chữ thập trên trán. Aurêlianô Amađo nhảy qua hàng rào ở sân, và chạy tuột vào triền rừng mà anh thuộc như lòng bàn tay do có quan hệ buôn bán gỗ với những người thổ dân. Từ đó không có tin tức gì thêm về anh.
Thật là những ngày đen tối đối với đại tá Aurêlianô Buênđya. Tổng thống nước cộng hoà gửi tới ngài bức điện chia buồn, hứa ra lệnh điều tra đến nơi đến chốn và tỏ lòng tưởng nhớ những người đã khuất. Theo lệnh của Tổng thống, thị trưởng đem bốn vòng hoa tới dự lễ tang và định đặt lên các quan tài, nhưng ngài đại tá cho đem để ra ngoài đường. Sau đám tang, đại tá thảo một bức điện lời lẽ gay gắt và tự tay đem đi điện cho Tổng thống, nhưng điện báo viên không chịu phát. Thế là ngài viết thêm mấy dòng lời lẽ cay cú hơn nữa và cho vào phong bì gửi đi. Cũng giống như khi xảy ra cái chết của cô vợ, và bao nhiêu cái chết của những người bạn quí trong thời kỳ chiến tranh, ngài đại tá không cảm thấy đau buồn, mà chỉ thấy một nỗi mệt mỏi bất lực và sự điên dại mù quáng. Thậm chí ngài còn tố cáo cả cha Antôniô Isaben đồng loã với bọn giết người vì đã làm dấu chữ thập cho các con mình bằng một thứ tro không phai màu để kẻ thù dễ nhận ra chúng. Vị cố đạo lụ khụ này không còn minh mẫn là mấy và khi lên bực đã bắt đầu làm cho con chiên kinh hãi với những lời rao giảng lung tung, một chiều nọ đã đến nhà đại tá mang theo cả một bát tro hoà sẵn dùng làm dấu thánh vào thứ tư hàng tuần, và cố gọi đủ cả gia đình đến để lấy thứ nước tro ấy làm dấu chữ thập lên trán họ nhằm thanh minh rằng nó có thể lấy nước lã rửa sạch được.
Nhưng sự hãi hùng của nỗi bất hạnh ăn sâu đến mức ngay cả Phecnanđa cũng chẳng để ý tới việc làm đó và từ bấy trở đi không bao giờ thấy một ai trong dòng họ Buênđya đến quì trước bàn chịu lễ vào dịp lễ Tro thứ tư hàng tuần.
Trong một thời gian dài đại tá Aurêlianô Buênđya không bình tĩnh lại được. Ngài bỏ việc làm những con cá vàng, ăn uống khó khăn, và đi lại khắp nhà như một kẻ mộng du, kéo lệt sệt chiếc áo choàng và hậm hực nhất nỗi giận dữ ngấm ngầm. Sau ba tháng tóc ngài bạc trắng, hàng ria cũ chải chuốt nay đâm tua tủa phủ kín đôi môi nhợt nhạt, nhưng trái lại, đôi mắt ngài một lần nữa lại rực sáng giống như hai hòn than, từng làm khiếp đảm những ai trông thấy ngài lúc mới sinh và một thời chúng đã làm cho những chiếc ghế xoay tít khi ngài nhìn vào. Trong sự giằng xé điên cuồng ấy đại tá Aurêlianô Buênđya ra sức tìm kiếm một cách vô ích những điềm báo từng đưa tuổi trẻ của ngài theo những con đường nguy hiểm tới sa mạc bi thảm của vinh quang. Ngài như mất phương hướng, chơi vơi trong ngôi nhà xa lạ mà ở đấy không còn ai và chẳng có cái gì còn gợi cho ngài chút tình cảm thân thương nào. Một lần nữa ngài mở cửa căn buồng của Menkyađêt để tìm kiếm dấu vết cuộc chiến tranh đã qua, nhưng chỉ thấy những đống đổ nát, rác rưởi và những đồ vứt đi chất đống lại đấy sau bao năm không ai nhòm ngó tới. Trên bìa những quyển sách gáy da chẳng còn ai giở tới nay đã ẩm mốc và lên rêu xanh, trên khoảng không vốn là nơi sáng sủa và trong lành nhất nhà cứ bập bềnh cái mùi không thể chịu được của những kỷ mềm đã thối rữa. Một buổi sáng nọ ngài thấy Ucsula ngồi khóc dưới gốc cây dẻ, dưới chân người chồng đã chết. Ngài đại tá Aurêlianô Buênđya là người duy nhất trong nhà, không tiếp tục nhìn thấy cụ bà cường tráng tàn tạ đi trong nửa thế kỷ sương gió. “Hãy chào cha đi” – Ucsula nói với ngài. Ngài dừng lại chốc lát trước cây dẻ và một lần nữa nghiệm thảy rằng khoảng trống kia cũng không gây ấn tượng gì đối với ngài cả.
– Mẹ bảo gì? – ngài hỏi.
– Trông ông ấy rất buồn. – Ucsula trả lời. – Chắc ông ấy nghĩ rằng con sẽ chết.
– Hãy nói với cha rằng. – Ngài đại tá mỉm cười nói. – Người ta không chết khi phải chết, mà sẽ chết khi nào có thể chết.
Lời tiên đoán của người cha đã khuất khơi dậy chút ngạo nghễ cuối cùng còn lại trong tim, nhưng ngài lại tưởng nhầm đây là một cuồng sức mạnh đột ngột. Vì vậy mà ngài cứ gạn hỏi Ucsula xem những đồng tiền vàng tìm thấy trong bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao đã được chôn ở chỗ nào trong sân. “Không bao giờ con biết được.” – Cụ nói chắc như đinh đóng cột, và thêm: “Một ngày kia chủ nhân của chỗ của cải ấy hẳn sẽ xuất hiện, và chỉ có người ấy mới đào bới lên được”. Không ai hiểu vì sao một người luôn luôn hào hiệp đến thế mà lại tỏ ra khao khát tiền bạc nhường ấy, và không chỉ là số tiền đủ để có thể giải quyết một việc khẩn cấp, mà là một số của cải khổng lồ đến nỗi Aurêlianô Sêgunđô chỉ nghe nói đã phát khiếp lên. Những người cùng cánh mà ngài tìm đến nhờ giúp đỡ đều trốn biệt không tiếp. Chính vào lúc ấy người ta nghe ngài nói: “Ðiểm khác nhau duy nhất hiện nay giữa phái Tự do và phái Bảo hoàng là ở chỗ những người Tự do đi lễ nhà thờ vào lúc năm giờ và những người Bảo hoàng thì đi vào lúc tám giờ”. Tuy nhiên, ngài cứ một mực thiết tha, cầu khẩn, vứt bỏ tất cả mọi nguyên tắc danh dự mà ngài vốn tuân thủ, chạy vạy chỗ này một ít chỗ kia một ít với một sự kiên nhẫn thầm lặng, chỉ trong vòng tám tháng ngài đã hùn được một món tiền lớn hơn cả số tiền Ucsula đã chôn giấu. Lúc bấy giờ ngài đến thăm đại tá Hêrinênđô Mackêt nhờ giúp đỡ để mở cuộc chiến tranh tổng lực.
Ðã có một thời đại tá Hêrinênđô Mackêt đúng là người duy nhất có thể giật dây các cuộc bạo động mặc dù vẫn nằm trên chiếc ghế xích đu của người bại liệt. Sau Hiệp định ảnh chiến Neclanđia, trong khi đại tá Aurêlianô Buênđya lẩn tránh ở xưởng kim hoàn sản xuất những con cá vàng thì Hêrinênđô Mackêt tiếp xúc với đám sĩ quan khởi nghĩa trung thành với ngài cho tới thất bại. Cùng với họ ngài tiến hành cuộc chiến tranh của sự nhục nhã hàng ngày, của sự cầu khẩn và van xin, nào là “xin trở lại vào ngày mai”, nào là “cũng sắp sửa” rồi lại “chúng tôi đang chú ý xem xét trường hợp của ngài”; một cuộc chiến tranh thua thiệt vô phương cứu chữa chống những kẻ phục vụ tận tuy và chắc chắn đáng phải được nhưng lại không bao giờ được hưởng khoản trợ cấp suốt đời. Cuộc chiến tranh khác cuộc chiến tranh đẫm máu hai mươi năm, không gây nhiều thiệt hại như cuộc chiến tranh gặm nhấm của sự áp đặt vĩnh viễn. Chính đại tá Hêrinênđô Mackêt từng thoát khỏi ba vụ mưu sát, sống sót với năm vết thương và bình yên vô sự qua biết bao trận khác, đã chết ngợp trong sự vây hãm tàn bạo của hy vọng và nếm mùi thất bại nhục nhã của tuổi già, trong khi nghĩ tới Amaranta giữa những chiếc đèn hình thoi trong căn nhà ở nhờ. Những cựu chiến binh, mà người ta còn biết tin, dã xuất hiện trên một tờ báo qua những tấm ảnh, mặt câng câng, cùng chụp chung với ngài Tổng thống vô danh của nước Cộng hoà, người đã tặng bọn họ những chiếc cúc có in ảnh ngài để dùng đơm ở cổ áo, và trả cho họ một lá cờ bẩn thỉu, vấy máu và ám khói thuốc súng để phủ lên những chiếc quan tài của chính họ. Còn những người khác, những người biết tự trọng hơn, vẫn chờ đợi một bức thư trước cảnh tranh tối tranh sáng của lòng thương thiên hạ, chết dần chết mòn vì đói khát, sống dở chết dở vì điên dại, thối rữa tàn lụi đi vì già cỗi giữa cái đống cứt đái thơm tho của sự vinh quang. Vì vậy mà khi đại tá Aurêlianô Buênđya mời tham gia vào việc tổ chức một cuộc chiến tranh một mất một còn nhằm kết liễu mọi vết tích của một chế độ tham nhũng và bê bối do xâm lược nước ngoài dựng lên, ngài đại tá Hêrinênđô Mackêt không thể kìm lại được sự xúc động vì thương hại:
– Trời ơi, Aurêlianô. – Ngài thở dài. – Tôi biết là ông bạn già rồi, nhưng đến giờ tôi mới nhận thấy ông đã già hơn rất nhiều so với chính hình hài già nua của ông đấy…
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.