Chiếc Rolls dừng lại ngay trước cây cầu nhỏ nối liền gara nhà giáo sư Freeman, xây trên bờ dốc của vực hẻm, với con đường núi, khá hẹp ở nơi đó. Ngôi nhà nằm ở phía dưới.
– Các cậu ơi – Warrington nói, – tôi không thể nào đậu ở đây được. Bất kỳ thằng lái ẩu nào có thể làm trầy mui xe nếu quẹo đột ngột ở khúc cua này. Tôi phải chạy trở xuống một chút, có chỗ làm đường rộng làm sẵn để đậu và ngắm quan cảnh,
Warrington rất tự hào về chiếc Rolls cũ và chăm sóc xe y như là xe mình.
Giáo sư và hai cậu thám tử bước xuống xe, leo lên cầu thang xi măng dọc theo gara dẫn đến nhà. Khi bấm chuông, chính ông Freeman ra mở cửa.
– Rất vui được gặp bác, bác Yarborough à – Ông nói. – Mời vào.
Nhà Ai Cập học không phí nhiều thời gian để giải thích cho vị đồng nghiệp trẻ tuổi rằng ông mang đến băng ghi âm thâu lại tiếng thì thầm của xác ướp.
– Không thể tin nổi! – Freeman kêu lên. – Ngồi xuống đi. Chúng ta sẽ nghe thử ngay, và xem tôi có dịch lại được lời nói của ông già Ai Cập kia không.
Phòng làm việc của ông Freeman đầy sách vở, đĩa và máy nghe đĩa mà ông dùng để nghiên cứu ngữ văn học. Ông có rất nhiều máy ghi âm.
Ông Freeman đặt cuộn băng vào một máy. Tiếng thì thầm khàn khàn vang lên, được khuếch đại rất lớn. Nhưng rất tiếc, sự tò mò say mê của nhà ngôn ngữ văn học nhanh chóng chuyển thành sự thắc mắc, rồi sự thất vọng.
– Xin lỗi! – Freeman nói. – Tôi không hiểu được từ nào hết. Có lẽ là do tiếng nền quá mạnh. Nhưng tôi vừa mới mua một loại máy chống nhiễu, hy vọng là sẽ loại trừ được tạp âm. Để xem như thế nào.
Ông Freeman rời khỏi phòng, rồi trở về cùng một cái máy nhỏ mà ông gắn vào máy ghi âm khác.
Đó là hy vọng cuối cùng. Tất cả mọi người chuẩn bị lắng nghe.
Đúng lúc đó, phía bên kia vực hẻm, xe tải nhỏ của Thiên Đường Đồ Cổ dừng lại trước nhà giáo sư Yarborough. Trời tối om. Chỉ có một cửa sổ sáng đèn.
– Hình như không có ai hết – Hans đang lái xe nói.
Peter nhảy xuống đất.
– Chắc là Wiggins phải có ở nhà chứ? – Peter nói. – Lúc em gọi điện cho chú Warrington, anh biết là xe Rolls có điện thoại mà, – chú ấy trả lời là chú ấy chở giáo sư, Babal và Bob sang bên kia vực hẻm để gặp một ai đó, nhưng sẽ trở lại đây. Em sẽ vào chơi với chú Wiggins và chờ mọi người.
– Được, – Hans đồng tình. – Vậy thì anh về. Tối nay Konrad và anh đi xem phim.
Xe tải nhỏ ra về. Peter bước xuống theo lối đi để bấm chuông ở cửa lớn.
Peter vừa bước đi vừa nghĩ đến cuộc gặp gỡ với bà Banfry. Bà Banfry, người thấp nhỏ khoảng 50 tuổi – dự đoán của Bob trúng được về một điểm – đã tỏ ra là một người nói chuyện rất nhiều, nhưng rốt cuộc nội dung không có bao nhiêu. Chú mèo quý Abyssinie của bà, thuộc một giống mèo rất hiếm ở Hoa Kỳ, đã bị mất tích hơn một tuần nay. Khác với đồng loại, chú mèo Sphynx rất hiền lành và quá tin người. Bà Banfry sợ nó bị bắt cóc. Nhưng Ba Chàng Thám Tử Trẻ, đã tìm ra được con két của cô Waggoner, có thể sẽ trả lại được cục cưng cho bà Banfry.
Peter khó khăn lắm mới lái câu chuyện trở về đúng hướng. Cuối cùng Peter cũng xin được nhận dạng của con mèo: bộ lông xám khói, chân trắng, và chi tiết đặc biệt – nhất là đối với con mèo giống Abyssinie, bởi vì giống mèo này thường có mắt màu vàng hoặc cam – mắt hai màu khác nhau, một mắt xanh và một mắt cam.
Bà Banfry nói rõ rằng trường hợp này đôi khi xảy ra. Tất nhiên, khuyết điểm này không cho phép Sphynx tham dự các cuộc thi mèo, nhưng ngược lại làm cho nó có vẻ thông suốt mọi việc một cách khá đáng sợ: có thể tưởng như nó có thể hiểu tất cả những gì người ta nói xung quanh nó và nó có thể trả lời được nếu thích.
Ngoài ra, sự khác biệt đặc trưng màu mắt đã làm cho chú mèo Sphynx được đăng hình chân dung trên báo! Thậm chí, bà Banfry còn đưa cho Peter xem một ảnh màu gốc: đó là một chú mèo xám khói khoẻ mạnh và xinh đẹp, có hai chân trước trắng tinh và màu mắt khác hẳn nhau làm cho nó có một vẻ bí ẩn.
Sau khi thu thập được những thông tin này, Peter nhanh chóng từ giã bà Banfry. Cuối cùng, cậu đã quyết rằng nhiệm vụ của mình là đi thách thức xác ướp cùng với bạn.
Khi Peter bấm chuông cửa nhà ông Yarborough, không có ai trả lời hết. Sau khi bấm chuông lần thứ hai, Peter đẩy cửa bước vào.
– Chú Wiggins ơi! – Peter gọi. – Chú đang ở đâu vậy?
Im lặng.
– Có ai ở nhà không?
Không có tiếng động nào.
Peter bước ra phòng bảo tàng. Cửa mở, đèn chùm sáng trưng, quách đóng kín. Tất cả có vẻ bình thường. Bức tượng thần Anubis đứng ngoan ngoãn đúng vị trí.
Tuy nhiên, Peter cảm thấy hơi khó chịu. Cậu cảm thấy ớn lạnh tủy xương sống, mà không có nguyên nhân rõ rệt.
Một cánh cửa dẫn ra vườn đang hé mở, Peter bước ra ngoài hít thở không khí buổi tối trong lành. Hoàng hôn đang hoà lẫn vào màn đêm. Không có cơn gió nào làm rì rào lá cây. Peter càng lúc càng cảm thấy rùng mình khó chịu hơn. Sao Babal và mấy người kia không chịu đến nhanh hơn một chút?
Chỉ có một việc để làm: gọi điện thoại chiếc xe Rolls và hỏi chú Warrington xem có chuyện gì. Peter vừa mới quyết định như vậy, thì cậu nghĩ là cậu nhìn thấy một vật gì đó bị bỏ rơi trên sân hiên. Theo bản năng cậu đến gần xem. Đó là một cái mã tấu cũ xưa bằng đồng, dường như xuất phát từ trong bảo tàng ông giáo sư. Peter cúi xuống để lượm vũ khí lên. Đúng lúc đó, có tiếng động vang lên phía sau. Peter quay lại đột ngột. Bụi cây động đậy. Tim Peter đập nhanh hơn. Đột nhiên, một con vật nhỏ phóng ra sân hiên, rồi đến cạ vào chân Peter, kêu gừ gừ thích thú.
– Một chú mèo! – Peter nhẹ nhõm cười lớn tiếng. – Chỉ là một chú mèo!
Peter bỏ mã tấu xuống đất, rồi ẵm con mèo lên. Đó là một chú mèo xám mập mạp, rất dễ thương. Nó vẫn kêu gừ gừ nhè nhẹ khi Peter suýt thả nó ra vì ngạc nhiên: nó có một con mắt màu cam và con kia màu xanh.
– Đó là Sphynx! – Peter nghĩ ngay. – Đó là con mèo của bà Banfry mà mình đã tự tìm ra một mình. Babal sẽ rất tức khi biết rằng mình đã giải quyết được vụ con mèo mất tích, mà không nhờ đến trí thông minh cao siêu của cậu ấy.
Peter quá vui mừng qua mặt sếp được một lần, đến nỗi cậu không ngạc nhiên về sự ngẫu nhiên dẫn con mèo của bà Banfry đến vườn nhà ông Yarborough. Peter quay lưng lại với vườn, định mang con mèo vào nhà. Ngay lập tức, cậu cảm thấy hai chân bị chụp lấy và cậu ngã về phía trước. Con mèo thoát khỏi tay Peter và chạy vào bụi cây.
Kẻ lạ ôm chân làm Peter ngã nhỏ hơn Peter, nhưng đánh nhau dũng cảm và quyết liệt. Peter phải mất vài giây mới thoát ra được và nhận mặt kẻ tấn công mình: đó chính là cậu bé Peter đã bắt gặp trong vườn sáng nay.
Peter xoay người thật mạnh, quay người lại và lăn vào đối thủ, nó vặn vẹo người dữ dội nhưng vô ích. Peter bẻ cong cánh tay nó ra phía sau lưng và giữ yên. Rồi giữ nó thật chặt, Peter ngồi xuống trước mặt thằng bé.
– Mày là ai? – Peter hỏi. – Mày làm gì ở đây? Tại sao mày tấn công tao?
Thằng bé da ngăm đen, mắt đen cố cầm những giọt nước mắt tức giận.
– Các người ăn cắp ông cố Ra-Orkon! – cậu bé thét lên. – Rồi anh định lấy cắp con mèo của em. Nhưng em, Hamid thuộc bộ lạc Hamid, mạnh hơn anh.
Peter tròn mắt.
– Đừng đùa nữa! – Peter trả lời. – Anh mà ăn cắp ông cố Ra-Orkon à? Mặt anh thế này mà đi ăn cắp xác ướp à? Còn con mèo của em nữa? Đó không phải là con mèo của em, mà là mèo của bà Banfry. Mà anh không hề ăn cắp nó. Chính nó đến kết bạn với anh.
Cậu bé nước ngoài nhíu mày.
– Anh không ăn cắp ông cố Ra-Orkon sao?
– Mà thậm chí anh không biết em nói về ai nữa. Nếu là xác ướp kia, thì tại sao em lại gọi bằng ông cố? Mà nó đâu có bị ăn cắp. Nó nằm trong quách 3000 năm nay.
Cậu bé lắc đầu.
– Ông cố bị ăn cắp. Hai người đàn ông ăn cắp khi không có ai ở đây.
– Người ta đã ăn cắp Ra-Orkon! – Peter la lên. – Thật không?
– Thật! – cậu bé nghiêm trang trả lời. – Hamid thuộc bộ lạc Hamid không bao giờ nói láo.
Peter liếc nhìn về hướng phòng bảo tàng. Quách có vẻ còn nguyên vẹn. Nhưng người ta có thể lấy xác ướp ra, mà không để lại dấu vết gì. Vụ này càng lúc càng phức tạp hơn.
– Hamid, em nghe đây: tất cả những gì anh biết là xác ướp nói chuyện với giáo sư Yarborough và bọn anh đang tìm hiểu tại sao. Hay em, em giải thích cho anh nghe tại sao xác ướp lại thì thầm?
Hamid có vẻ ngạc nhiên.
– Ông cố Ra-Orkon thì thầm hả? Em không hiểu. Đó là vụ bí ẩn lớn.
– Em nói rất đúng! Nhưng em có vẻ biết nhiều về vụ bí ẩn lớn này, mà anh cũng biết chút ít, thì ta nên góp chung lại để cùng nhau giải quyết nó. Em hãy bắt đầu kể cho anh nghe em làm gì ở đây lúc sáng nay.
Peter vừa nói vừa suy nghĩ rằng nhờ may mắn và Hamid, có thể cùng lúc cậu sẽ giải quyết được cùng lúc hai vụ bí ẩn: vụ con mèo và vụ xác ướp. Peter sẽ thắng Babal!
Cậu bé da nâu có vẻ phân vân. Được một hồi cậu bé nói.
– Anh sẽ vinh dự được Hamid thuộc bộ lạc Hamid tin tưởng anh. Anh để cho em đứng dậy, rồi chúng ta sẽ nói chuyện.
Peter thả cậu bé tù nhân của mình ra, rồi đứng dậy phủi quần áo. Hamid cũng làm y hệt như vậy. Sau đó, cậu bé quay sang khu vườn tối tăm, nói chuyện bằng một thứ ngôn ngữ lạ.
– Em gọi con mèo – cậu bé giải thích. – Hồn của ông cố Ra-Orkon sống trong con mèo và sẽ giúp chúng mình tìm lại được xác ướp.
Hai cậu chờ, nhưng con mèo không thèm xuất hiện.
– Anh đã nói với em là con mèo này là con mèo của bà Banfry – Peter nói. Nó tên là Sphynx. Nó có hai con mắt màu khác nhau, bộ lông màu xám khói và hai chân trước trắng. Không thể nhầm được.
– Có, Hamid trả lời. Có nhầm. Chân trước đen, chứ không trắng. Đen giống như chân ái miêu của ông cố Ra-Orkon được ướp xác cùng ông.
Peter gãi đầu. Rất đúng: Peter quên kiểm tra màu chân. Nên rất có thể, Peter nhầm con mèo của thằng bé này là con Sphynx. Nhưng dù sao cũng lạ thật: đi tìm một con mèo có hai con mắt khác nhau, rồi lại gặp phải một con khác!
– Chuyện này để giải quyết sau – Peter nói. – Bây giờ hãy đi xem xác ướp còn đó không. Peter bước vào phòng bảo tàng. Hamid đi theo sau. Cả hai cùng mở nắp quách lên. Quách trống không.
– Đi mất rồi – Peter kêu. – Xác ướp này không những nói chuyện mà còn đi chơi nữa!
– Các anh người Mỹ làm cho ông cố em bị bắt cóc! – cậu bé nước ngoài tố cáo.
– Không, Hamid à. Bọn anh hoàn toàn không biết gì về vụ bắt cóc. Bọn anh chỉ thử tìm hiểu xem tại sao xác ướp lại nói chuyện. Thành ra tốt hơn hết là em cho anh biết những thông tin mà em nắm được; anh cũng sẽ nói cho em nghe những gì anh biết, như vậy chúng ta sẽ hiểu được một phần nào đó.
– Em đồng ý, – Hamid trả lời sau khi do dự một hồi. – Anh muốn biết gì?
– Trước hết anh muốn biết tại sao em gọi cái xác ướp 3000 năm tuổi bằng ông cố!
– Ra-Orkon là tổ tiên của bộ lạc Hamid! – cậu bé hãnh diện giải thích. – Cách đây 3000 năm, vua chúa xứ Lybie đi sang cai trị xứ Ai Cập. Ra-Orkon là một ông hoàng vĩ đại. Ông bị giết chết vì ông tốt và công minh. Ông được chôn cất bí mật để kẻ thù không phá ngôi mộ của ông được. Gia đình dòng họ ông đã trở về Lybie và bây giờ tên là Hamid.
– Phù thuỷ Sardon tiết lộ tất cả chuyện này cho ba em. Phù thủy nói ba em rằng ông cố Ra-Orkon đi sáng xứ man rợ và sẽ không bao giờ ngủ yên giấc, nếu không được chôn cất đàng hoàng. Ba em bị bệnh, nên ba em gởi Ahmed Bey, quản gia, và em, con trai trưởng, để mang ông cố Ra-Orkon về.
Hamid ngừng nói để thở. Mặc dù không thích gọi là man rợ, nhưng Peter không phản đối và bắt đầu có ý niệm rõ rệt hơn về tình hình. Chính giáo sư Yarborough đã nói đến một nhà buôn thảm tên Ahmed đòi lấy xác ướp. Bị đuổi khéo, có lẽ ông đã nghĩ đến cách thức ít đứng đắn hơn…
– Vậy là sáng nay em lảng vảng nơi đây để định ăn cướp xác ướp.
– Giáo sư man rợ không chịu trả ông cố của em, Hamid nói, mắt sáng rực. Nên Ahmed và em quyết định ăn cắp ông cố. Em phải trả lại sự an nghỉ cho ông. Ahmed giả làm người làm vườn và trả tiền cho người làm vườn thật để làm thay họ. Họ mừng, Giáo sư không biết gì hết. Có ai nhìn người làm vườn bao giờ. Ahmed khéo lắm.
– Vậy thì ra lúc sáng nay, chính tên lưu manh Alfred tóm lấy em! – Peter la lên.
– Không phải lưu manh. Không phải Alfred. Mà là Ahmed! Ahmed Bey, quản gia của dòng họ Hamid. Ahmed bảo em cắn Ahmed. Giáo sư không biết tiếng ả Rập của Lybie. Em cắn Ahmed, Ahmed thả em. Tất cả bị lừa.
Phải mất vài giây, Peter Cremtch mới hiểu ra rằng người làm vườn trung thành thật ra là một nhà buôn thảm không trung thành, rằng giáo sư Yarborough đã lầm tưởng tiếng ả Rập của Lybie là một thứ phương ngữ Phi Luật Tân, rằng hai tên đồng lõa định ăn cắp xác ướp đã bị những tên bất lương khác đi trước. Peter vẫn còn đang suy nghĩ, thì Hamid la lên:
– Anh có nghe không? có xe tải dừng lại trên lối đi.
Hai cậu chạy ra cửa sổ nhìn phía lối đi. Hai tên vẻ mặt đáng sợ đang bước xuống từ một chiếc xe tải. Chúng đi về phía sân hiên.
– Cũng hai tên đó! – Hamid nói khẽ. – Chúng ăn cắp ông cố. Em nhìn thấy chúng. Chúng khiêng một gói lên xe cách đây khoảng nửa tiếng. Khi đó em đi xem quách thấy quách trống không. Bây giờ chúng trở lại.
– Dường như chúng đi đến đây, không biết chúng định làm gì, – Peter lầm bầm.
– Chúng ta trốn đi – Hamid nói. – Có thể chúng muốn ăn cắp một cái gì khác. Ta trốn sẽ nghe được chúng nói gì. Sẽ biết chúng giấu ông cố ở đâu.
– Sáng kiến xuất sắc. Nhưng anh không thấy chỗ nào bọn mình có thể trốn, ngoại trừ vô lùm cây…
– Vậy thì không nghe gì hết! Nhanh lên. Vào trong quách trốn. Không ai có thể đoán chúng ta ở trong đó.
– Phải, – Peter thừa nhận.
Cậu bé Lybie đã băng qua phòng và đang chui vào trong quách.
– Có chỗ – cậu bé khẽ nói. – Anh lại đây. Linh hồn Ra-Orkon sẽ phù hộ anh.
Lời nói như thế này không làm cho Peter an tâm chút nào. Nhưng Peter không được do dự. Hai tên kia đang bước ngoài sân hiên. Cả hai cùng kéo nắp quách về phía mình, trở về vị trí cũ. Hai cậu đã chú ý chừa lại một khe trong góc để có thể thở và nghe những gì người ta nói.
Hai cậu vừa mới sắp xếp xong, thì cánh cửa mở ra. Tiếng bước chân nặng nề vang lên.
– Mày có dây không Joe? – có tiếng người hỏi.
– Này! – một giọng khác trả lời, cũng thô tục như giọng đầu tiên. – Mày biết không Harry, tao nghĩ khách hàng này chế giễu chúng ta. Đáng lẽ nó phải nói ngay từ đâu nó muốn gì. Đằng này bắt mình quay lại, chỉ vì cái bao bì! Tao nghĩ trong điều kiện như vậy, ta nâng giá lên!
– Đồng ý, Joe à – giọng đầu tiên trả lời. – Ta sẽ cố gắng lấy tối đa… Đưa dây lại đây đi.
Peter và Hamid buồn rầu thấy quách nhanh chóng bị nhấc lên khỏi mặt đất và cột lại. Nếu hai cậu không chừa lỗ hở để thở, thì đã bị ngạt thở chỉ trong vài phút.
– Chúng trở lại để lấy quách, – Hamid nói nhỏ. – Ta làm gì đây?
Trong bóng tối, Peter trả lời:
– Tốt hơn hết là không nên động đậy. Bọn mình sẽ nhận dạng khách hàng bí mật của bọn chúng. Ngay khi khách hàng mở thùng ra, mỗi đứa chạy trốn một ngả.
– Hamid không bao giờ sợ, – cậu bé Lybie tuyên bố, nghiến răng lại.
– Anh cũng vậy – Peter nói khẽ.
Nhưng Peter không yên tâm lắm khi hai gã đàn ông khiêng quách lên để mang đi.
– Vụ này nặng wá! – Joe cằn nhằn.
– Tao cũng không ngờ – Harry trả lời. – Hò dô!
Bị lắc lư bên này, bên kia, cuối cùng quách cũng được đặt lên xe tải.
– Lên đường! – giọng khoẻ nhất nói. – Tao không hiểu tại sao có người lại cần đến một cái xác ướp và một cái thùng gỗ cũ.
– Có người thích sưu tầm đồ tầm bậy, giọng kia trả lời. Dù sao, nó phải trả cho mình hai chuyến đi. Mình chờ hàng về nhà và mình chỉ giao hàng nếu nó đồng ý trả tiền. Nếu không thì nó sẽ không nhận được gì hết!
Đùng! Cửa xe đóng lại. Xe tải nổ máy. Peter và Hamid bị nhốt trong quách và đang đi đến một nơi không biết.