Khi thấy quả cầu đá to tướng lăn về hướng mình, Bob và Peter định nhảy sang một bên. Giáo sư ngăn cản:
– Đừng động đậy! – ông ra lệnh.
Hannibal nghĩ rằng ông Yarborough có ánh nhìn tuyệt vời. Trong khoảnh khắc giây, ông đã ước tính được đường lăn và thấy khối đá granit sẽ chạy ngang nhóm người một khoảng cách nào đó.
Quả cầu đá làm đúng như vậy, nó cán nát một nửa bụi cây bạch đàn non đang mọc gần đó.
– Cám ơn bác giáo sư! – Bob vừa kêu vừa lấy khăn lau mồ hôi ướt đẫm trên trán. – Cháu định chạy lại bụi cây bạch đàn ấy để trốn chứ.
– Còn cháu – Peter nói, – cháu định chạy sang hướng kia. Một khối tròn như vậy có thể cân nặng bao nhiêu nhỉ? Ít nhất 1 tấn!
– Hơn 1 chút – giáo sư Yarborough trả lời. – Với đường kính như thế này, và tỷ trọng granit bằng…
– Ông giáo sư ơi!…
Đó là giọng của wiggins. Anh ta vừa chạy tới vừa hoa chân múa tay.
– Tôi đang ở trong nhà bếp! – Wiggins hổn hển nói. – Tôi đã nhìn thấy tất cả… Thưa, ông giáo sư có bị thương không ạ?
– Anh cũng thấy là không mà – giáo sư trả lời. – Tôi cấm không được nói điều mà anh sắp nói.
– Tôi có trách nhiệm phải nói cho ông và tôi sẽ nói – Wiggins đáp. – Sự nguyền rủa của Ra-Orkon đã làm cho quả cầu đá này lăn. Sự nguyền rủa của Ra-Orkon sẽ giết chết ông giáo sư và có lẽ sẽ giết cả chúng tôi cùng với ông.
– Sự nguyền rủa của Ra-Orkon à? – Hannibal hỏi. – Thưa bác giáo sư, xác ướp có lời nguyền không ạ?
– Tất nhiên là không! – ông Yarborough la lên. – Chắc là cậu quá trẻ để nhớ, nhưng lúc bác tìm thấy Ra-Orkon trong thung lũng Vua Chúa, báo chí đã tuyên truyền một câu chuyện ngu ngốc về một câu khắc nào đó trên tường.
– Câu khắc nói thế này: Bất hạnh sẽ ập xuống đầu ai dám phá rối sự an nghỉ của Ra-Orkon Công Minh – Wiggins ấp úng. – Mà từng thành viên một của đoàn thám hiểm đã bị chết hoặc bị trọng thương bằng cách này hay cách khác, bởi vì…
– Wiggins! – giáo sư gầm lên.
– Vâng, thưa ông. Tôi xin lỗi ông – Wiggins xúc động nói.
– Câu khắc nói thế này – giáo sư tiếp. – Ra-Orkon Công Minh đang an nghỉ tại đây. Thật là bất hạnh nếu sự an nghỉ của Ngưòi bị phá rối. Rõ ràng là bất hạnh của Ra-Orkon. Đúng là Lord Carter diễn đạt câu văn này theo kiểu khác, nhưng tôi tin chắc là ông ấy hiểu sai.
Sau khi dừng một hồi, giáo sư Yarborough nói tiếp:
– Tuy nhiên đúng là có một sự bí ẩn nào đó quanh xác ướp Ra-Orkon. Lord Carter và bác gần như tình cờ phát hiện ra ngôi mộ. Ngôi mộ được giấu kín thật sâu trong một đồi đá. Bên trong không hề thấy những đồ vật thường có trong các ngôi mộ của vua chúa. Chỉ có cái quách này, thế thôi. Trong quách có xác ướp của Ra-Orkon và ái miêu của ông, cũng được ướp xác chung với ông. Không có câu khắc nào để nói Ra-Orkon làm gì lúc còn sống, đúng như tục lệ. Có thể nghĩ người ta làm lễ mai táng sao cho không gây chú ý. Có lẽ gia đình dự định sẽ xây mộ xứng đáng cho người sau này? Dù sao, nếu bọn cướp phá mộ, thời đó rất đông, tấn công ngôi mộ này, thì chúng sẽ chẳng tìm được gì.
– Mặt khác, chất lượng xác ướp cho ta thấy rằng người này không phải là thường dân. Thậm chí, ngày chết, chúng ta cũng không biết. Mà cái tên cũng dễ gây nhầm lẫn: phần Ra làm cho ta nghĩ đến vua chúa những triều đại đầu tiên; ngược lại, phần Orkon làm cho ta nghĩ đến ảnh hưởng của Lybie. Dân Lybie đã bắt đầu di cư sang Ai Cập cách đây hơn 3000 năm, và cuối cùng đã cai trị đất nước này. Một khi, nhờ thử nghiệm than phóng xạ, bác tìm ra chính xác ngày đưa vào mộ, bác dự định làm một nghiên cứu thật sâu để xác định nguyên nhân chôn cất kín đáo này – có thể nói là bí mật.
– Còn những chuyện tầm bậy mà Wiggins kể về những bất hạnh xảy ra với các thành viên trong đoàn, các cháu đừng tin. Lord Carter chết trong một vụ tai nạn xe hơi. Còn Alec Freeman, một nhà tự học lỗi lạc làm thư ký cho bác, anh ấy đã bị ám sát trong chợ. Anh ấy là cha của bạn bác, giáo sư Freeman, ở phía bên kia vực hẻm.
Bob và Peter nhìn nhau. Theo 2 cậu, sự việc nghe càng lúc càng tệ hơn, mặc dù Babal có vẻ thích thú trước những vụ bí ẩn chồng chất lên nhau như thế này.
– Thôi – giáo sư nói. – Bây giờ ta hãy bỏ qua những chuyện mê tín buồn cười này, và ra xem tại sao quả cầu đá lại rớt ra khỏi trụ.
Ông Yarborough cùng ba thám tử và Wiggins ra xem trụ. Một vòng xi măng có công dụng gắn quả cầu vào đế. Mưa gió đã làm tan rã xi măng. Ngoài ra, do đất bị lún, nên cột hơi bị nghiêng theo chiều dốc.
– Hết sức rõ ràng – giáo sư quả quyết. – Mưa gió đã ăn mòn mất một phần xi măng.
Wiggins bỏ đi và lắc đầu: anh không tin. Tất cả những người còn lại cùng bước vào phòng bảo tàng, nơi tất cả xúm quanh cái quách.
– Phương án của cháu rất tài tình – Ông Yarborough nói với Hannibal. – Tuy nhiên nó không đúng, bởi vì dường như không có cái đài radio nào được giấu trong cái quách.
– Thưa bác giáo sư, bác đã kiểm tra chắc chắn chưa? – Hannibal kính cẩn hỏi.
– Thật ra bác chưa kiểm tra – nhà bác học thừa nhận. – Có lẽ bác phải nghĩ đến việc kiểm tra.
Ông lấy đài radio mà Hannibal để lại bên cạnh Ra-Orkon. Sau đó ông sờ vào những tấm vải quấn quanh xác ướp, ông hết sức cẩn thận nhấc xác ướp lên: trong quách không có gì hết.
Hannibal có vẻ thắc mắc. Cậu kiểm tra quách, xem xét nắp, nghiêng hòm để nhìn phía dưới.
– Không – Hannibal kết luận. – Không có dây, không có máy thu. Cháu xin lỗi, thưa bác giáo sư. Hoá ra giả thuyết đầu tiên của cháu sai.
– Đó là chuyện thường hay xảy ra đối với những giả thuyết đầu tiên – Ông Yarborough khoan dung trả lời. – Có thể cháu có một giả thuyết thứ hai?
– Thưa bác, bây giờ thì chưa có. Bác nói rằng xác ướp chỉ nói riêng với bác, phải không ạ?
– Đúng. Ngoài ra, cho đến nay, nó chỉ nói chuyện với bác vào cuối giờ chiều.
Hannibal véo môi.
– Có ai ngoài bác ở trong nhà không, thưa bác?
– Chỉ có mình Wiggins thôi. Anh ấy làm việc cho bác mười năm nay rồi. Xưa kia, nếu bác không lầm, anh ấy là diễn viên hài… Một bà giúp việc đến đây dọn dẹp ba lần một tuần. Wiggins vừa làm tài xế, vừa làm đầu bếp, vừa làm Wiggins cho bác.
– Thế còn những người làm vườn? – Hannibal hỏi.
– Bảy anh em Magasay làm việc tại đây tám năm rồi. Mà họ không bao giờ vào nhà.
– Phải… Hannibal nói khẽ, vẻ suy tư. Cháu phải nghe xác ướp nói. Chính cháu.
– Rất tiếc, dường như nó chỉ chịu nói chuyện với bác thôi – giáo sư bắt bẻ. – Nó không chịu nói chuyện với Wiggins, và cũng không nói chuyện với giáo sư Freeman.
– Còn cậu, Babal, nó hoàn toàn không quen biết gì cậu. Tại sao cậu nghĩ nó sẽ tâm sự với cậu? – Bob xen vào.
– Lạ thật! – Peter kêu, – mình tưởng như xác ướp này biết nhận ra người!
– Phải thú nhận là giả thuyết này phản khoa học – giáo sư nói. – Tuy nhiên… dường như đúng là như vậy.
Hannibal có vẻ tự tin.
– Cháu nghĩ – Hannibal tuyên bố, – rằng xác ướp sẽ nói chuyện với cháu. Như vậy cháu sẽ có thêm thông tin. Thưa bác giáo sư, tối nay tụi cháu sẽ trở lại thăm bác và chúng ta sẽ tiến hành một cuộc thí nghiệm nhỏ.
° ° °
– Babal lại đi đâu mất rồi? – Peter vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ điện tử của bộ tham mưu. Sáu giờ mười lăm rồi, mà bọn mình lại có hẹn lúc 6 giờ.
– Có thể cậu ấy nói cho thím biết cậu ấy đi đâu, – Bob trả lời.
Bob vừa ghi lại vào giấy tất cả những yếu tố thu thập được lúc sáng. Cậu đã ở suốt buổi chiều trong thư viện, nơi cậu làm bán thời gian.
– Không – Peter nói. – Babal không nói gì với thím hết. Cậu ấy bỏ đi với chiếc Rolls. Để mình thử tìm Babal bằng kính tiềm vọng.
Peter đưa kính lên vị trí cao, rồi ghé con mắt vào chỗ nhìn.
– Xe Rolls tới kìa! – Một lúc sau, Peter nói. – Và Babal đang nhìn qua cửa xe. Có thể Babal đang thử liên lạc với bọn mình bằng radio.
Thám tử phó vội vàng trở về bàn làm việc, nơi có đặt bộ khuếch âm của máy điện thoại.
– Vậy mà Babal tự khoe là biết cảm từ xa! – Peter vừa ngồi xuống vừa càu nhàu. – Sáng nay, Babal nghe được bọn mình nói chuyện về ông Hitchcock và bà Banfry. Hắn ta vừa dắt xe đạp vừa nghe lén bọn mình!
Peter cúi sang đài cố định, bật nút, rồi thông báo:
– Bộ tham mưu đây. Thám tử trưởng ơi, có nghe không? Nói đi.
Sau đó, Peter thả nút ra và nghe. Lúc đầu có tiếng xuýt, rồi đến giọng của Hannibal:
– Thám tử trưởng đây. Sẽ đến ngay khi được. Nhận thấy các cậu đã sử dụng kính tiềm vọng. Hãy để trở về vị trí thấp ngay. Hết.
– Hiểu, – Peter nói – xin cắt mạch.
Vài phút trôi qua, mà Hannibal vẫn không tới.
– Hay là cậu ấy bị kẹt trong “đường hầm số 2”? – Bob kêu lên.
Đúng lúc đó, có tiếng gõ vào sàn xe lán theo một nhịp đã thống nhất mà chỉ có Ba Thám Tử Trẻ biết. Rồi cửa sập được nâng lên. Một cái đầu xuất hiện…
Peter và Bob không tin vào mắt mình. Nhân vật đang chui vào xe lán có bộ tóc bạc bù xù, có râu và đeo cặp mắt kính gọng vàng.
– Giáo sư Yarborough! – Peter la lên. – Làm thế nào bác đến đây được? Chuyện gì đã xảy ra với Babal rồi?
– Babal đã không thèm đếm xỉa đến lời nguyền của Ra-Orkon, – ông già vừa trả lời vừa leo qua cửa sập một cách nhanh nhẹn khá lạ so với tuổi tác. – Babal đã trở thành tôi!
Trong nháy mắt, Hannibal Jones tháo bộ tóc bạc giả, râu và kính ra.
– Nếu mình đã lừa được các cậu trong một lúc – Hannibal mỉm cười nói, – thì mình cũng sẽ làm được như thế với một xác ướp già 3000 năm không mở mắt ra được!
– Babal! – Bob kêu lên, vẫn còn không tin.
– Úi chà! – Peter nói. – Cậu lừa được bọn mình! Nhưng sao cậu lại nghĩ đến chuyện hóa trang thành giáo sư!
– Việc này cần thiết cho cuộc thí nghiệm của mình – Hannibal vừa trả lời vừa cất tất cả vào cái túi đang đeo.
Hannibal xuất hiện ra ánh sáng, và hai bạn thấy rõ những vết nhăn vẽ trên trán và khoé mắt làm cho Hannibal có vẻ già đi.
– Mình đến gặp chú Grant, làm hoá trang ở trường quay phim – Hannibal giải thích. Mình mô tả giáo sư cho chú ấy, và chú ấy đã làm cho mình cái đầu theo ý mình.
– Nhưng để làm gì? – Bob hỏi.
– Để lừa xác ướp.
– Lừa xác ướp hả? – Peter la lên. – Nghĩa là sao?
– Nếu xác ướp tưởng mình là giáo sư Yarborough, có thể nó sẽ nói chuyện với mình, Hannibal trả lời, bởi vì nó không chịu nói chuyện với ai khác nữa hết.
– Khoan đã! – Peter vẫn chưa chịu. – Nghe cậu nói, tưởng như xác ướp không chỉ biết nói, nó còn biết nhận ra người nữa. Làm sao được! Cái xác ướp đó đã chết cách đây 3000 năm rồi, có đúng hay không? Nếu cậu vẫn xem nó như một người còn sống, thì mình không đồng ý. Mình đề nghị cứ để cái xác ướp nói chuyện một mình nó, tùy thích. Còn bọn mình sẽ đi tìm con mèo của bà Banfry.
Bob định cho ý kiến, nhưng cậu kiềm lại. Hannibal đang véo môi.
– Tóm lại, cậu không đi với bọn mình, phải không? – Hannibal hỏi. – Cậu không muốn đi nghe tiếng thì thầm của xác ướp à?
Peter phân vân. Cậu đang hối hận vì dám nói dứt khoát như thế. Nhưng do bản năng cũng cứng đầu, Peter vẫn khăng khăng:
– Đúng. Lần sau, có thể cả mái nhà sẽ rớt xuống đầu bọn mình. Sau con chó, mặt nạ và quả cầu, mình đã hiểu rồi. Ra-Orkon không ưa bọn mình, rõ quá.
– Tốt lắm – Hannibal bình tĩnh nói. – Chúng ta có ba người. Không có lý do gì không cho phép chúng ta lo nhiều vụ cùng một lúc. Cậu hãy đi gặp bà Banfry. Bob và mình sẽ đi gặp xác ướp như dự kiến. Đồng ý không Bob?
Bob cũng hiểu rõ là Peter cũng không ngờ Hannibal sẽ nghĩ cậu nói nghiêm túc. Nhưng dù sao, thám tử trưởng nói đúng: nhóm có thể điều tra cùng một lúc tại vực hẻm Hunter và tại Santa Monica. Nên Bob gật đầu.
– Tốt – Hannibal quyết định, – Peter, cậu vẫn còn kịp đi đến nhà bà Banfry trước khi trời tối. Vì bọn mình cần xe Rolls, nên cậu nhờ anh Hans đưa cậu đến Santa Monica bằng xe tải nhỏ của cửa hàng.
Sau khi phân vân một hồi, Peter lầm bầm:
– Đồng ý, Babal.
Peter mở cửa sập ra, và chui vào “đường hầm số 2”. Cậu ra tới xưởng, luồn lách giữa những đồ đạc linh tinh, rồi vào phòng làm việc của ông Jones. Hans đang đóng cửa đi về, nhưng vì nể Hannibal, anh nhận lời chở Peter đến Santa Monica.
“Mọi thứ biến chuyển tốt, Peter nghĩ. Mình sẽ tìm con mèo Abyssinie. Còn sếp và lưu trữ có thể tự biến thành xác ướp, nếu thích”.