Con Đường Phía Trước

CHƯƠNG 8. GIÁO DỤC, CON ĐƯỜNG ĐẦU TƯ TỐT NHẤT



Những nhà giáo nổi tiếng đều biết rằng, quá trình không chỉ diễn ra trong lớp học, dưới sự giám sát của giáo viên. Ngày nay, những ai muốn thoả mãn lòng khao khát nâng cao kiến thức hoặc tìm những thông tin thích hợp với ngành nghề của mình thường không phải là chuyện dễ dàng. Xa lộ sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn thông tin vô hạn bạn yêu cầu vào bất cứ lúc nào và bất kỳ nơi đâu. Xa lộ là một triển vọng đầy hứa hẹn, bởi vì việc áp dụng công nghệ này vào ngành giáo dục sẽ mang lại nhiều lợi ích phù hợp cho mỗi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Một số người lo sợ rằng công nghệ này sẽ làm cho nền giáo dục chính thức mất tính nhân tính của nó. Nhưng bất kỳ một ai, khi nhìn thấy các em vây quanh một máy tính, như các bạn và tôi đã làm năm 1968, hoặc quan sát cảnh sinh viên từ các châu lục khác nhau cùng tranh luận về một đề tài nào đó, sẽ thấy rằng công nghệ này sẽ nhân tính hoá môi trường giáo dục. Chính sức mạnh kỹ thuật đang làm cho việc học hành trở nên cần thiết này cũng sẽ làm cho nó trở nên thiết thực hơn và thích thú hơn. Các công ty hiện đang tự tái lập lại mình để có thể nắm bắt biết bao cơ hội sinh động do nền công nghệ sinh học tạo ra, vì thế cách thức tổ chức các lớp học rồi sẽ phải thay đổi theo.
Howard Gardner, một giáo sư ở trường Harvard, cho rằng trẻ con phải được dạy dỗ theo những phương thức khác nhau phù hợp với chúng, bởi vì từng cá nhân nhận thức thế giới theo những cách thức khác nhau. Nền giáo dục đại trà không thể đáp ứng được những phương pháp tiếp cận thế giới khác nhau của trẻ em. Gardner gợi ý rằng trường học nên có đầy đủ các loại hình giáo dục như “các lớp dạy nghề, về các công trình, dự án, và về các ngành công nghệ học” nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của học sinh. Chúng ta sẽ có thể khám phá nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau, bởi vì các công cụ của xa lộ sẽ tạo sự dễ dàng để thử nghiệm và đo lường hiệu quả của chúng.
Ngày nay, nhờ công nghệ thông tin mà Levi Strauss & Co, đã có thể vừa sản xuất đại trà hàng loạt quần áo Jean nhưng lại rất vừa vặn với kích cỡ của từng cá nhân người sử dụng, công nghệ thông tin rồi cũng sẽ đưa phương thức vào trong ngành giáo dục. Giáo trình multimedia và các loại giáo cụ rất dễ sử dụng sẽ giúp cho giáo viên thực hiện dễ dàng chương trình giảng dạy mang tính đại trà nhưng rất phù hợp với nguyện vọng của từng cá nhân. Cũng như đối với đồ Jean, phương pháp sản xuất đại trà nhưng phù hợp với từng cá thể sẽ được áp dụng thành công trong giáo dục, bởi vì máy điện toán sẽ giúp tinh chỉnh sản phẩm – trong trường hợp này là giáo trình – giúp sinh viên có thể theo học các chương trình phù hợp, và học theo khả năng tiếp thu nhanh chậm của mình. Điều này sẽ không chỉ diễn ra trong các lớp học. Bất kỳ một sinh viên nào cũng có thể áp dụng phương pháp học theo sở thích nhưng theo một khung học phí chung theo phương thức đại trà. Mời sinh viên đều có cơ hội cập nhật với các kỹ thuật tiên tiến nhất trong phạm vi ngành nghề của mình.
Mời thành viên trong xã hội, kể cả trẻ em, đều có thể khai thác thông tin một cách dễ dàng so với bất cứ người nào hiện nay. Tôi tin rằng với nguồn thông tin vô cùng phong phú và có sẵn như vậy sẽ kích thích lòng khao khát hiểu biết và trí tưởng tượng của con người. Giáo dục sẽ trở thành một ngành mang đầy đủ tính chất cá nhân.
Hiện nay có một số người lo ngại rằng công nghệ đó sẽ thay thế giáo viên. Tôi khẳng định rằng, điều đó nhất định sẽ không xảy ra. Xa lộ thông tin sẽ không thay thế hoặc làm giảm giá trị bất kỳ một tài năng giáo dục con
người nào hiện đang rất cần cho những thách thức phía trước: các giáo viên tận tụy, các nhà quản lý đầy óc sáng tạo, các bậc phụ huynh, và dĩ nhiên, các sinh viên siêng năng nữa. Tuy nhiên, nền công nghệ này sẽ giữ vai trò trụ cột đối với giáo viên trong tương lai.
Xa lộ sẽ đúc kết và giới thiệu những công trình tốt nhất của vô số giáo viên và tác giả để mọi người cùng
chia sẻ. Giáo viên sẽ có thể tận dụng nguồn giáo trình đó, và sinh viên sẽ có dịp khai thác tối đa nguồn thông tin phong phú trên xa lộ. Đồng thời, công nghệ này sẽ giúp mở rộng cơ hội được học hành đến những sinh viên không có điều kiện vào học tại các trường học tốt nhất. Nó sẽ khuyến khích các em thiếu nhi phát huy cao độ tài năng bẩm sinh của mình.
Tuy nhiên, trước khi áp dụng các kỹ thuật tiên tiến này vào trong ngành giáo dục thì việc trước mắt hiện nay là phải thay đổi cách nghĩ trong việc triển khai máy điện toán vào trong lớp học.
Nhiều người hiện hoài nghi về công nghệ giáo dục, bởi vì nó đã được phóng đại quá mức nhưng lại chưa làm gì được nhiều. Hiện nay, nhiều máy điện toán trong trường học không đủ mạnh để có thể sử dụng dễ dàng, và khả năng bộ nhớ của chúng không đủ theo yêu cầu hoặc chưa nối được mạng để nhằm thoả mãn nhu cầu đang khao khát thông tin của giới trẻ. Từ trước đến nay, đứng về góc độ máy điện toán phục vụ giáo dục mà xét thì ngành giáo dục chưa có thay đổi mấy.
Sự chậm chạp trong việc đón nhận các kỹ thuật mới này của các trường học phản ánh khuynh hướng bảo thủ trong nhiều ngành có liên quan đến giáo dục. Nó phản ánh sự khó chịu hoặc thậm chí sự sợ hãi của giáo viên và các nhà quản lý, những người lớn tuổi hơn nhiều so với tuổi trung bình của học sinh. Nó cũng phản ánh ngân sách quá ư ít ời dành cho ngành giáo dục.
Các trường tiểu học hoặc trung học trung bình ở Hoa Kỳ đã bị tụt hậu rất xa so với các doanh nghiệp trung bình của Hoa Kỳ trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin mới. Các trẻ em chưa đến tuổi đến trường đã có dịp làm quen với điện thoại di động với máy nhắn tin, và máy điện toán cá nhân trước khi bước chân vào các trường mẫu giáo, nơi chỉ có bảng đen và máy chiếu là đại diện cho nền kỹ thuật hiện đại.
Reed Hundt, chủ tịch Uỷ Ban Thông Tin Liên Lạc Liên Bang Hoa Kỳ bình luận về vấn đề này: “Có hàng triệu người sống trong hàng ngàn toà nhà của đất nước này, hoàn toàn không có phương tiện thông tin liên lạc: không điện thoại, không truyền hình cáp, và không có cả triển vọng hứa hẹn nào về các dịch vụ thông tin liên lạc mới. Và người ta gọi chúng là những trường học”
Bất chấp những hạn chế đó những thay đổi đích thực vẫn cứ diễn ra. Nó sẽ không diễn ra một cách đột ngột. Xét về bề ngoài những mô hình giáo dục cơ bản vẫn được duy trì như cũ. Sinh viên sẽ tiếp tục đến lớp nghe giảng bài, nêu thắc mắc tham gia vào các hình thức họp tổ, nhóm ( bao gồm việc thực nghiệm), và làm bài tập về nhà.
Dường như có một sự nhất trí khá phổ biến là người ta sẽ trang bị thêm nhiều máy điện toán cho trường học, nhưng số lượng khác nhau tuỳ thuộc từng quốc gia. Hiện nay, mới chỉ có một vài nước như Netherland chẳng hạn, đã cung cấp máy điện toán cho tất cả trường học. ở Pháp, và một số nước khác, hiện nay hầu như chưa có nhưng chính phủ hứa sẽ trang bị các máy điện toán cho tất cả các trường học. Tại các nước Anh, Nhật, và Trung Quốc hiện nay cũng đang bắt đầu quá trình đưa công nghệ và thông tin vào trường giảng dạy quốc gia, chủ yếu là các trường dạy nghề. Tôi tin rằng rồi đây nhiều nước sẽ tăng cương đầu tư vào ngành giáo dục, và sẽ nâng cao số lượng máy điện toán trong các trường học bằng số lượng sử dụng trong các doanh nghiệp và gia đình. Chẳng bao lâu nữa, đối với các nước đang phát triển có thể chậm hơn, máy điện toán sẽ được trang bị cho tất cả trường học trên thế giới.
Giá bán phần cứng rồi sẽ giảm mạnh theo tốc độ tính từng tháng, và phần mềm phục vụ giáo dục sẽ rẻ hơn rất nhiều nếu mua với số lượng lớn. Hiện nay, nhiều công ty điện thoại và giây cáp ở Mỹ đã hứa sẽ nối mạng miễn phí hoặc giá rất rẻ cho trường học và thư viện trong khu vực của họ. Ví dụ, Pacific Bell đã tuyên bố sẽ cung cấp dịch vụ ISDN miễn phí cho tất cả các trường học ở California trong thời gian một năm, và TCL và Viacom đã nối cáp miễn phí cho trường học trong những khu vực họ phụ trách.
Mặc dù nhìn bề ngoài, các lớp học vẫn là những lớp học như trước, nhưng công nghệ thông tin sẽ cải tiến tất cả chi tiết bên trong. Các giảng đường sẽ được trang bị các tiện nghi diễn họa đa môi trường – và bài tập về nhà sẽ phải tham khảo rất nhiều tài liệu điện tử giống như trước đây sinh viên tham khảo sách giáo khoa vậy, thậm chí còn nhiều hơn nữa. Sinh viên được khuyến khích theo đuổi các lĩnh vực họ quan tâm đặc biệt và tạo được mọi điều kiện dễ dàng để thực hiện điều đó. Mỗi học sinh có thể nêu câu hỏi riêng của mình và sẽ được trả lời ngay tức khắc trong mục thắc mắc của sinh viên. Mỗi lớp học sẽ được giành một số thời gian trong ngày để khai thác thông tin trên máy điện toán cá nhân dưới hình thức cá nhân hay nhóm. Sau đó, sinh viên sẽ nêu câu hỏi hoặc những thông tin mà họ khai thác để cá nhân chọn những câu tiêu biểu cần đưa ra thảo luận trước lớp. Trong khi sinh viên làm việc tại máy điện toán, giáo viên dành thời giờ giúp đỡ từng sinh viên hoặc các nhóm, nhờ vậy giáo viên sẽ ít tốn thời gian để chuẩn bị bài giảng mà chủ yếu tập trung vào việc tìm giải pháp giải quyết vấn đê sinh viên nêu ra.
Các nhà giáo dục, cũng như nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân hiện nay, ngoài những chức năng khác, là những người có trách nhiệm tạo mọi điều kiện dễ dàng cho sinh viên cho học tốt. Và cũng giống như nhiều ngành khác họ phải nhanh chóng thích nghi với điều kiện đổi mới. Tuy nhiên, không giống như một vài nghề khác, tương lai của ngành giáo dục thật vô cùng rực rỡ. Cũng giống như các sáng kiến, phát minh đã cải thiện điều kiện sống của con người, ngành giáo dục rồi đây cũng sẽ cần phải tăng nhanh lực lượng giáo viên. Lực lượng giáo viên, những người đem sự sáng tạo và nghị lực vào một phòng học, rồi sẽ phát triển nhanh chóng. Những giáo viên rồi đây cũng phải tạo dựng mối quan hệ chặt chẽ với học trò, bởi trẻ em vốn rất yêu mến thầy cô giáo, những người các em biết rất rõ rằng rất yêu thương chúng.
Tất cả chúng ta ai cũng đều có thầy cô giáo rất tuyệt vời. Tôi có một thầy giáo dạy môn hoá rất tuyệt vời trong thời tôi còn học tại trường trung học. So với môn vật lý, môn hoá hấp dẫn hơn nhiều. Trong môn sinh học lúc đó chúng tôi phải giải phẫu loài ếch – thật ra, chúng tôi chặt chúng thành từng miếng nhỏ – và thầy giáo thì chẳng giải thích gì cả. Thầy giáo dậy môn hoá của tôi rất hiểu biết về đề tài này và ông hứa sẽ giúp chúng tôi hiểu biết hơn về thế giới loài ếch. Sau đó, lúc khoảng 20 tuổi, tôi có dịp học cuốn sinh học của James D. Watson, tôi mới biết rằng kiến thức tôi thu thập được ở trường trung học lúc trước là sai. Sự hiểu biết cuộc sống là một chủ đề lớn. Thông tin về môn sinh vật học quan trọng nhất chúng ta cần phải khám phá, bởi trong vài thập niên tới nó sẽ cách mạng hoá ngành y học. Cấu trúc DNA của con người giống như một chương trình máy tính, nhưng cao cấp hơn rất nhiều so với bất kì phần mềm nào đã từng được sáng tạo. Điều làm tôi ngạc nhiên là một thầy giáo đã biết cách làm bộ môn hoá trở thành một đề tài hấp dẫn vô tận đối với một học sinh như tôi.
Khi một giáo viên dày dạn với nghề soạn thảo được những giáo trình tốt nhất thì, xét cho đến cùng cũng chỉ có vài chục học sinh được hưởng lợi. Hiện nay, việc các giáo viên từ những địa điểm khác nhau cùng tham gia xây dựng một giáo trình chung là việc vô cùng khó khăn. Rồi đây, xa lộ thông tin sẽ giúp giáo viên có thể trao đổi các bài giảng và giáo trình, nhờ đó có thể chọn và phổ biến quá trình sâu rộng tốt nhất. Trong hầu hết mọi trường hợp, việc nghe giảng bài trên video là kém hấp dẫn hơn so với việc học trong một lớp học có giáo viên giảng bài. Nhưng đôi khi việc được nghe một giáo viên đặc biệt giảng một đề tài đặc biệt nào đó thông qua băng ghi hình cũng rất quan trọng.
Vài năm trước tôi và một người bạn phát hiện ra băng video ghi một loạt các bài giảng của nhà vật lý lừng danh, giáo sư Richard Feynman, tại trường Đại học Washington. Lúc chúng tôi nghe bài giảng này là đã mười năm sau khi Feynman giảng bài này tại Cornell. Nếu chúng tôi có diễm phúc được trực tiếp nghe ngay tại giảng đường, hoặc được hỏi ông vài câu qua phương tiện video chắc hẳn chúng tôi biết thêm được nhiều điều bổ ích. Cách giải thích hết sức rõ ràng, dễ hiểu về nhiêu khái niệm vật lý hay hơn bất kỳ một cuốn sách nào hay giảng viên nào tôi đã từng được nghe. Ông đã đưa chủ đề đi vào cuộc sống. Tôi nghĩ những ai đang học môn vật lý nên tìm nghe những bài giảng này. Khi xa lộ thông tin ra đời, những nguồn tài liệu vô cùng quý giá như thế này sẽ là nguồn thông tin vô tận cho giáo viên và học sinh.
Giả sử có một cô giáo ở Providence, Rhode Island, tìm được một phương pháp hữu hiệu để giải thích sự quang hợp, thì bài giảng của cô thông qua các phương tiện thông tin sẽ được các nhà giáo trên khắp thế giới tham khảo. Cũng có thể cũng có một số giáo viên bê nguyên xi các bài giảng từ trên xa lộ giảng bài cho lớp mình, nhưng số đông khác sẽ tận dụng phần mềm sáng tạo sử dụng, để bổ sung vào bài giảng của mình. Lúc đó, người ta sẽ dễ dàng nhận được ý kiến phản hồi của các nhà giáo khác để cải tiến bài giảng của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn những giáo trình đã được cải tiến đó sẽ có thể đến được tất cả trường học trên thế giới. Người ta rất dễ dàng nhận biết giáo trình nào là giáo trình phổ biến nhất, bởi vì mạng có thể tính số lần chúng được truy xuất, hoặc bầu chọn giáo viên bằng các phương pháp điện tử. Các công ty muốn trợ giúp ngành giáo dục để có thể tặng bằng khen và phần thưởng bằng tiền mặt cho những giáo viên có giáo trình tốt nhất.
Thật vô cùng khó khăn cho một giáo viên để soạn và giảng bài có chiều sâu, và chất lượng cho 25 sinh viên, 6 giờ một ngày, 180 ngày một năm. Điều đó càng đúng nếu số giờ xem truyền hình để giải trí của học sinh tăng lên. Tôi hình dung ra cảnh một giáo viên về khoa học tự nhiên của một trường trung học 10 năm sau, đang giảng bài chẳng những về hệ thống mặt trời, mà còn giải thích lịch sử phát hiện ra nó. Khi cô giáo muốn chọn một bức ảnh, ảnh tĩnh, hoặc video là một tác phẩm nghệ thuật hoặc ảnh chân dung, của một nhà khoa học vĩ đại về mặt trời, xa lộ sẽ giúp cô chọn từ trong một danh mục chung về hình ảnh. Các đoạn phim trích và phim hoạt hình có liên quan từ các nguồn tài liệu có sẵn trên xa lộ. Lúc đó chỉ cần vài phút là có thể có một giáo cụ trực quan bằng hình ảnh mà hiện nay có thể phải mất vài ngày mới có thể có được. Trong khi cô giáo đang giảng bài về mặt trời, các hình ảnh và các biểu đồ cần thiết sẽ xuất hiện vào những lúc thích hợp. Giả sử có một sinh viên hỏi cô giáo về xuất xứ của năng lượng mặt trời, cô giáo sẽ sử dụng các hình ảnh động về các nguyên tử hydrô và helium để minh họa, cô cũng có thể minh họa các tia sáng mặt trời, hoặc các vệt đen ở bề mặt trời hoặc các hiện tượng khác, hoặc cô có thể chiếu một đoạn phim video về năng lượng tổng hợp hạt nhân trên tấm bảng trắng. Giáo viên sẽ tổng kết các liên kết với các đài phục vụ trên xa lộ thông tin trước. Cô sẽ lập danh sách các liên kết trong sinh viên để trong khi nghiên cứu tại thư viện hoặc gia đình họ có thể xem lại tư liệu phù hợp với yêu cầu học tập.
Hãy hình dung cảnh một giáo viên trường nghệ thuật dùng một tấm bảng dạng số màu trắng để hiện thị quá trình phục hồi tác phẩm Bathers at asnières của Seurat. Bức tranh miêu tả một thanh niên trẻ đang nằm nghỉ bên dòng sông Seine trong thập niên 80 trên cảnh nền là những chiếc thuyền buồm và các ống khói tàu. Một giọng Pháp chính tông- Une baignade at asnières – và trình chiếu một sơ đồ ngoại ô Paris, với dòng chữ thị trấn asnieres nổi sáng. Giáo viên cũng có thể sử dụng bức tranh để minh hoạ thời kỳ cuối cùng của trường phái hội hoạ ấn tượng. Hoặc cô cũng có thể sử dụng nó để phát triển các chủ đề rộng lớn hơn, như đời sống ở Pháp vào cuối thế kỷ 19, cuộc cách mạng công nghiệp hoặc thậm chí cách thức mà người có thể nhìn thấy ánh sáng màu trắng.
Giáo viên có thể trọ đến cái mũ màu vàng da cam của một nhân vật đứng bên phải của tác phẩm và nói, ” Hãy nhìn vào sự rung động của cái mũ. Seurat đã đánh lừa đôi mắt. Cái mũ này màu đỏ, nhưng ông ta đã điểm thêm vài vét màu vàng và xanh. Các em sẽ không nhận thấy màu xanh trừ phi các em nhìn thật kỹ”. khi giáo viên nói điều này, cái mũ được phóng to lên cho đến khi nhìn rõ các sợi của tấm vải bạt. ở độ phóng đại này các vết màu xanh trở nên rõ ràng hơn, và giáo viên giải thích rằng màu xanh là thành phần bổ sung của màu cam. Một bánh xe màu sẽ xuất hiện trên tấm bảng trắng, và giáo viên hoặc chính tư liệu đa truyền thông sẽ giải thích: ” Mời màu sắc trên bánh màu này được bố trí tương phản với tổng thể của bức tranh. Màu đỏ tương phản với màu xanh, màu vàng tương phản màu tím, và màu xanh da trời tương phản với màu cam. Do thói quen của mắt khi nhìn vào một màu sẽ tạo một dư ảnh của màu bổ sung của nó. Suerat đã dùng thủ thuật này để làm cho các sắc màu đỏ và cam của cái mũ sinh động hơn bằng cách làm mờ các điểm màu xanh”.
Các máy điện toán được kết nối với xa lộ sẽ giúp cho giáo viên thực tập. Giáo viên vẫn tiếp tục cho bài tập về nhà, nhưng bài tập này sinh viên bị buộc phải tham khảo hệ thống tư liệu điện tử trên mạng. Sinh viên sẽ tự tạo các liên kết riêng của họ ứng dụng những tư liệu tham khảo thông qua các phương tiện đa truyền thông vào trong bài tập về nhà, và sau đó sẽ nộp bài bằng một đĩa mềm hoặc thông qua các xa lộ. Giáo viên có thể lập hồ sơ theo dõi việc học tập của từng sinh viên một, và có thể xem xét lại bất kỳ lúc nào hoặc cũng có thể trao đổi với các giáo viên khác.
Các chương trình phần mềm đặc biệt sẽ giúp tổng kết các thông tin như kỹ năng, sự tiến bộ và phát triển vọng của sinh viên. Một khi giáo viên có đầy đủ thông tin về sinh viên và tránh được nạn giấy tờ nhiêu khê, họ sẽ có thể dồn sức lực vào thời gian vào việc tìm hiểu và đáp ứng các yêu cầu của sinh viên đó. Thông tin này được đáp dùng để điều chỉnh bài giảng tại lớp cũng như thay đổi bài tập về nhà cho phù hợp với từng sinh viên. Giáo viên và phụ huynh học sinh cũng có thể nhận xétvà thảo luận những đặc điểm cá biệt về tiến triển của con em một cách dễ dàng. Kết quả là, cùng với sự phổ biến của hội thảo video, tiềm năng của sự cộng tác giữa phụ huynh, bằng cách thông qua mạng, sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để giúp đỡ con em mình, hoặc bằng cách lập các nhóm phụ huynh hỗ trợ nhau hoặc tìm trợ giúp cho con em mình.
Các bậc phụ huynh có thể giúp con em của họ ở trường bằng cách dạy chúng sử dụng phần mềm. Hiện đã có một giáo viên và nhân viên nhà trường sử dụng phần mềm thương mại thông dụng để quản lý các hoạt động của họ, và hướng dẫn cho sinh viên sử dụng các phương tiện làm việc của những cơ sở hiện đại. Đại bộ phận sinh viên đại học và ngày càng có nhiều học sinh trung học hiện đang lamg bài trên máy điện toán cá nhân với các trình xử lý văn bản thay vì sử dụng máy đánh chữ hoặc viết tay. Các bảng biểu và các ứng dụng biểu đồ cũng thường xuyên được sử dụng để giải quyết các toán học kinh tế, và trở thành một bộ phận chuẩn của hầu hết các khoa kế toán. Sinh viên và các khoa của các trường đại học cũng đang phát hiện các cách sử dụng mới đối với các ứng dụng thương mại thông dụng. Ví dụ, các sinh viên ngoại ngữ có thể tận dụng khả năng của các chương trình sử lý văn bản chuyên môn để học các ngôn ngữ khác nhau. Những chương trình đó có cả các công cụ kiểm tra chính tả và chọn từ đồng nghĩa trong các tư liệu đa ngôn ngữ.
Trong vài gia đình, trẻ em đang hướng dẫn cách sử dụng máy điện toán cá nhân cho cha mẹ chúng. Trẻ em và máy điện toán rất phù hợp nhau, một phần có lẽ do trẻ em chỉ thực hiện những chương trình đã lập sẵn. Trẻ em thích tạo sự phản ứng và máy điện toán đáp ứng được điều đó. Các bậc cha mẹ đôi khi ngạc nhiên bởi cách những đứa trẻ chưa đủ tuổi đến trường đã rất thích máy điện toán, nhưng sự tuyệt vời đó chỉ có ý nghĩa khi bạn hiểu được mức độ thích thú khi một đứa trẻ tận hưởng khả năng tương tác của máy – dù nó đang chơi trò cút bắt với cha mẹ, hay dí dí vào một bộ điều khiển từ xa và nhìn các kênh thay đổi.
Tôi thích xem đứa cháu gái 3 tuổi đùa giỡn với trò chơi Chỉ có Nội và Con thôi, một CD-ROM của Broderbund dựa trên một cuốn sách viết cho thiếu nhi. Cô bé thuộc lòng các đối thoại trong truyện tranh hoạt hình này và nói theo cùng với các nhân vật, giống như cô bé vẫn làm khi được mẹ đọc truyện cho cô nghe. Nếu cháu gái của tôi dùng chuột của máy điện toán nhấp lên một hộp thư, hộp thư mở ra và một con ếch nhảy ra ngoài, và đôi khi một bàn tay xuất hiện và kéo cánh cửa đóng hộp thư lại. Khả năng của cô bé bị ảnh hưởng bởi những gì cô thấy trên màn hình để trả lời câu hỏi “Cái gì sẽ xảy ra nếu nhấp vào đây? ” – sẽ khêu gợi tính hiếu kì của cô bé. Sự tương tác, kết hợp với chất lượng ẩn sau cốt chuyện, sẽ cuốn hút cô bé.
Tôi luôn luôn tin rằng hầu hết mọi người đều có trí thông minh và sự hiếu kỳ cao hơn các công cụ thông tin hiện có. Hầu hết mọi người đều đã trải qua kinh nghiệm là bạn rất thích thú và có cảm giác hài lòng khi tìm được nguồn tư liệu thích hợp với đề tài của mình ưa thích, và cảm giác mãnh liệt khi mình làm chủ được đề tài đó. Nhưng nếu việc tìm kiếm thông tin liên quan đến đề tài bạn ưa thích không thành công, bạn sẽ có cảm giác thất vọng. Khi đó bắt đầu có ý nghĩ cho rằng mình sẽ không bao giờ hiểu được đề tài đó. Và nếu bạn cho phản xạ tự nhiên đó lập lại nhiều lần, nhất là đối với một đứa trẻ thì ý nghĩ muốn thử lại sẽ bị giảm sút rất nhiều.
Tôi may mắn được lớn lên trong một gia đình luôn khuyến khích con em đặt những câu hỏi. Và trong tuổi niên thiếu của tôi, tôi may mắn làm bạn với Paul Allen. Ngay sau khi tôi gặp Paul, tôi hỏi anh ta xăng từ đâu mà có. Tôi muốn biết một cách chính xác xăng truyền năng lượng cho một chiếc xe như thế nào. Tôi đã tìm được một cuốn sách về đề tài đó, nhưng viết rất khó hiểu. Tuy nhiên, xăng là một trong nhiều đề tài mà Paul hiểu được và anh ta giải thích nó theo cách của riêng anh và làm cho tôi thích thú và hiểu được. Bạn có thể nghĩ sự tò mò của tôi về xăng chính là chất xúc tác kết dính tình bằng hữu của chúng tôi.
Paul đã giải đáp cho tôi rất nhiều điều tôi tò mò muốn biết. Tôi khá môn toán hơn Paul và tôi hiểu phần mềm sâu xa hơn bất kỳ ai anh biết. Chúng tôi là nguồn tương tác lẫn nhau. Chúng tôi hỏi và trả lời các câu hỏi, vẽ các biểu đồ, hoặc thông báo cho nhau những thông tin liên quan. Chúng tôi thích thử thách và kiểm tra nhau. Đó chính là cách mà xa lộ sẽ tương tác với người sử dụng. Chúng ta thử tưởng tượng rằng có một thiếu niên khác muốn tìm hiểu về xăng, không phải trong năm 1970, mà là ba hoặc bốn năm sau này. Anh ấy không có may mắn có Paul bên cạnh, nhưng nếu tại trường học hoặc thư viện của trường có một máy điện toán và được nối với một phương tiện thông tin đa truyền thông phong phú, anh ta có thể nghiên cứu sâu vào đề tài anh thích.
Anh ta có thể xem xét hình ảnh, các băng hình video, và các phim hoạt hình, giải thích dầu được khoan, được vận chuyển và tinh chế như thế nào. Anh ấy có thể học sự khác biệt giữa xăng ôtô và xăng máy bay, và nếu anh ta muốn biết sự khác nhau giữa một bộ phận đốt trong của xe hơi và động cơ turbine của máy bay phản lực thì tất cả những gì anh phải làm là nêu ra câu hỏi.
Anh ta có thể khám phá cấu trúc phân tử phức tạp của xăng, đó là sự kết hợp của hàng trăm hydrorbon khác nhau, và cũng là dịp để anh tìm hiểu luôn về hydrorbon.
Đầu tiên, ngành công nghệ tin học mới sẽ giúp cải thiện các công cụ hiện có. Các bảng trắng của video gắn trên tường sẽ thay thế những bảng đen bằng các font chữ có thể đọc được và các đồ hoạ màu được vẽ từ hàng triệu giáo cụ trực quan, từ phim hoạt hình, ảnh, và phim video. Các tài liệu đa phương tiện sẽ giữ vị trí hiện nay trong sách giáo dục khác đang chiếm giữ. Và vì các giáo trình đa phương tiện đó sẽ được nối với các đài phục vụ trên xa lộ thông tin cho nên chúng luôn luôn được cập nhật rất kĩ càng.
Đĩa CD-ROM hiện có sẽ giới thiệu một kinh nghiệm tương tác mới. Phần mềm, theo lệnh của người sử dụng, sẽ cho hiện thông tin dưới dạng văn bản, âm thanh và phim video. Đĩa CD-ROM hiện đang được dùng trong các trường học, và các em học sinh cũng sử dụng chúng làm bài tập ở nhà, nhưng chúng có nhiều hạn chế. Đĩa CD-ROM, có thể giới thiệu một ít thông tin về một loạt các đề tài rộng lớn giống như một từ điển bách khoa toàn thư, hoặc nhiều thông tin về một chủ đề duy nhất, như khủng long chẳng hạn, nhưng mỗi lần tổng số lượng thông tin bị hạn chế bởi dung lượng của đĩa.
Và dĩ nhiên bạn chỉ có thể dùng đĩa của bạn mà thôi. Tuy nhiên đó vẫn là một bước tiến lớn so với tài liệu in trên giấy. Từ điển bách khoa toàn thư của multyimedia không chỉ là một công cụ nghiên cứu mà nó còn chứa tất cả những tài liệu tham khảo cần thiết cho việc làm bài tập ở nhà. Những từ điển bách khoa toàn thư này được sử dụng với sự hướng dẫn của giáo viên về cách thức sử dụng chúng ngay tại lớp, hoặc như một phần của bài tập làm ở nhà. Tôi rất phấn khởi nghe giáo viên và học sinh nhận xét về cách sử dụng sản phẩm của chúng tôi – trong số ý kiến đó có một vài điều chúng tôi đã dự đoán trước được.
Đĩa CD-ROM là tiền thân rõ rệt của xa lộ thông tin. Mạng World Wide Web của Internet là dạng tiền thân khác. Web đưa ra cách truy nhập các thông tin giáo dục lý thú mặc dù đa số vẫn còn dưới dạng văn bản bình thường. Một số giáo viên hiện đang sử dụng trên các dịch vụ trực tuyến để sáng tạo bài học mới.
Học sinh lớp 4 ở Callifornia đã thực hiện các nghiên cứu trực tuyến về báo chí để đọc về những thử thách mà những người định cư Châu á đang phải đối mặt. Trường đại học Boston đã tạo phần mềm tương tác có thể biểu diễn các tái hiện trực giác tri tiết về các hiện tượng khoa học, như các phân tử muối hoà tan trong nước cho sinh viên các trường trung học trong vùng.
Trường trung học Christopher Columbus ở Union City, New Jersey, là một trường học được thành lập trong cơn khủng hoảng. Vào cuối thập niên 80 các điểm kiểm tra của tiểu bang quá thấp và tỉ lệ những người vắng mặt và bờ học nửa chừng quá cao trong số trẻ em của bang, và tiểu bang coi đó là trách nhiệm phải tìm cách giải quyết. Hệ thống trường học giáo viên và các bậc phụ huynh (trên 90% có nguồn gốc Tây Ban Nha và không nói tiếng Anh) tìm ra một kế hoạch cải cách 5 năm để giải thoát các trường học của họ.
Bell Atlantic (công ty điện thoại khu vực) đã đồng ý giúp đỡ một hệ thống máy điện toán đa phương tiện, được nối mạng đặc biệt với các gia đình của học sinh từ trường học, giáo viên, và các nhà quản lý trường. Ban đầu công ty cung
cấp 140 máy điện toán đa phương tiện, đủ cho các gia đình học sinh, và các gia đình của tất cả các giáo viên lớp 7, với ít nhất 4 máy trên một phòng học. Các máy điện toán được nối mạng và được liên kết vơi những đường dây tốc độ cao để vào mạng Internet, và các giáo viên được huấn luyện cách sử dụng máy vi tính. Các giáo viên thành lập các khoá huấn luyện cuối tuần cho phụ huynh học sinh, và hơn nửa số phụ huynh tham dự. Người ta khuyến khích học sinh sử dụng thư điện tử và mạng Internet.
Hai năm sau, các bậc phụ huynh đã cùng với con cái họ tham gia tích cực vào việc sử dụng máy các máy điện toán tại nhà, và dùng chính chúng để liên lạc với các giáo viên và ban giám hiệu trường; tỉ lệ bờ học và vắng mặt không có lý do hầu như không còn nữa, số học sinh đạt được điểm cao trong các đợt kiểm tra chuẩn đã cao hơn 3 lần so với tất cả các trường học trong thành phố. Và kế hoạch đó đã được mở rộng ra cho tất cả các trường trung học.
Raymond W. Smith, chủ tịch hội đồng kiêm giám đốc điều hành của công ty Bell Atlantic, bình luận,” Tôi tin sự kết hợp hệ thống các trường học sẽ là cơ sở cho sự thay đổi cơ ban trong phương pháp giảng dạy, là cơ hội để các bậc phụ huynh có điều kiện tham gia và có sự kết hợp một cách thận trọng nhưng có chiều sâu của công nghệ này vào các gia đình và trường học nhằm đào tạo một cộng đồng học tập thật sự, trong đó gia đình và trường học cùng tăng cường và hỗ trợ lẫn nhau”.
Ÿ trường Lester B. Peorson, một trường trung học Canada phục vụ một cộng đồng gồm nhiều sắc tộc, máy điện toán là một bộ phận không thể thiếu trong giáo trình giảng dạy hàng ngày của tất cả các bộ môn của trường. Với khoảng 1200 học sinh sử dụng hơn 300 máy điện toán cá nhân, với hơn 100 tiêu đề phần mờn khác nhau. Tỷ lệ học sinh bờ học hiện nay của trường là 4% so với tỷ lệ thấp nhất nước Canada là 30% trước đây. Hàng năm, có hàng ngàn khách đến tham quan và học tập phương pháp đưa khoa học kỹ thuật vào mọi mặt cuộc sống của học đường.
Khi xa lộ thông tin đi vào hoạt động, thông tin dưới dạng văn bản từ hàng triệu cuốn sách sẽ sẵn trên xa lộ. Một độc giả có thể đặt câu hỏi, in lại nội dung tư liệu, đọc trên màn hình, hoặc thậm chí có thể chọn những giọng đọc mình thích. Người ấy có thể nêu ra câu hỏi. Nó sẽ là người trợ giáo của anh ta.
Máy điện toán có các giao diện xã hội có thể hình dung ra cách trình bày thông tin sao cho phù hợp với sở thích của người sử dụng. Nhiều chương trình phần mềm phục vụ giáo dục sẽ có các phẩm cách khác nhau, và sinh viên và máy tính sẽ có thể hiểu biết lẫn nhau. Một sinh viên có thê sẽ hỏi, bằng miệng:” Nguyên nhân nào đã dãn đến cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ?”. Máy điện toán sẽ trình bày nguyên nhân ban đầu là do những xung đột về kinh tế và nhân quyền. Nội dung câu trả lời dài ngắn khác nha sẽ tuỳ thuộc vào sinh viên và tình huống cụ theer. Sinh viên có thể xen vào bất kỳ lúc nào để yêu cầu máy điện toán trả lời chi tiết hơn hay để yêu cầu một phương pháp hoàn toàn khác. Máy điện toán biết rõ sinh viên đó đã đọc nững thông tin nào và sẽ chỉ ra những thông tin liên quan, và gợi ý nên tìm liên kết khác thích hợp hơn. Nếu máy biết sinh viên đó thích các câu chuyện chiến tranh, truyện sử gia, nhạc đồng quê, hoặc thể thao, nó có thể thử dùng kiến thức đó để giới thiệu thoong tin. Nhưng đó chỉ là một thiết bị gợi ý sự chú ý. Chiếc máy điện toán này, giống như một giáo viên tốt, sẽ không đầu hàng các trẻ em có những ý thích sai lệch. Thay vào đó, máy sẽ sử dụng tính ham thích của trẻ em để dạy một đề tài rộng lớn hơn.
Người ta chú ý tới tốc độ tiếp thu trong học tập của từng học sinh có khác nhau, bởi vì máy điện toán có khả năng chú ý tới những nét cá biệt của những người tự học. Trẻ em có những nhược điểm trong học tập sẽ được đặc biệt lưu ý. Dù có nhược điểm hay không, mọi sinh viên đều có thể học tập theo tốc độ riêng của mình. Một lợi ích khác của việc học với sự giúp đỡ của máy điện toán là nhiều sinh viên có thể theo dõi các cuộc kiểm tra. Hiện nay, nhiều trẻ em rất ngán các kỳ kiểm tra. Chúng thường nói với nhau rất ngắn gọn như:” Điểm kém rồi”, hoặc “Mình không đủ thời gian”, hoặc “Tớ chẳng chuẩn bị kịp”. Sau một thời gian, nhiều trẻ em không đạt điểm tốt trong các kỳ kiểm tra có thể có suy nghĩ: tốt nhất nên coi như chẳng có gì quan trọng, bởi vì mình có bao giờ thành công đâu. Các kỳ kiểm tra có thể là nguyên nhân khiến một học sinh có thái độ tiêu cực đối với tất cả những gì thuộc về giáo dục.
Mạch tương tác sẽ giúp cho học sinh, sinh viên tự tổ chức thi cho riêng mình và bất kỳ lúc nào, trong một môi trường hoàn toàn không có rủi ro. Tự thi cho mình là một hình thức của việc tự khám phá, giống như Paul Allen và tôi vẫn thường kiểm tra lẫn nhau trước đây. Việc kiểm tra thi cử sẽ trở thành một phần quyết định của quá trình học tập. Khi tự thi hoặc kiểm tra, nếu có sai sót không sợ bị khiển trách; nó chỉ khích thích hệ thống nhằm tìm giải pháp giúp học sinh khắc phục những sai sót của mình. Nếu có một ai đó thực sự bí, hệ thống sẽ giúp giải thích các hoàn cảnh đó cho giáo viên biết. Học sinh, sinh viên sẽ càng ngày bớt lo sợ hơn đối với các kỳ thi chính thức, và sẽ tự tin hơn bởi quá trình tự thi đã giúp cho mỗi học sinh hiểu đúng hơn về kiến thức, trình độ của mình.
Nhiều phần mềm phục vụ giáo dục và các công ty xuất bản sách giáo khoa đã phân phối các sản phẩm máy điện toán tương tác trong toán học, trong ngôn ngữ học, kinh tế học, và sinh vật học nhằm giúp xây dựng các kỹ năng cơ bản. Ví dụ. Academic Systems của Palo Alto, California, triển khai một hệ thống hướng dẫn đa phương tiện tương tác cho các trường đại học, để giúp giảng dạy các môn học toán đại cương và Anh văn căn bản. Khái niệm được gọi là” mediated learning”- học qua trung gian – và nó kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với việc học dựa trên máy điện toán. Mỗi sinh viên bắt đầu bằng cách tạo ra một cuộc kiểm tra để xác định bộ môn nào họ hiểu và những chỗ nào cần phải học thêm. Sau đó hệ thống sẽ lập một chương trình bài học được nhân tính hoá cho sinh viên đó. Các kiểm tra định kỳ sẽ xác định sự tiến bộ của sinh viên, chương trình bài học đó có thể được điều chỉnh, bổ xung khi sinh viên đã nắm vững được các khái niệm. Chương trình cũng có thể báo cáo các vấn đề nảy sinh cho giáo viên để biết có biện pháp giúp đỡ, Cho đến nay, công ty đã nhận thấy rằng các sinh viên trong các trương trình thí điểm thích giáo trình mới, nhưng các lớp thành công nhất là những lớp đã có sẵn giáo viên hướng dẫn. Các kết quả này nhấn mạnh một điều là kỹ thuật mới này, nếu duy nhất chỉ dựa vào nó thôi, thì không đủ để cải tiến ngành giáo dục.
Một số phụ huynh chống lại việc sử dụng máy điện toán trong học tập bởi vì học không thể theo dõi được việc học hành của trẻ và không có cách gì để quản lý chúng được. Đại bộ phận các bậc phụ huynh học sinh vô cùng phấn khi thấy bọn trẻ nằm thu mình với một quyển sách trong tay, nhưng lại chẳng hài lòng khi thấy cậu bé ngồi hàng giờ trước chiếc máy điện toán. Chúng có thể nghĩ về các trò chơi video. Một đứa trẻ có thể sử dụng hầu hết thời gian để chơi trò chơi và chẳng chịu học hành gì cả. Từ trước đến nay, người ta đã đầu tư rất nhiều tiền của để tạo ra phần mềm phục vụ cho giải trí nhiều hơn cho giáo dục. Việc đó làm cho giới trẻ dễ dàng bị nghiện các trò chơi thay vì giới thiệu cho chúng thế giơí thông tin mới bằng nhiều phương thức hấp dẫn trẻ con.
Tuy nhiên, một khi các ngân sách của giáo khoa và chi tiêu của ohụ huynh học sinh chuyển sang giáo trình tương tác, sẽ có hàng ngàn công ty phần mềm mới phối hợp với giáo viên để tạo tài liệu học tập tương tác có chất lượng và có thể dùng để giải trí được. Chẳng hạn, tờ chức cộng tác Lighspan sử dụng tài năng của Hollywood để tạo các chương trình hoạt động và hoạt hình sống động. Lighspan hy vọng kỹ thuật sản xuất tinh vi của nó sẽ nắm bắt và giữ gìn quyền lợi thiếu nhi – tuổi từ 5 đến 7- và khuyến khích chúng sử dụng nhiều thời gian cho học tập hơn. Các nhân vật trong phim hoạt hình sẽ dẫn học sinh qua những bài học giải thích các khái niệm cơ bản, và sau đó qua trò chơi giúp chúng ứng dụng các bài học đã học. Các bài học của Lighspan được chia thành các chương trình phục vụ riêng cho từng lứa tuổi cách nhau khoảng 2 năm tuổi và được tổ chức thành từng loạt chương trình dự định phục vụ cho việc giảng dạy các môn toán học, tập đọc, và ngôn ngữ. Những chương trình này sẽ có sẵn trong các chương trình trên truyền hình trong các gia đình, tại và các trung tâm cộng đồng, cũng như trong các trường học. Cho đến khi truyền hình tương tác trở nên phổ biến rộng rãi, loại chương này sẽ được đưa vào CD-ROM hoặc qua Internet đến người sử dụng máy điện toán.
Tuy nhiên, tất cả thông tin này sẽ không thể giải quyết nổi các vấn đề nghiêm trọng mà các trường học công hiện đang phải đối phó: ngân sách bị cắt giảm, bạo lực, thuốc phiện, nạn bờ học trong học sinh, trẻ lang thang bụi đời nguy hiểm và việc giáo viên lo lắng cho cuộc sống hơn là cho giáo dục. Giới thiệu các kỹ thuật chưa đủ để giải quyết mọi vấn đề nêu trên mà xã hội phải quyết những vấn đề cơ bản.
Trong khi một số trường học công đang phải đối mặt với các thách thức lớn, nhưng mặt khác chúng cũng là niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta. Hãy tưởng tượng một tình trạng mà trong đó hầu hết trẻ em trong các trường công trong thành phố đều sống bằng tiền trợ cấp, không thể nói được ngôn ngữ của người bản xứ, không nghề nghiệp, và tương lai không có gì đảm bảo. Đây là nước Mỹ trong những năm đầu của thập niên 90, khi hàng chục triệu người nhập cư đã tràn ngập trong các trường học và gây ra biết bao khó khăn cho các ngành dịch vụ xã hội trong các thành phố lớn của chúng ta.
Thế mà, thế hệ đó và cả thế hệ kế tiếp đã đạt được mức sống không nơi nào tren thế giới sánh kịp, Các vấn đề của các trường học của Mỹ không phải là không thể khắc phục được, chỉ có điều nó vô cùng phức tạp. Thậm chí ngày nay. trong các trường học nói trên cũng đạt nhiều thành tựu mà bạn chưa biết tới. Tôi có đề cập tới một số ví dụ trong cuốn sách này. Tuy nhiên, những đề tài đó nằm ngoài phạm vi cuốn sách, vấn đề là các cộng đồng sẽ phải giành lại các trường học và các khu phố của họ. Các địa phương cần phải nỗ lực cao độ, lần này một khu phố, lần khác một trường học. Và sau đó các bậc phụ huynn học sinh phải đảm bảo rằng họ đưa con cái đến trường là để học tập. Nếu vẫn với thái độ “Hãy để trường học (hoặc chính phủ) lo”, thì trẻ em sẽ thất học.
Một khi một bầu không khí lạc quan khiêm nhường nhất đối với giáo dục được hình thành thì xa lộ thông tin sẽ giúp nâng cao tiêu chuẩn học vấn cho mọi người trong các thế hệ tương lai. Xa lộ sẽ giới thiệu các phương pháp giảng dạy mới với nhiều sự chọn lựa khác nhau. Giáo trình giảng dạy có chất lượng có thể được tạo bằng ngân sách của chính phủ và được sử dụng miễn phí. Các nhà bán lẻ mới có thể là các trường công khác; các nhà giáo viên trường công hoặc giáo viên nghỉ hưu sẽ lao vào kinh doanh mặt hàng này; hoặc một số trường học tư áp dụng chương trinh giảng dạy có trên xa lộ, muốn chứng minh các khả năng của nó. Xa lộ sẽ là một phương thức để cho các trường học đào tạo ra giáo viên mới hoặc sử dụng dịch vụ của họ trên xa lộ.
Xa lộ cũng giúp cho việc học ở nhà dễ dàng hơn. Nó sẽ giúp các bậc phụ huynh chọn những trường có chất lượng nhưng vẫn kiểm soát được nội dung.
Việc học với máy điện toán sẽ tạo đà cho việc học không có máy sau này. Trẻ con muốn được chạm vào các chơi và các dụng cụ bằng tay của chúng. Việc xem các phản ứng hoá học xảy ra trên màn hình có thể bổ sung tốt cho việc tiến hành thí nghiệm trên thực tế trong phòng thí nghiệm sau này, nhưng nó không thể thay thế hoàn toàn thí nghiệm thực được. Trẻ con cần sự tương tác cá nhân với nhau, và với người lớn, để học các kỹ năng xã hội và cách giao tiếp với nhau, như ý thức làm việc tập thể.
Các giáo viên giỏi của tương lai sẽ phải làm việc nhiều hơn chứ không phải là chỉ có chỉ cho trẻ em cách tiếp cận thông tin trên xa lộ. Họ còn phải hiểu khi nào kiểm tra, quan sát, khiêu khích, khơi gợi vấn đề. Họ còn phải luyện tập các kỹ năng của các em trong cách viết và giao tiếp bằng lời nói, và sẽ sử dụng kỹ thuật như một khởi điểm hoặc một phương tiện trợ giúp. Những giáo viên thành công sẽ là những huấn luyện viên, các cộng sự, là những sáng tạo, và là những nhịp cầu nối các em với thế giới.
Các máy điện toán trên xa lộ thông tin có khả năng thể hiện cũng như giải thích về thế giới. Việc tạo hoặc sử dụng mô hình máy điện toán có thể là một giáo cụ tuyệt vời. Những năm trước đây, một giáo viên ở trường trung học Sunnyside ở Tucson, Arizona, đã tổ chức một câu lạc bộ sinh viên để tái tạo trên máy điện toán trạng thái của thế giới thực. Sinh viên đã khám phá ra những hậu quả khủng khiếp của hành vi của các băng nhóm tội phạm bằng cách tái tạo lại bọn chúng theo phương pháp toán học. Thành công của câu lạc bộ cuối cùng đã dẫn đến kết quả là người ta đã phải cải tổ toàn bộ giáo trình giảng dạy toán học theo ý tưởng là giáo dục không chỉ nhằm làm cho trẻ em trả lời đúng các câu hỏi, mà nhằm giúp cho chúng phương pháp để xác định câu trả lời đó là đúng.
Việc giảng dạy các bộ môn khoa học thành công chủ yếu là nhờ vào việc sử dụng các mô hình. Ngày nay trẻ em học lượng giác học bằng cách đo lường chiều cao của các ngọn núi thực. Chúng tập vẽ hình tam giác từ hai điểm chứ không phải là chỉ làm các bài tập trìu tượng. Hiện đã có nhiều kiểu máy điện toán chuyên dùng cho việc giảng dạy bộ môn sinh vật. SimLife, một trương trình phần mềm phổ biến, tái tạo sự biến hoá, vì thế trẻ em bắt tay vào thử nghiệm quá trình thay vì chỉ được giảng các sự kiện về nó. Không phải chỉ có trẻ em mới yêu thích chương trình này, một chương trình giúp cho bạn vẽ được cây cờ và động vật, và sau đó quan sát cách chúng tương tác và phát triển trong một hệ sinh thái cũng do họ tạo ra. Maxis Software, nhà xuất bản chương trình SimLife, cũng tạo ra một chương trình khác, SimCity.
Chương trình này giúp bạn thiết kế một thành phố với tất cả các hệ thống có liên hệ chặt chẽ với nó, như đường sá và vận tải công cộng. Là người tham dự trò chơi bạn có thể đóng vai ông thị trưởng hay là viên kỹ sư trưởng thành phố thuộc một cộng đồng thực tế nào đó, và thử thách chính bạn trong việc thoả mãn các yêu cầu riêng do bạn đề ra, chứ không phải những yêu câu giả tạo do người lập chương trình phần mềm tạo sẵn từ trước. Bạn xây dựng các nông trại, nhà máy, nhà ở, trường học, thư viện, bảo tàng, sở thú, bệnh viện, nhà tù, bến cảng, xa lộ, cầu cống, thậm chí cả hệ thống đường ngầm. Bạn phải đối phó với nạn dân số tăng vợt hay thiên tai, như họa hoạn chẳng hạn. Bạn cũng thay đổi địa hình. Khi bản bổ sung vào bản thiết kế thành phố được tái tạo bằng cách xây dựng phi trường hoặc tăng thuế, những thay đổi có thể tiên đoán được hoặc xảy ra một cách đột ngột trong xã hội được tái tạo của bạn. Đó là một phương pháp nhanh chóng và tuyệt vời để nhận biết cách thế giới thực hoạt động ra sao.
Hoặc bạn sử dụng sự mô phọng để nhận biết về những gì đang xảy ra bên ngoài thế giới này. Trẻ em có thể định hướng thái dương hệ hoặc dải ngân hà trong một con tàu vũ trụ tái tạo bằng cách đùa nghịch với trình mô phọng không gian. Đối với những em nào không thích môn sinh vật hoặc thiết kế thành phố hay không gian bên ngoài, có thể dùng trình mô phọng của máy điện toán để khám phá và kiểm nghiệm chúng. Khi các bộ môn khoa học này càng trở nên hấp dẫn hơn nhờ các phương pháp này, nó sẽ ngày càng thu hút đông đảo sinh viên hơn.
Trong tương lai, các sinh viên ở tất cả mọi lứa tuổi và thuộc mọi khả năng đều có thể tiếp cận và tương tác với thông tin. Ví dụ, một lớp học nghiên cứu về thời tiết có thể xem xét các hình ảnh của các vệ tinh đã được tái hiện dựa trên mô hình của điều kiện khí tượng theo giả thiết. Sinh viên sẽ nêu các loại câu hỏi như Điều gì sẽ xảy ra nếu… “Điều gì sẽ xảy ra với thời tiết ngày hôm sau nếu tốc độ gió tăng lên 15 mph?”. Máy điện toán sẽ tìm kết quả dự đoán, hiển thị hệ thống thời tiết được mô phọng như nó xuất hiện trong không gian. Các trò chơi mô phọng sẽ trở nên tốt hơn, ngay trong điều kiện hiện nay nó cũng đã có sức quyến rũ và mang tính giáo dục cao.
Khi các chương trình mô phọng trở nên thực tế hơn, chúng ta sẽ tiến vào lãnh vực thực tế ảo. Tôi chắc rằng vào một thời điểm nào đó không xa, trường học được trang bị các thiết bị thực tế ảo, hoặc thậm chí cả các phòng thực tế ảo, cách mà hiện nay vài trường đã có các phòng âm nhạc và nhà hát để cho sinh viên khám phá các địa điểm, các vật hoặc một chủ đề theo phương thức tương tác và hấp dẫn này.
Tuy nhiên, công nghệ này sẽ không cô lập sinh viên. Một trong những kinh nghiệm quan trọng nhất trong công tác giáo dục là sự cộng tác. Trong một số trường học sáng tạo của thế giới, máy điện toán và mạng thông tin liên lạc đã thực sự thay đổi các mối quan hệ thông thường giữa sinh viên với nhau, và giữa sinh viên vơí giáo viên, bằng cách tạo sự dễ dàng cho quá trình công tác trong học tập.
Giáo viên trường Ralph Bunch ở khu Harlem đã tạo một bài giảng với sự trợ giúp của máy điện toán để hướng dẫn cho sinh viên trong nội thành của thành phố New York cách sử dụng mạng Internet để phục vụ cho việc học tập, để liên lạc với những bạn bè bằng thư điện tử trên khắp thế giới, và để cộng tác với các giáo viên tự nguyện ở gần trường đại học Columbia. Ralph Bunch là trong những một trường tiểu học đầu tiên của quốc gia đặt trong chuyên đề home page – riêng của nó trên World Wide Web của mạng Internet. Công việc của một sinh viên nằm trong home page của trường trên mạng Web, bao gồm cả các liên kết tới tờ nhật báo của trường, tới tác phẩm nghệ thuật của sinh viên, và một bài học về bộ ký tự Tây Ban Nha có minh hoạ.
Tuy chỉ mới là trường cao đẳng nhưng tất cả các cuộc nghiên cứu đều được thực hiện thông qua sự trợ giúp hết sức quan trọng của mạng Internet, tạo điều kiện dễ dàng cho sự cộng tác của các cá nhân với nhau. Từ trước đến nay, những cải tiến phát minh về máy điện toán luônluôn diễn ra tại các trường đại học. Nhiều trường đại học nay đã thành trung tâm cho các cuộc nghiên cứu bậc cao về công nghệ máy điện toán mới và nhiều trường khác vẫn duy trì các phòng máy điện toán để sinh viên cộng tác với nhau và làm bài tập về nhà. Ngoài ra, hiện nay đã xuất hiện những home page rất lý thú trên World Wide Web của mạng Internet với danh nghĩa thay mặt cho các trường đại học trên khắp thế giới. Một số trường đại học đã lập các mạng với quy mô nhỏ hơn. Tại trường đại học Washington, kế hoạch giảng bài tại lớp và bài tập về nhà được phát trên mạng World Wide Web. Các ghi chú về bài giảng cũng được công bố trên Web, một dịch vụ miễn phí mà chắc tôi sẽ rất thích thú nếu nó có trong những ngày tôi còn học đại học. ở những nơi khác, một giáo viên dạy tiếng Anh yêu cầu tất cả các sinh viên phải có địa chỉ thư điện tử và dùng nó để tham gia vào các buổi thảo luận trên mạng sau giờ học. Các thành viên của lớp được chấm điểm theo những đóng góp của họ trên mạng thư điện tử, cũng giống như những đóng góp tại lớp và kết quả của các bài tập về của họ vậy. Sinh viên đại học ở tất cả các nơi đều thực sự tận hưởng niềm vui của thư tín điện tử, cả trong lãnh vực giáo dục cũng như là phương tiện liên lạc với gia đình và bạn bè một cách hết sức kinh tế. Ngày càng có nhiều bậc phụ huynh của sinh viên đại học tham gia vào việc sử dụng thư điện tử đều đặn bởi vì đó là cách tốt nhất để liên lạc với con em họ. Thậm chí vài trường tiểu học cho phép các học sinh lớn tuổi hơn có thể ghi địa chỉ trên mạng Iternet. Ÿ Lakeside, trường học cũ của tôi, mạng của trường giờ đây được nối vào mạng Internet, giúp học sinh có thể truy nhập nguồn thông tin trực tuyến và trao đổi thư tín quốc gia và quốc tế. Gần như tất cả sinh viên của Lakeside đều có địa chỉ thư tín điện tử, và trong một giai đoạn điển hình 12 tuần họ đã nhận toàn bộ 259.587 thư điện tử – trung bình khoảng 30 thư trên một sinh viên mỗi tuần. Khoảng 49.000 thư điện tử là từ mạng Internet trong giai đoạn 12 tuần, và các sinh viên đã gửi khoảng 7200 thư điện tử. Vài thư điện tử liên hệ với các công trình nghiên cứu và các hoạt động của trường học bao gồm về các vấn đề thông tin trên mạng Internet của Lakeside. Lakeside không xem đây như là một sự lạm dụng về hệ thống thư tín điện tử, nhưng như là một cách thức khác để học hỏi.
Nhiều sinh viên các trường trung học, như những sinh viên ở P.S 125 của New York, khám phá sự truy xuất từ khoảng cách xa có khả năng bởi các mạng máy điện toán có thể giúp họ học hỏi từ các sinh viên của các nền văn hoá khác nhau, và tham gia vào các cuộc tranh luận trên khắp thế giới. Nhiều trường học trong các tỉu bang và các đất nước khác nhau, đã liên kết với nhau và việc đó đôi khi còn gọi là vòng tròn học tập. Mục đích của hầu hết các vòng tròn học tập là nhằm giúp sinh viên nghiên cứu một chủ đề đặc biệt, và hợp tác với bạn học gần. Trong năm 1989, khi bức tường Berlin sụp đổ, sinh viên Tây Đức có thể thảo luận sự kiện với sinh viên của các nước khác. Một vòng tròn học tập về nghiên cứu công nghiệp cá voi bao gồm có các sinh viên Alaskanh Inuit thuộc bộ tộc EsKimo.
Một kế hoạch đầy triển vọng cho sinh viên sử dụng các mạng điện toán là GLOBE Project, một khởi đầu được thúc đẩy bởi Phó Tổng Thống Al Gore. Hy vọng rằng nó sẽ được nhiều chánh phủ tài trợ. Chương trình này yêu cầu học sinh các cấp cộng tác quốc tế về việc tập họp thông tin khoa học về trái đất. Trẻ em sẽ tập hợp các thống kê thường xuyên như nhiệt độ và lượng nước mưa, và chuyển tiếp chúng qua mạng Internet và các vệ tinh đến một cơ sở dữ liệu trung tâm National Oceanic và Atmospheric Asministration ở Maryland, ở đó các thông tin sẽ được sử dụng để tạo các hình ảnh phức hợp của hành tinh. Các thành phần cấu thành sẽ được chuyển tiếp trở lại cho sinh viên, cũng như đến các nhà khoa học và công chúng. Không một ai biết dữ liệu sẽ có giá trị khoa học như thế nàpo, nhất là khi những dữ liệu này được chính tuổi trẻ sưu tập, nhưng việc thu thập các sự kiện và xem các hình ảnh phức hợp sẽ là biện pháp tốt để trẻ em từ nhiều quốc gia có dịp cùng nghiên cứu. Khả năng giáo dục của xa lộ cũng được mở rộng đến sinh viên không chính thức của thế giới. Những người muốn học, dù ở bất kỳ nơi nào, đều có thể theo các khoá học tốt nhất được giảng dạy bởi các giáo viên nổi tiếng. Xa lộ sẽ thực hiện việc giáo dục cho người trưởng thành, bao gồm việc huấn luyện nghề nghiệp và các khoá học nâng cao tay nghề. Nhiều bậc phụ huynh, các nhà chuyên nghiệp, cộng đồng hoặc những người lãnh đạo chính trị sẽ có cơ hội để tham gia vào tiến trình giảng dạy, thậm chí chỉ một giờ. Điều đó rất thực tế, ít tốn kém và tôi nghĩ, đó cũng là nguyện vọng của họ muốn có dịp tham gia vào các thảo luận, qua các hội nghị video, từ gia đình hoặc văn phòng của họ.
Việc sinh viên được nối trực tiếp với các nguồn thông tin vô cùng phong phú và được liên lạc với nhau sẽ là điều đáng mừng cho trường học và cho xã hội nói chung. Tôi đã thảo luận vấn đề về nguyên tắc của mạng Internet. Liệu sinh viên có được mang theo máy điện toán xách tay của họ vào trong lớp học được không? Họ có được phép khám phá một cách độc lập trong các thảo luận nhóm không? Nếu thế họ được sử dụng chúng tới mức độ nào? Họ có thể tra cứu một từ mà họ không thể hiểu hay không? Họ có được truy xuất những thông tin mà cha mẹ của họ phản đối vì các lý do đạo đức, xã hội hoặc chính trị không? Được phép làm bài tập về nhà đối với một lớp học không liên quan không? Được phép gửi thư cho nhau trong lớp không? Giáo viên có thể giám sát những cái đang diễn ra trên màn hình hoặc để ghi chép phục vụ cho việc kiểm tra lỗi sau này không?
Bất cứ sự truy nhập nào đến những nguồn thông tin vô tận đó đều mang lại lợi ích hơn là tác hại. Trước đây khi còn đi học tôi yêu thích trường học nhưng niềm say mê nhất của tôi lại là các hoạt động ngoại khóa. Tôi có thể hình dung được những thay đổi mà các nguồn thông tin vô tận của xa lộ mang lại cho nhà trường. Xa lộ thông tin rồi đây sẽ điều chỉnh trọng tâm giáo dục từ các viện tới từng cá nhân.
Mục đích cuối cùng là nhằm thay đổi nhận thức học là để lấy chiếc bằng sang nhận thức học là niềm vui thích trong cả cuộc đời.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.