Parker và Cage lại đứng trong phòng Thí nghiệm Tài liệu một lần nữa. Lần này có thêm vị phó giám đốc.
“Sáu người chết”, ông giám đốc lẩm bẩm. “Lạy Chúa toàn năng. Ngay bên trong trụ sở.”
Tiến sĩ John Evans đã được tìm thấy trong một phòng nhỏ trên tầng bảy, bị bắn hai phát vào mặt. Ông bảo vệ Artie bị thương nặng nhưng sẽ sống sót.
“Hắn là tên quái nào thế?”, vị giám đốc hỏi.
Người đàn ông giả danh Hardy đã để lại vài dấu vân tay rõ nét và chúng đang được kiểm tra trên hệ thống AFIS ngay lúc này. Nếu vân tay của hắn được lưu trữ trong bất kỳ một hồ sơ nào trên khắp cả nước, họ sẽ sớm biết được hắn là ai.
Lukas đẩy cửa vào. Parker lo lắng khi thấy một ít máu trên má cô.
“Cô không sao chứ?”, anh hỏi.
“Của Artie đấy”, cô khẽ lẩm bẩm khi thấy anh đang để ý vết máu. “Không phải của tôi.” Cô nhìn Parker rồi nhìn Cage một lát, vẻ lạnh lẽo trong đôi mắt ấy đã không còn, nhưng anh chẳng biết thứ gì đã thay thế nó nữa. “Làm sao ông biết được?”
Cage liếc về phía Parker. “Cậu ta tìm ra đấy.”
“Nét run tay” Parker trả lời. Anh giơ ra mẩu giấy phát hiện được trong túi mình khi đang tìm tiền trả cho bà trông trẻ. “Tôi để ý thấy chữ viết tay của hắn hơi run. Việc đó xảy ra khi ai đó cố làm giả chữ viết. Tôi nhớ lại chính Hardy là người đã chép lại theo lời tôi đọc nhưng sao hắn phải giả dạng chữ của mình chứ? Chỉ có một nguyên nhân duy nhất, đó là vì chính hắn viết lá thư. Tôi đã kiểm tra chữ i trong từ “hai dặm” và cái chấm ấy chính là giọt lệ quỷ. Thế là xong.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”, phó giám đốc hỏi. “Giám đốc đang muốn biết Ngay lập tức.”
“Tất cả đã được dàn dựng”, Parker nói, bắt đầu đi tới đi lui. Đâu đó trong đầu anh, toàn bộ âm mưu đã nhanh chóng khớp vào chỗ của nó. Anh hỏi Lukas, “Sao Hardy lại được tham gia vụ án?”.
“Tôi biết hắn”, cô nói. “Vài tháng nay, hắn qua lại ở phân cục này. Trưng ra thẻ công vụ và nói hắn cần các thống kê về tội phạm trong Đặc khu cho một bản báo cáo trước Quốc hội. Phòng Nghiên cứu và Thống kê của Sở cảnh sát Đặc khu vẫn làm vậy đôi lần mỗi năm. Tất cả đều là thông tin công khai, không phải các vụ đang điều tra, nên chẳng ai buồn kiểm tra lại. Hôm nay, hắn xuất hiện và nói mình được cử làm người liên lạc trong vụ này”
“Và đó đúng là một trong những phòng ban vô danh tiểu tốt”, Parker chỉ ra. “Để nếu thị trưởng hay cảnh sát trưởng thật sự cử ai đó ở phòng Tội phạm nguy hiểm hay phòng Điều tra tới đây làm liên lạc viên thì sẽ chẳng biết được trên đời này không hề có Len Hardy nào cả.”
Lukas nói, “Vậy là hắn đã lên kế hoạch cho vụ này suốt hai tháng qua”. Cô thở dài ghê tởm.
“Có lẽ là sáu”, Parker lẩm bẩm. “Lên kế hoạch từng chi tiết. Hắn là một tên theo chủ nghĩa hoàn hảo chết tiệt. Giày, móng tay, quần áo của hắn… Đều không tì vết”
Cage hỏi, “Nhưng còn gã trong nhà xác thì sao, kẻ chúng ta tưởng là nghi phạm ấy. Gã là ai?”,
Parker nói, “Một chân chạy lon ton. Kẻ do Hardy, hay gì gì đó, thuê để đưa thư thôi”.
“Nhưng”, Cage nói, “gã đã chết trong một tai nạn”.
“Không, đó không phải là tai nạn”, Lukas nói, cướp lời của Parker.
Anh gật đầu. “Hardy đã giết gã, tông vào gã bằng chiếc xe ăn cắp để trông có vẻ giống tai nạn.”
Lukas nói tiếp, “Để chúng ta nghĩ rằng thủ phạm đã chết và mang tiền trở về phòng Vật chứng. Hắn biết chúng ta sẽ cài thiết bị trong túi. Cả chuyện chúng ta sẽ cố tóm hắn ở chỗ thả tiền nữa”.
Cage nói, lại nhăn nhó vì chiếc xương sườn bị gãy, “Hắn bỏ lại hai chiếc túi phát tín hiệu ở dưới nhà. Chuyển tiền sang túi khác và còn tháo luôn cả giấy bọc”.
“Nhưng chính hắn đã tìm ra thông tin về Digger, đúng không nào?”, vị phó giám đốc hỏi. “Nhờ hắn mà chúng ta mới ngăn được Digger trước khi hắn thực sự gây họa ở công viên Mall.”
“Ồ, tất nhiên là vậy rồi”, Parker đáp lại, ngạc nhiên vì họ vẫn không hiểu.
“Ý anh là sao?”, ông phó hỏi
“Đó là lý do hắn chọn Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam. Nó không xa đây lắm. Hắn biết chúng ta sẽ bị thiếu người và gần như phải bỏ trống tòa nhà này để cử tất cả ra ngoài tìm kiếm Digger.”
“Vậy là hắn chỉ việc nhảy vào phòng Vật chứng và lấy tiền”, Lukas cay đắng nói. “Đúng y như những gì Evans nói. Hắn đã lên kế hoạch rất chi li. Tôi từng bảo ông ấy rằng chúng ta đã cài bọ vào túi nhưng Evans nói hẳn thủ phạm sẽ có kế hoạch phản đòn”.
Cage hỏi Parker, “Còn dấu vân tay trên lá thư?”.
“Hardy không bao giờ chạm vào nó bằng tay không nhưng lại đảm bảo để tên chạy lon ton kia làm vậy, để chúng ta có thể xác nhận cái xác chính là của nghi phạm.”
“Và hắn đã chọn ai đó không hề có hồ sơ tội phạm hay quân ngũ”, Lukas thêm vào, “để chúng ta chẳng thể lần theo tên chạy việc… Lạy Chúa, hắn đã nghĩ đến mọi thứ”.
Một chiếc máy tính kêu báo hiệu. Cage vươn người tới và đọc “Báo cáo của AFIS và hồ sơ của VICAP lẫn sở cảnh sát Connecticut. Đây rồi. Ông trượt xuống. Một bức ảnh hiện lên màn hình. Chính là Hardy. “Tên thật của hắn là Edward Fielding, địa chỉ cuối cùng ghi lại được là Blakesly, Connecticut, ngoại ô Hartford. Ồ, bạn của chúng ta không phải người tốt lành gì. Bốn vụ bắt giữ, một lần bị kết án. Cả trại giáo dưỡng nữa nhưng các hồ sơ này đều đã bị đóng lại. Liên tục được trị liệu vì các hành vi chống đối xã hội. Từng là phụ tá và hộ lý ở Bệnh viện tiểu bang Hartford dành cho các tội phạm tâm thần. Hắn bỏ đi sau khi một y tá tố cáo hắn quấy rối tình dục bị đâm đến chết.
“Ban quản lý bệnh viện”, Cage đọc tiếp trên màn hình, “nghĩ Fielding đã dụ dỗ một bệnh nhân tên là David Hughes giết cô gái. Hughes nhập viện từ hai năm trước. Vào ngày Giáng sinh. Anh ta bị tổn thương não nghiêm trọng sau một vết thương do súng gây ra và rất dễ bị sai khiến. Có lẽ chính Fielding đã giúp Hughes trốn thoát. Ban giám đốc bệnh viện và cảnh sát định điều tra Fielding nhưng hắn đã biến mất ngay sau đó. Chuyện xảy ra vào tháng Mười năm ngoái”.
“Hughes chính là Digger”, Parker khẽ tuyên bố.
“Anh nghĩ vậy à?”
“Có khả năng” Anh nói tiếp, “Vụ xả súng ở tòa báo Hartford, chính vụ án đã khiến Czisman bắt đầu lần theo dấu Fielding, xảy ra vào tháng Mười một”. Nhớ lại tờ báo kẹp trong cuốn sách của Czisman. “Đó là vụ đầu tiên của chúng.”
Biên niên sử Đau thương.
“Nhưng sao lại giết nhiều người đến thế?”, phó giám đốc hỏi. “Không thể nào chỉ vì tiền. Chắc hắn cũng có xu hướng khủng bố.”
“Không”, Parker nói chắc nịch. “Không phải chuyện khủng bố đâu. Nhưng ông nói đúng hoàn toàn. Nó chẳng liên quan gì đến tiền. Tôi đã nhận ra hắn”.
“Anh biết Fielding à?”
“Không, ý tôi là tôi nhận ra loại đó. Hắn giống một kẻ làm giả tài liệu.”
“Làm giả à?”, Lukas hỏi.
“Những bậc thầy làm đồ giả tự coi mình là nghệ sĩ, không phải kẻ trộm. Chúng chẳng thực sự quan tâm đến tiền. Vấn đề là làm sao tạo ra thứ đồ giả che mắt được tất cả mọi người. Đó là mục tiêu duy nhất của chúng: Một tài liệu giả hoàn hảo.”
Lukas gật đầu. “Vậy là những vụ án khác ở Hartford, Boston và Philly chỉ là những bài tập. Ăn trộm một cái đồng hồ, vài ngàn đô la chỉ là để hoàn thiện kỹ năng của hắn.”
“Chính xác. Và vụ này chính là đỉnh điểm. Lần này hắn đã ôm một món tiền lớn và sẽ nghỉ hưu”.
“Sao anh nghĩ vậy?”, Cage hỏi.
Nhưng Lukas cũng biết câu trả lời. “Bởi vì hắn đã hy sinh cậu bé chạy việc để có thể trốn thoát. Và cũng đã cho chúng ta biết Digger ở đâu”.
Nhớ lại những phát đạn của Hardy chỗ xe buýt, Parker nói thêm, “Có thể chính hắn là người đã bắn Digger ở công viên Mall. Nếu Digger bị bắt sống, anh ta có thể sẽ nói ra”.
“Hardy đang cười vào mặt chúng ta”, Cagre nói và đấm tay xuống bàn. “Suốt thời gian qua, hắn đã ngồi ngay bên cạnh chúng ta mà cười.”
“Nhưng giờ hắn đang ở đâu?”, vị phó giám đốc hỏi.
Parker nói, “Ồ, hắn đã lên kế hoạch trốn thoát đâu vào đấy. Hắn đoán trước đường đi nước bước của chúng ta từ đầu đến cuối. Giờ hắn sẽ không sẩy chân đâu”.
“Chúng ta có thể lấy ảnh của hắn từ camera an ninh trên sảnh”, Cage nói. “Đưa nó cho tất cả các đài truyền hình”
“Vào lúc hai giờ sáng sao?”, Parker nói. “Ai là người sẽ xem bản tin ấy? Và chúng ta đã lỡ mất hạn chót của các tờ báo rồi. Dù thế nào, hắn cũng sẽ ra khỏi đất nước này ngay khi mặt trời mọc và nằm trên bàn phẫu thuật thẩm mỹ trong vòng hai ngày tới”.
“Các sân bay đóng cửa rồi”, vị phó giám đốc chỉ ra. “Hắn không thể bắt chuyến bay nào cho đến tận sáng mai.”
“Hắn sẽ lái xe đến Louisville hay Atlanta hoặc New York”, Lukas nói. “Nhưng chúng ta sẽ gửi bản tin đến các phân cục ngay. Cử đặc vụ đến tất cả các sân bay, ga Amtrak và bến xe buýt. Cả các công ty cho thuê xe nữa. Kiểm tra bên Quản lý xe cơ giới và các văn phòng khác để xác định vị trí của hắn. Gọi cho Sở cảnh sát Connecticut nữa” Cô dừng lại và nhìn Parker. Anh có thể thấy cô đang nghĩ y hệt như mình.
“Hắn đã nghĩ tới hết rồi”, Parker nói. “Tôi không nói là chúng ta sẽ chẳng làm như vậy. Mà là hắn đã đoán trước hết rồi.”
“Tôi biết”, cô đáp và dường như càng giận hơn vì sự bất lực của minh.
Phó giám đốc nói, “Tôi sẽ cho đăng lệnh truy nã cấp cao nhất”.
Nhưng Parker không nghe. Anh nhìn chằm chằm vào lá thư tống tiền.
“Thứ đồ giả hoàn hảo”, anh thì thầm với mình.
“Cái gì?” Lukas hỏi.
Anh xem đồng hồ. “Tôi phải đi gặp một người.”
“Tôi sẽ đi với anh”, Lukas nói.
Parker do dự. “Tốt nhất là đừng.”
“Không, tôi sẽ đi.”
“Tôi chẳng cần ai giúp đâu.”
“Tôi đi với anh”, cô kiên quyết nói.
Parker nhìn vào đôi mắt xanh dương của cô: lạnh lẽo hay không lạnh lẽo?
Anh không thể biết được.
Anh đành nói, “Được rồi”.
o O o
Họ lái xe qua các con phố ở Đặc khu, hiện gần như chẳng còn một bóng người. Parker cầm lái.
Một chiếc xe dừng ở ngã tư, phía bên tay phải họ. Khi đánh mắt sang, Parker bắt gặp gương mặt nghiêng nghiêng của Lukas, khuôn miệng mỏng, cánh mũi tròn cùng cần cổ của cô.
Anh quay lại nhìn đường và dấn sâu hơn vào khu vực Alexandria, Virginia.
Có lẽ cô ấy ghen tị với anh.
Anh muốn được nắm tay cô, ngồi cùng cô trong một quán bar hay trên ghế sô pha nhà anh biết bao. Hay nằm trên giường cùng cô.
Và nói chuyện. Về mọi thứ.
Có lẽ về bí mật của Margaret Lukas, bất kể nó là gì.
Hay làm việc mà anh và bọn Who đôi lúc vẫn làm: nói chuyện chẳng ra đầu ra đũa. Nói chuyện kiểu ngớ ngẩn, bọn anh vẫn gọi như thế, về phim hoạt hình hay những người hàng xóm, về cửa hàng Home Depot giảm giá hay các công thức nấu ăn, về những kỳ nghỉ đã qua và các kỳ nghỉ sắp tới.
Hoặc anh và Lukas có thể chia sẻ những câu chuyện chiến tranh mà giới cảnh sát, dù là liên bang, tiểu bang hay cả những người dẫn trẻ qua đường, vẫn thích nhắc lại.
Bí ẩn kia có thể đợi.
Cô còn nhiều năm tới để kể cho anh nghe, anh nghĩ.
Nhiều năm…
Đột nhiên, Parker nhận ra mình đang cân nhắc một mối quan hệ có thể kéo dài nhiều hơn một đêm, một tuần hay một tháng với Lukas. Anh có cơ sở gì mà dựng nên giấc mộng này? Chẳng có gì chắc chắn. Đó chỉ là một ý nghĩ kỳ quặc.
Bất kể mối quan hệ giữa hai người là gì: một chiến binh như cô và kẻ nội trợ như anh, đó đơn thuần vẫn chỉ là ảo tưởng.
Hay là không phải? Anh nhớ tới những người Who trong cuốn sách Tiến sĩ Seuss, chủng tộc sinh sống trên một hạt bụi nhỏ bé tới nỗi không ai trông thấy được bọn họ. Nhưng họ vẫn tồn tại ở đó, với tất cả những nụ cười ngây dại, máy móc kỳ cục và kiến trúc quái lạ. Vậy tại sao người ta lại không thể tìm thấy tình yêu trong những thứ tưởng chừng như vô hình?
Anh nhìn cô thêm một lần nữa và cô cũng nhìn anh. Anh thấy tay mình rụt rè vươn ra và chạm vào đầu gối cô. Tay cô nắm lấy tay anh, chẳng có chút rụt rè nào cả.
Rồi họ tới được địa chỉ anh cần tìm. Anh bỏ tay ra. Dừng xe. Không ai nói lời nào. Cũng chẳng có thêm lấy một cái nhìn.
Lukas ra khỏi xe. Parker cũng vậy. Anh đi sang phía bên ghế của cô và họ đứng đối mặt với nhau. Anh muốn ôm cô biết bao. Vòng tay quanh người cô, trượt tay vào hõm lưng để kéo cô lại gần mình. Cô liếc nhìn anh rồi từ từ cởi khuy áo khoác. Anh thoáng trông thấy chiếc áo lụa màu trắng bên trong và bước tới để hôn cô.
Cô cúi xuống, mở bao súng và cởi thêm một khuy áo khoác. Rồi nheo mắt nhìn qua người anh để kiểm tra khu dân cư xung quanh.
Ồ. Parker bước lùi lại.
“Đi đâu đây?”, cô thản nhiên hỏi.
Parker do dự nhìn vào đôi mắt lạnh băng của cô. Rồi anh gật đầu về phía con dường quanh co dẫn vào một ngõ nhỏ. “Lối này.”
o O o
Người đàn ông ấy chỉ cao khoảng mét rưỡi.
Ông ta có bộ ria cứng và mái tóc rậm rạp. Ông ta đang mặc một chiếc áo choàng tắm nhàu nhĩ và rõ ràng là Parker đã đánh thức ông ta khi anh đấm thình thình vào cánh cửa ọp ẹp.
Ông ta nhìn chằm chằm Parker và Lukas trong một phút rồi chẳng nói chẳng rằng rút lui vào bên trong căn hộ, cứ như bị một sợi dây thun kéo tụt vào.
Lukas đi theo Parker vào trong. Cô nhìn quanh rồi đậy nắp bao súng. Phòng ốc ở đây rất lộn xộn, chất đầy sách vở, đồ đạc và giấy tờ. Trên tường treo hàng trăm lá thư có chữ ký cùng những mẩu văn tự lịch sử. Hơn chục chiếc giá chật cứng sách lẫn hồ sơ. Một chiếc bàn vẽ chất đầy lọ mực và hàng tá bút các loại. Nó chiếm gần hết diện tích căn phòng khách bé tí.
“Ông thế nào, Jeremy?”
Người đàn ông dụi mắt. Liếc nhìn chiếc đồng hồ báo thức vặn dây cót kiểu cổ và nói, “Trời ơi, Parker. Muộn rồi mà. Này, xem tôi có gì ở đây. Cậu thích chứ?”.
Parker đỡ lấy tập hồ sơ Jeremy đang giơ lên.
Mười ngón tay của ông ta vàng xỉn đi vì những loại thuốc lá yêu thích. Tuy nhiên, Parker nhớ là ông chỉ hút thuốc bên ngoài nhà vì không muốn mạo hiếm làm hỏng tác phẩm của mình. Tương tự như tất cả những thiên tài khác, mọi thói tật của Jeremy đều phải đầu hàng tài năng của ông.
Patker cầm lấy tập hồ sơ và giơ nó trước ánh sáng. Anh cầm một chiếc kính lúp lên và nghiên cứu tài liệu bên trong. Một lát sau anh nói, “Độ rộng của các nét bút… tốt lắm”.
“Còn hơn cả tốt ấy chứ, Parker”
“Được rồi, tôi phải đồng ý với ông. Các điểm khởi đầu và nhấc bút rất xuất sắc. Lề trông có vẻ ổn và khổ giấy cũng khớp nữa. Giấy này cũng là từ thời đại ấy à?”
“Đương nhiên rồi.”
“Nhưng ông còn phải làm giả tuổi mực bằng oxy già nữa. Nó có thể bị phát hiện.”
“Có thể. Hoặc không.” Jeremy cười. “Biết đâu lần này, tôi có chiêu trò mới. Có phải cậu đến để bắt tôi không đấy, Parker?”
“Tôi không còn làm cảnh sát nữa, Jeremy.”
“Không, nhưng cô này thì có, đúng không?”
“Đúng.”
Jeremy lấy lại tờ giấy. “Tôi chưa bán nó. Thậm chí còn chưa rao bán”. Quay sang Lukas, ông nói, “Nó chỉ là một thú vui thôi. Người ta được quyền có thú vui mà, phải không?”.
“Cái gì vậy?”, Lukas hỏi.
Parker nói, “Đó là một lá thư do Robert E. Lee gửi cho một trong những vị tướng của ông ta”. Anh nói thêm, “Đúng ra tôi phải nói, nó có nội dung lá thư của Robert E. Lee”.
“Ông ta làm giả nó à?”, Lukas hỏi, liếc nhìn Jeremy.
“Đúng vậy.”
“Tôi không thừa nhận gì đâu nhé. Tôi sẽ nhận điều Năm.”
Parker nói tiếp, “Nó có thể có giá tới mười lăm ngàn đô”.
“Mười bảy chứ… Nếu ai đó định bán nó. Mà tôi thì không định đâu. Parker đã bắt được tôi một lần rồi”, Jeremy nói với Lukas, dùng ngón giữa và ngón cái vân vê bộ ria. “Cậu ta là người duy nhất trên thế giới tóm được tôi. Cô biết cậu ta làm thế nào không?”
“Thế nào?”, cô hỏi. Parker không chú ý tới bản giả mạo tuyệt vời kia nữa mà tập trung vào Margaret Lukas, trông cô vừa buồn cười lại vừa tò mò vì ông già. Cơn giận của cô đã bay biến trong chốc lát và Parker rất mừng khi thấy thế.
“Hoa văn mờ trên đầu đề in sẵn”, Jeremy vừa nói vừa nhạo báng. “Tôi bị tóm chỉ vì một hình hoa văn mờ.”
“Vài năm trước”, Parker nói, “Jeremy… xem nào, vô tình sở hữu một vài lá thư của John Kennedy”.
“Cho Marilyn Monroe à?”, Lukas hỏi.
Mặt Jeremy nhăn nhó. “Cái đó à? Ôi, toàn là đồ dở hơi. Nghiệp dư hết. Ai mà thèm quan tâm đến chúng? Không, cái này là giữa Kennedy và Khrushchev cơ. Theo những lá thư ấy thì Kertnedy sẽ sẵn sàng nhượng bộ ở Cuba. Nếu điều đó là thật, nó sẽ trở thành một nút thắt lịch sử thú vị. Tổng thống và Khrushchev sẽ chia đôi hòn đảo. Một nửa cho người Nga, nửa kia cho người Mỹ.”
“Có thật thế không?”, Lukas hỏi.
Jeremy im lặng và nhìn đăm đăm vào lá thư của Robert E. Lee với nụ cười phảng phất trên gương mặt.
Parker nói, “Jeremy sáng tạo ra các câu chuyện”. Vô tình đó lại là cách nói giảm của anh với bọn Who khi mô tả việc nói dối. “Ông ấy làm giả các lá thư. Định bán chúng lấy năm ngàn đô la.”
“Bốn ngàn tám chứ”, Jeremy chữa lại.
“Thế thôi à?”, Lukas ngạc nhiên.
“Jeremy làm trong ngành này không phải vì tiền”, Parker nói.
“Và anh đã bắt được ông ta?”
“Kỹ thuật của tôi chẳng hề có sai sót, Parker, cậu phải thừa nhận như vậy”.
“Ồ đúng vậy”, Parker xác nhận. “Về mặt thủ công thì nó hoàn hảo. Từ mực in, chữ viết tay, điểm đầu và điểm nhấc bút, cách viết, lề… Không may là Văn phòng in ấn của Chính phủ đã thay đổi đầu đề in sẵn cho tổng thống vào tháng Tám năm 1963. Jeremy vớ được đám giấy này và dùng chúng để làm thư giả. Quá tiếc là những lá thư lại để tháng Năm năm 1963.”
“Thông tin tình báo tồi thôi”, Jeremy lẩm bẩm. “Thế nào, Parker, mang gông xích đến đấy à? Lần này tôi đã gây ra chuyện gì?”
“Ồ, tôi nghĩ ông biết mình đã làm gì, Jeremy. Tôi nghĩ ông biết đấy.”
Parker kéo ghế cho Lukas và một cái khác cho chính mình. Cả hai ngồi xuống.
“Ôi trời”, Jeremy nói.
“Ôi trời”, Parker lặp lại.