Giọt Lệ Quỷ

CHƯƠNG 5



“Vũ khí”, Margaret Lukas bất ngờ lên tiếng. “Tôi muốn có một bản về vũ khí của tên xạ thủ.”
“Cô muốn có cái gì cơ?”, Cage hỏi.
“Bản chi tiết ấy.” Cô đã quen với các nhân viên thường ngày của mình, những người hiểu rõ cách nói tắt và diễn đạt riêng của cô.
“Sắp có đấy”, c. p. Ardell nói với lại. “Đấy là họ vừa bảo thế.”
Họ đang đứng trong một căn phòng không hề có cửa sổ của Trung tâm Điều hành và Thông tin Tác chiến mới của Cục điều tra, trên tầng năm tòa nhà trụ sở ở phố Ninth. Toàn bộ khu vực này gần rộng bằng một sân bóng đá và mới được mở rộng thêm gần đây, để đủ sức tiếp nhận năm vụ khẩn cấp cùng một lúc.
Cage đi ngang qua Lukas và thì thầm, “Cô đang làm tốt đấy”.
Lukas không trả lời. Cô bắt gặp hình phản chiếu của mình trên màn hình 12,7 nhân 38,1 centimet đang chiếu bức thư tống tiền trên tường. Và nghĩ: Có phải không? Có phải mình đang làm tốt không? Cô hy vọng là vậy. Chúa ơi, cô hy vọng là vậy. Trong Cục điều tra vẫn lan truyền một truyền thuyết rằng mỗi đặc vụ đều có một cơ hội duy nhất để ghi dấu son trong sự nghiệp của mình. Một cơ hội để được chú ý đến, được thăng cấp vượt bậc.
Chà, chắc như đinh đóng cột rằng đây chính là cơ hội của cô. Chuyện một trợ lý trưởng phân cục chỉ huy một vụ như thế này là điều chưa từng xảy ra. Cho dù có là… Cage đã nói gì nhỉ? Cho dù có là một tháng toàn những ngày xui xẻo cũng không.
Nhìn xuyên qua hình ảnh phản chiếu của mình vào bức thư đang hiện trên nền trắng với những con chữ như nhền nhện màu đen nơi màn hình lớn, cô tự hỏi mình đã không nghĩ đến cái gì? Tâm trí cô duyệt qua một lượt những phương án mình đã nghĩ tới. Cô đã gửi dấu vân tay của tên nghi phạm tới mọi cơ sở dữ liệu chính về dấu vân tay trên toàn thế giới. Cô đã cử hàng chục cảnh sát Đặc khu đi điều tra về chiếc xe tải đã tông trúng gã, phòng khi tên nghi phạm thều thào được vài lời trăn trối với người lái xe (và đã nhờ cậy người tạo ra kỳ tích Cage xin được lệnh miễn truy tố tội đâm người rồi bỏ chạy để thuyết phục tay tài xế mở miệng). Cô cũng đã phái hai chục đặc vụ đi truy tìm nhân chứng. Hàng trăm biển số xe đã bị kiểm tra. Các nguồn cung cấp tin bí mật trên khắp cả nước đều đang bị moi móc. Danh bạ cuộc gọi đi và đến Tòa thị chính suốt hai tuần qua cũng bị truy xét. Cô đang…
Có một cuộc gọi đến. Len Hardy định nhấc máy nhưng Cage đã ra tay trước. Hardy cởi chiếc áo choàng, để lộ một chiếc sơ mi vải polyester trắng bóc với những sọc màu nâu cùng cà vạt đồng màu và chiếc quần là ly cứng. Bất chấp việc vừa nằm bò ra thực địa ở Nam Virginia suốt một giờ đồng hồ, mái tóc kiểu sĩ quan thủy quân lục chiến của anh ta vẫn giữ nếp hoàn hảo và trên người anh ta, chẳng có lấy một hạt bụi. Trông anh ta không giống một thanh tra cảnh sát mà giống thành viên của phái Nhân chứng Jehovah gọn gàng. Mang bên mình khẩu Glock 10 li mới cứng, Lukas cảm thấy khẩu Smith & Wesson 38 li trên hông Hardy có vẻ kỳ quặc quá.
“Anh ổn cả chứ, thanh tra?”, Lukas hỏi anh ta vì đã trông thấy vẻ bất mãn khi Cage hớt tay trên cú điện thoại.
“Mạnh khỏe như mưa rào “, anh ta lẩm bẩm, không quá nhạo báng.
(Nguyên văn: Right as rain – tốt lành cả)
Cô khẽ cười trước cách nói đặc thù của vùng trung tây ấy. Cô hỏi có phải anh ta quê ở đó không.
“Tôi lớn lên ở ngoại ô Chicago. Downstate. Họ gọi nó như thế cho dù quê tôi thực ra ở phía tây bắc thành phố.”
Anh ta ngồi xuống. Nụ cười của Lukas nhạt đi. Mạnh khỏe như mưa rào…
Cage đặt máy xuống. “Đã có bản báo cáo cô cần. Đó là dòng súng trường. Một khẩu Uzi. Sản xuất khoảng một năm trước, nòng rất rộng. Nó đã được cải biến nhiều. Có vật liệu cách điện trong bộ phận giảm thanh. Có vẻ được lắp bằng tay. Không phải loại bán phổ biến. Tên xạ thủ biết việc của mình làm.”
“Tốt!”, Lukas nói. Cô gọi c. p. Ardell ở bên kia căn phòng, “Đã có ai kiểm tra các trang web cung cấp chỉ dẫn lắp ống giảm thanh tự làm tại nhà và chuyển một khẩu Uzi thành súng tự động chưa? Tôi muốn có danh sách email của tất cả các lần truy cập gần đây nhất”.
“Họ có buộc phải cung cấp thông tin đó không?”, c. p. hỏi.
“Không có lệnh thì không được đâu. Nhưng cứ làm cho họ tưởng ta có. Nói thật thuyết phục vào.”
Viên đặc vụ bấm số và nói chuyện trong mấy phút. Rồi anh báo cáo, “Com-Tech đang lo liệu rồi”. Phân cục máy tính và truyền thông của Cục điều tra, đặt trụ sở ở Maryland.
Lukas quay sang Cage và nói, “Này, tôi có một ý tưởng”.
Cage nhướng một bên lông mày.
Cô nói tiếp, “Chúng ta có thể lôi anh chàng từ bên phòng Nhân sự về không?”.
“Ai kia?”, Cage hỏi.
Lukas tiếp tục, “Anh chàng chuyên phân tích chữ viết tay của ứng viên để lập báo cáo nhân cách của họ ấy”.
“Bên Đặc khu cũng làm vậy đấy”, Len Hardy chen vào. “Đó là cách để loại bớt bọn điên.”
“Ý cô là gì?”, c. p. hỏi Lukas. “Chúng ta gửi nó đến Quantico rồi còn gì.”
Viên đặc vụ to con đang nói đến bản sao bức thư tống tiền đã được gửi tới bộ phận Phân tích Hành vi của Cục điều tra để lập báo cáo tâm lý ngôn ngữ. Hiện nay, Tobe Geller đang ngồi trước một cái máy tính gần đó để chờ kết quả.
“Không, không, cái đó là để tìm mối liên hệ trong phương thức hành động và nhận dạng trình độ học vấn cũng như trí tuệ của hắn”, Lukas nói. “Tôi đang nói đến chuyện nhận dạng nhân cách của hắn cơ. Đoán tướng chữ ấy.”
“Khỏi cần”, một giọng nói vang lên từ phía sau họ.
Lukas quay lại và trông thấy một người đàn ông mặc quần bò cùng áo khoác bo gấu. Anh bước vào trong phòng thí nghiệm. Trên cổ là chiếc thẻ cho khách và trên tay là cái cặp táp to đùng. Phải mất một lúc cô mới nhận ra anh ta.
Cage định nói gì đó nhưng rồi ngăn mình lại. Có lẽ ông sợ sẽ làm anh ta chạy mất.
“Artie để tôi lên”, Parker Kincaid nói. Anh nhắc đến tên người bảo vệ ở lối ra vào của nhân viên Cục. “Ông ấy vẫn nhớ tôi. Sau ngần ấy năm.”
Đây là một hình ảnh cực kỳ khác của Kincaid, Lukas nghĩ. Ở nhà trông anh ta có vẻ lôi thôi, lếch thếch. Hình ảnh chiếc áo len khủng khiếp và quần rộng thùng thình càng chẳng giúp ích gì cho anh. Nhưng bây giờ, chiếc áo len cổ tròn anh đang mặc bên ngoài sơ mi đen có vẻ giống anh hơn.
“Anh Kincaid”, Lukas gật đầu chào hỏi. “Không cần làm gì cơ?”
“Đoán tướng chữ. Cô không thể phân tích nhân cách của một người từ chữ viết được.”
Cô do dự trước vẻ quả quyết của anh. “Tôi tưởng có rất nhiều người làm việc đó.”
“Người ta cũng đọc bài tarot và nói chuyện với người thân đã chết đấy thôi. Toàn chuyện hoang đường.”
“Tôi thấy bảo việc này có ích lắm mà”, cô khăng khăng.
“Lãng phí thời gian”, anh nói thẳng. “Chúng ta sẽ tập trung vào những thứ khác.”
“À, được thôi.” Lukas thề rằng mình sẽ cố gắng không quá ghét anh chàng này.
Cage nói, “Này Parker, anh biết Tobe Geller chứ? Cậu ta sẽ là người trực máy lẫn liên lạc viên tối nay. Bọn tôi đã tóm được cậu chàng trên đường đi trượt tuyết ở Vermont đấy”.
“Ở New Hampshire chứ”, anh chàng đặc vụ gọn gàng chỉnh lại và dễ dàng mỉm cười với Kincaid. “Để được trả tiền làm thêm ngày lễ, tôi sẵn sàng làm mọi việc. Kể cả hủy cuộc hẹn. Chào anh Parker. Tôi có nghe nói về anh rồi.”
Hai người bắt tay.
Cage hất cằm sang một chiếc bàn khác. “Còn đây là c. p. Ardell. Cậu ta ở phân cục D.c. Chẳng ai biết chữ c. p. thật ra là gì nhưng cậu ta cứ dùng cái tên ấy. Có khi chính cậu ta cũng chẳng biết đâu.”
“Hồi xưa thì có”, c. p. nói ngắn gọn.
“Đây là Len Hardy. Cậu ta là người liên lạc của Sở cảnh sát Đặc khu.”
“Rất vui được gặp ngài”, viên thanh tra nói.
Kincaid bắt tay anh ta. “Không cần ‘ngài’ gì cả.”
“Chắc chắn rồi.”
“Anh bên đội pháp y à? Hay điều tra?”, Kincaid hỏi anh ta.
Hardy có vẻ xấu hổ khi trả lời, “Thực ra, tôi ở bên Nghiên cứu và Thống kê. Tất cả những người khác đều đã đi thực địa nên tôi được chọn làm liên lạc viên”.
“Bức thư đâu?”, anh hỏi Lukas. “Ý tôi là bản gốc ấy?”
“Trong phòng Nhận dạng. Tôi muốn xem liệu chúng ta có tìm được thêm dấu vân tay nào không?”
Kincaid cau mày nhưng trước khi anh kịp thốt ra, Lukas đã nói thêm, “Tôi đã bảo họ chỉ được dùng laze. Không được dùng nynhydrin “.
Cặp lông mày của anh nhướng lên. “Tốt lắm… Cô từng làm việc trong đội pháp y à?”
Cô có cảm giác rằng cho dù mình đã đúng khi không dùng hóa chất, anh ta vẫn đang kiểm tra cô. “Tôi nhớ được điều đó từ hồi ở Học viện”, cô lạnh lùng bảo rồi nhấc điện thoại lên.
“Cái đó là gì?”, Hardy hỏi. “Nin… gì?”
Trong lúc bấm số, Lukas trả lời, “Nynhydrin là thứ người ta thường dùng để định hình dấu vân tay trên giấy”.
“Nhưng”, Kincaid kết thúc nốt ý nghĩ của cô, “nó sẽ làm hỏng mọi vết hằn của chữ viết. Không bao giờ được dùng nó trên các văn bản nghi vấn”.
Lukas tiếp tục cuộc gọi của mình đến phòng Nhận dạng. Kỹ thuật viên nói với cô rằng họ không tìm được dấu vân nào khác trên văn bản và một cậu văn thư sẽ mang nó lên Trung tâm xử lý khủng hoảng ngay. Cô thông báo lại tin đó với cả đội.
Kincaid gật đầu.
“Sao anh lại đổi ý?”, Cage hỏi anh. “Về chuyện đến đây ấy?”
Anh im lặng một lát. “Ông có nhớ đã nhắc đến trẻ con không? Những đứa trẻ bị thương ở chỗ ga tàu điện ngầm ấy? Một trong số chúng đã chết.”
Lukas nói tiếp, cũng bằng giọng u sầu như của anh, “LaVelle Williams. Tôi có nghe”.
Anh quay sang Cage. “Tôi ở đây với một điều kiện. Chỉ duy nhất đội đặc nhiệm trực tiếp làm vụ này mới được biết tôi có liên quan. Nếu nguồn tin rò rỉ và tên tôi lọt ra ngoài, bất kể vụ điều tra đang tiến hành đến đâu, tôi vẫn sẽ bỏ ngang. Thậm chí tôi sẽ nói không biết các vị là ai.”
Lukas nói, “Nếu anh muốn vậy, nhưng anh Kincaid…”
“Parker thôi.”
Cage nói, “Sẽ như ý anh. Chúng tôi có thể hỏi tại sao không?”.
“Các con tôi.”
“Nếu anh lo ngại về an toàn của chúng, tôi có thể cử một chiếc xe túc trực trước nhà anh. Bất kể anh cần bao nhiêu đặc vụ..
‘Tôi lo về vợ cũ của tôi hơn.”
Lukas ném cho anh cái nhìn khó hiểu.
Kincaid nói, “Tôi được quyền nuôi con từ khi vợ chồng tôi ly dị bốn năm trước. Và một trong những lý do tôi được chọn là bởi tôi làm việc tại nhà và không gây ra bẩt kỳ nguy hiểm cho chúng hay cho bản thân tôi. Chính vì vậy, tôi chỉ làm việc với các văn bản thương mại. Giờ có vẻ như vợ cũ của tôi sẽ tái kiện đòi quyền nuôi con. Không thể để cô ta biết chuyện này được”.
“Tuyệt đối không có vấn đề gì, Parker”, Cage trấn an anh. “Anh sẽ đội lốt một người khác. Anh muốn là ai?”
“Tôi không quan tâm ông gọi tôi là John Doe hay Thomas Jeffersson, miễn tôi không phải là tôi. Sáng mai, Joan sẽ đến nhà tôi lúc mười giờ để mang quà cho lũ trẻ. Nếu cô ta biết tôi bỏ đi giữa đêm Giao thừa để điều tra một vụ án… thì sẽ tệ lắm đấy”.
“Anh nói với bọn trẻ thế nào?”, Lukas hỏi.
“Tôi bảo một người bạn của tôi bị ốm và tôi phải đến bệnh viện thăm nom.” Anh chỉ một ngón tay vào ngực Cage. “Tôi ghét phải nói dối bọn trẻ. Ghét lắm!”
Nhớ lại đứa con trai xinh xắn của anh, Lukas nói, “chúng tôi sẽ cố gắng hết sức”.
“Không phải là cố hay không”, Kincaid nói với cô, dễ dàng giam được ánh mắt cô. Đó là điều rất ít người đàn ông có thể làm được. “Mà là giữ bí mật sự tham gia của tôi hoặc tôi sẽ biến mất.”
“Vậy thì chúng tôi sẽ làm”, cô nói đơn giản và nhìn khắp phòng, cả c. p., Geller lẫn Hardy đều gật đầu.
“Được rồi”, Kincaid cởi áo khoác và vắt nó lên một chiếc ghế. “Giờ, kế hoạch thế nào?”
Lukas nói qua về tiến trình điều tra. Kincaid gật đầu mà không nói gì cả. Cô cố gắng đọc gương mặt anh, xem anh có chấp thuận những điều cô đã làm không và tự hỏi liệu mình có quan tâm đến câu trả lời. Rồi cô nói, “Ngài thị trưởng sẽ sớm lên truyền hình để cầu xin tên xạ thủ. Ông ta sẽ gợi ý chuyện chúng tôi trả tiền cho hắn. Không phải nói thẳng ra nhưng sẽ nói khéo. Chúng tôi hy vọng hắn sẽ liên lạc lại. Chúng tôi đã bỏ tiền vào những chiếc túi được đánh dấu và sẽ thả chúng ở bất kỳ nơi nào hắn muốn”.
Cage nói thêm, “Rồi Tobe sẽ lần theo hắn tới chỗ trú ngụ. Đội tác chiến của Jerry Baker đang sẵn sàng chờ lệnh. Chúng tôi sẽ ập vào ngay khi hắn về nhà. Hoặc hạ hắn trên đường tới đó”.
“Liệu có bao nhiêu khả năng hắn sẽ tới lấy tiền?”
“Chúng tôi không biết”, Lukas nói. “Chỉ cần liếc qua bức thư anh sẽ thấy tên nghi phạm đã chết khá là chậm hiểu. Nếu tên Digger này cũng đần độn như thế thì có thể hắn sẽ không đến lấy tiền” Cô đang nghĩ về bài học tâm lý tội phạm ở Học viện. Những tên tội phạm kém thông minh bao giờ cũng hoài nghi hơn bọn thông minh. Chúng thậm chí còn không biết ứng biến thế nào khi tình thế đã thay đổi. Lukas nói thêm, “Điều đó có nghĩa là hắn sẽ tiếp tục bắn giết như được chỉ dẫn từ trước”.
Cage chêm vào, “Thậm chí chúng tôi còn không biết hắn có nghe bài phát biểu của Kennedy hay không. Nhưng chúng tôi chẳng có lấy một chỉ dẫn chết tiệt nào cả”.
Lukas để ý thấy Kincaid đang nhìn xuống Tập san về các Tội ác nghiêm trọng. Trang nói về vụ đánh bom nhà Gary Moss. Thường thì các bản tin này mô tả rất chi tiết và chúng được dùng để tóm lược các điểm chính của một vụ án cho sĩ quan cấp dưới. Bản tin mô tả chuyện hai đứa con nhỏ của Moss đã thoát cảnh bị thiêu sống trong đường tơ kẽ tóc như thế nào.
Parker Kincaid nhìn chằm chằm vào nó một lúc lâu hơn mong muốn của anh, rõ ràng buồn lòng vì bản báo cáo ảm đạm về nỗ lực tàn sát cả một gia đình.
Hai con của Đối tượng đã thoát khỏi hiện trường với các vết thương không đáng kể.
Cuối cùng, anh gạt nó sang bên. Nhìn quanh trung tâm, ghi nhận hàng loạt những chiếc điện thoại, máy tính, màn hình. Đôi mắt anh kết thúc ở màn hình đang chiếu bức thư tống tiền.
“Chúng ta có thể chọn phòng làm việc ở chỗ khác được không?”
“Đây là Trung tâm xử lý khủng hoảng”, Lukas nói, quan sát anh đọc bức thư. “Ở đây thì làm sao?”
“Chúng ta phí phạm quá nhiều không gian”, Kincaid chỉ ra. “Và chẳng có lấy một thiết bị nào ở đây.”
Lukas cân nhắc chuyện đó. “Anh tính đi đâu?”
‘Trên lầu”, anh lơ đãng trả lời trong lúc vẫn nhìn lá thư phát sáng. “Đi lên gác thôi!”
Parker đi bộ qua phòng Thí nghiệm Tài liệu của đội Khoa học hình sự, nhìn vào những dãy thiết bị mà anh biết quá rõ.
Hai chiếc kính hiển vi soi nổi hiệu Leitz với nguồn sáng sợi cáp quang Volpi Intralux, một máy so sánh quang phổ video kiểu cũ Foster + Freeman VSC4 và một chiếc khác kiểu hiện đại nhất vsc 2000, được trang bị đèn Rolin PoliLight và chạy phần mềm QDOS qua hệ Windows NT. Ngoài ra, đặt chễm chệ ở một góc tiện lợi là chiếc Foster + Freeman ESDA, máy phát hiện tĩnh điện, cùng một sắc phổ siêu mỏng để phân tích mực và các loại dấu vết.
Anh để ý đến những cửa kính mà khách du lịch vẫn đi ngang qua mỗi ngày, từ chín giờ sáng đến bốn giờ chiều, trong chuyến tham quan trụ sở FBI. Hành lang ấy bây giờ thật tối tăm và u ám.
Parker quan sát những thành viên khác trong đội tìm chỗ ngồi ở các bàn làm việc và bàn thí nghiệm. Căn phòng này đồ đạc để rải rác, bốc mùi và không hề thoải mái, đúng như một phòng thí nghiệm thực sự vẫn đang hoạt động. Nhưng anh thích ở đây hơn cái Trung tâm xử lý khủng hoảng bóng loáng dưới kia, bởi anh tin chắc vào một điều đã học từ cha mình, vị sử gia chuyên về cuộc Chiến tranh giải phóng. “Lúc nào con cũng phải chiến đấu trên sân chơi quen thuộc”, vị giáo sư đã dạy con trai như vậy. Anh quyết định không nói cho Lukas câu trả lời ấy; lại thêm một điều nữa do ngài William Kincaid truyền lại cho con trai, “Con không cần phải chia sẻ tất cả mọi điều với đồng minh của mình”.
Anh lại liếc vào văn phòng Stan Lewis. Nhìn thấy những cuốn sách mà chính anh từng sử dụng khi đây còn là văn phòng của mình- Các tài liệu đáng ngờ của nhà xuất bản Harrison, Giới thiệu bộ môn nhận diện chữ viết và Giám định khoa học các tài liệu nghi vấn do Hilton viết, của nhà xuất bản Housely và Farmer. Cùng cuốn kinh Thánh trong nghề này: Các tài liệu nghi vấn của Albert s. Osbom. Anh nhìn vào chiếc tủ thấp đằng sau ghế tựa và nhận ra bốn cây bonsai do chính tay anh trồng rồi chuyển giao cho Lewis.
“Bức thư đâu?”, anh sốt ruột hỏi Cage.
“Đang trên đường rồi. Đang trên đường.”
Parker bật vài thiết bị lên. Có cái kêu rừ rừ, có cái kêu lách cách. Có cả những chiếc máy chỉ im lặng, đèn báo lờ mờ sáng lên như những cặp mắt cảnh giác.
Chờ đợi, chờ đợi…
Và cố không nghĩ về cuộc nói chuyện của anh với lũ trẻ cách đây một giờ, khi anh bảo với chúng rằng kế hoạch ngày lễ của ba bố con sẽ có sự thay đổi.
Cả hai đứa Who đều đang ở trong phòng Robby, sàn phòng ngập đầy đồ chơi Lego và Micro Machines.
“Chào các Who”.
“Con lên được mức ba rồi”, Stephie nói ngay, hất cằm về phía đầu đĩa Nintendo. Rồi con trúng phải bom”.
Robby thì đang tiến hành một cuộc chiếm đóng toàn diện trên chiếc giường của nó bằng trực thăng cùng máy bay chiến đấu.
Parker ngồi lên giường. “Các con có biết hai người vừa ở nhà mình không?”
“Cái cô xinh xinh mà bố cứ dán mắt vào ạ?”, con trai anh bẽn lẽn trả lời.
(“Chúng tinh ranh hơn bạn có thể đoán được”, lại cuốn Cẩm nang nói.)
“Ừ, họ báo với ba là một người bạn của ba bị ốm và ba phải đi thăm chú ấy một lát. Các con muốn ai đến trông mình nào?”
Ngoài những cô cậu học sinh, sinh viên chuyên trông trẻ theo giờ như lệ thường, Parker còn quen một nhóm các vị phụ huynh ở khu phố này, những người sẵn lòng trông bọn trẻ vào buổi tối. Bên cạnh đó là cô bạn Lynne sống trong thành phố của anh. Cô ấy sẽ lái xe xuống Fairfax để giúp anh nhưng anh chắc chắn là tối nay cô ấy đã có hẹn (chẳng đời nào Lynne lại không có một cuộc hẹn vào đêm Giao thừa thế này) và mối quan hệ của họ chẳng còn thân đến mức anh có thể đòi hỏi một sự hy sinh như vậy.
“Ba phải đi ạ?”, Robby hỏi. “Vào đêm nay á?”
Mỗi khi thằng bé thất vọng, nó đều trở nên bất động và biểu cảm thì chẳng hề thay đổi. Nó không bao giờ dỗi, cũng chẳng càu nhàu, dù Parker cảm thấy thích thế hơn. Nó chỉ cứng đơ người, như thể nỗi buồn đang đe dọa làm nó bị choáng váng. Và khi Robby nhìn lên anh với vẻ mặt bất động như thế, tay vẫn nắm chặt chiếc trực thăng đồ chơi bé xíu, Parker cảm nhận được nỗi thất vọng của con trai trong chính trái tim mình.
Stephie thì ít xúc động hơn, cảm xúc của nó cũng ít thể hiện ra ngoài hơn; phản ứng duy nhất là hất tóc ra khỏi mặt và cau mày hỏi anh, “Chú ấy sẽ không sao chứ ba? Bạn của ba ấy?”.
“Ba chắc là chú ấy sẽ ổn. Nhưng tốt hơn ba nên đi thăm chú ấy. Vậy… các con có muốn ba gọi Jennifer không? Hay là bà Cavanaugh?”
“Bà Cavanaugh ạ!”, cả hai nói gần như cùng một lúc, Robby đã thoát ra khỏi nỗi bi thương của nó. Bà cụ Cavanaugh, hàng xóm của họ, thường trông lũ trẻ vào các ngày thứ Ba khi Parker chơi bài poker với những người quanh đây.
Parker đứng lên, xung quanh là cả biển đồ chơi.
“Nhưng trước nửa đêm ba phải về đấy nhé”, Robby đòi hỏi “được không ba?”.
(“Đừng bao giờ hứa nếu có nguy cơ không giữ được lời”)
“Ba sẽ cố gắng hết sức có thể”
Parker ôm cả hai đứa con rồi đi ra cửa.
“Ba ơi?”, Stephie gọi, trông con bé hoàn toàn ngây thơ trong chiếc quần bò màu đen rộng và áo phông Hello Kitty. “Bạn của ba có muốn con làm cho chú ấy một tấm thiệp chúc chú ấy mau khỏi bệnh không ạ?”
Parker cảm thấy sự phản bội của mình như thể một cú đấm thực sự. “Được, con yêu. Ba nghĩ chú ấy còn thích hơn nữa nếu tối nay con chơi thật vui.”
Trở lại với hiện tại, cánh cửa phòng thí nghiệm bỗng mở toang, chen ngang dòng suy nghĩ khổ sở trước đó của anh. Một đặc vụ gầy gò và đẹp trai với mái tóc vàng vuốt ngược ra sau vừa bước vào. “Jerry Baker”, anh ta tuyên bố rồi đi đến chỗ Parker. “Anh là Parker Kincaid.”
Hai người bắt tay nhau.
Anh ta nhìn ngang qua phòng thí nghiệm. “Margaret”, anh ta chào. Lukas gật đầu chào lại.
“Anh là chuyên gia tác chiến?”, Parker hỏi anh ta.
“Đúng thế.”
Lukas giới thiệu, “Jerry đã xếp sẵn một đội S&S “.
Tìm kiếm và Giám sát, Parker nhớ lại.
“Cả các xạ thủ giỏi nữa”, Baker nói. “Tha thiết mong có cơ hội bắn bỏ tên quái vật này.”
Parker ngồi xuống chiếc ghế màu xám. Anh nói với Lukas, “Cô đã khám nghiệm xác của tên nghi phạm chưa?”.
“Rồi”, Lukas nói.
“Đã có báo cáo chưa?”
“Chưa.”
“Chưa à?”, Parker thấy khó chịu. Anh có những ý tưởng rất rạch ròi về chuyện tiến hành vụ điều tra như thế nào và anh có thể thấy Lukas cũng có ý kiến riêng. Anh tự hỏi mình sẽ gặp bao nhiêu rắc rối với người phụ nữ này. Có nên ứng xử khôn khéo hay không? Liếc nhìn khuôn mặt khắc nghiệt của cô ta, trắng xanh như màu đá cẩm thạch, Parker quyết định mình không có thời gian để lịch sự. Trong một vụ án có quá ít đầu mối như thế này, họ cần biết càng nhiều K, nhân tố đã nhận biết, của tên nghi phạm càng tốt. “Tốt hơn là nên xuống lấy ngay đi”, anh nói.
Cô đáp lại lạnh lùng, “Tôi đã ra lệnh cho họ chuyển lên đây nhanh nhất có thể”.
Nếu là mình thì anh đã cử ai đó, có thể là Hardy, chạy xuống lấy. Nhưng anh quyết định không đấu tranh vì chuyện nhỏ nhặt ấy. Anh sẽ cố chờ thêm mấy phút. Anh nhìn Baker. “Chúng ta có bao nhiêu người?”
“Ba mươi sáu, cộng với bốn mươi tám người của Sở cảnh sát Đặc khu.”
Parker cau mày. “Chúng ta cần nhiều người hơn thế.”
“Vấn đề ở chỗ đó”, Cage nói. “Hầu hết các đặc vụ đang hoạt động đều được đặt dưới chế độ báo động vì ngày lễ. Có tới mấy trăm ngàn người trong thành phố lúc này. Và rất nhiều đặc vụ của Bộ Tài chính lẫn Bộ Tư pháp đang làm nhiệm vụ vệ sĩ cho tất cả các nhà ngoại giao cùng thành viên Chính phủ hiện có mặt ở đây.”
Len Hardy lẩm bẩm, “Quá tệ là sự việc lại xảy ra đêm nay”
Parker khẽ cười. “Không hôm nay thì còn bao giờ nữa.”
Viên thanh tra trẻ nhìn anh đầy ngạc nhiên. “Ý anh là gì?”
Parker định trả lời thì Lukas nói, “Tên nghi phạm đã chọn đêm nay bởi vì gã biết chúng ta sẽ bị thiếu người”.
“Và vì có rất đông người trong thành phố”, Parker nói thêm. “Tên xạ thủ sẽ có được phạm vi bắn chết tiệt hắn cần. Hắn..
Anh ngừng lời và lắng nghe chính mình. Anh không thích điều mình vừa nghe thấy. Sống cùng bọn trẻ và chủ yếu làm việc độc lập đã khiến anh nền tính hơn hồi còn ở Cục; những nét thô bạo đã biến mất. Anh không bao giờ chửi thề và luôn cân nhắc trong đầu mọi lời mình sẽ nói với bọn Who. Giờ thì anh lại đang trở về cuộc sống khắc nghiệt trước đây của mình. Là một nhà ngôn ngữ học, Parker biết rằng việc đầu tiên mà người ngoài cuộc làm để thích nghi với một nhóm mới là nói theo ngôn ngữ của họ.
Parker mở chiếc cặp táp của mình ra: Một bộ giám định tài liệu nhỏ gọn. Trong cặp là đầy đủ những dụng cụ liên quan đến nghề anh theo đuổi. Ngoài ra còn có cả một mô hình Darth Vader nữa. Quà của Robby.
“Sức mạnh ở bên anh”, Cage nói. “Đêm nay, đây sẽ là vật cầu phúc của chúng ta. Bọn cháu nhà tôi mê loạt phim này lắm.”
Parker đặt nó lên bàn giám định. “Tôi thì ước gì mình có hình ObiWan Kenobi hơn.”
“Ai?”, Lukas cau mày, lắc đầu.
Hardy buột miệng, “Cô không biết à?”, rồi đỏ mặt bối rối khi cô lạnh lùng nhìn anh ta.
Parker cũng ngạc nhiên quá đỗi. Làm thế nào lại có người không biết gì về Chiến tranh giữa các vì sao nhỉ?
“Chỉ là một nhân vật trong phim thôi”, c. p. Ardell bảo cô.
Chẳng hề phản ứng, cô quay lại với bản thông báo nội bộ đang đọc dở.
Parker tìm chiếc kính lúp của mình gói trong lớp vải nhung đen. Đó là kính hiệu Leitz, độ phóng đại gấp mười hai lần, một công cụ cần thiết cho nhà giám định tài liệu. Joan đã tặng nó cho anh nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ hai của họ.
Hardy để ý thấy trong cặp của Parker còn có một cuốn sách. Anh nhìn thấy ánh mắt của chàng cảnh sát và lấy nó cho anh ta. Vắt óc tập năm. Hardy lật giở nó rồi đưa cho Lukas.
“Sở thích ấy mà”, Parker giải thích, liếc nhìn đôi mắt cô trong lúc cô lướt qua các trang sách.
Cage nói, “Ồ, anh chàng này mê trò giải đố lắm. Biệt danh của anh ta đấy. Bậc thầy giải đố”.
“Chúng là những bài tập tư duy định hướng”, Parker nói. Anh nhìn qua vai Lukas và đọc to lên, “Một người có ba đồng tiền mệnh giá tổng cộng bảy mươi sáu cent. Chúng được đúc ở Mỹ trong vòng hai mươi năm qua, vẫn đang được lưu thông và một đồng không phải đồng một penny. Hỏi mệnh giá của từng đồng tiền là bao nhiêu?”
“Chờ đã, một trong số chúng phải là đồng một penny chứ?”, Cage nói.
Hardy nhìn lên trần nhà. Parker tự hỏi tâm trí anh ta có quy củ như kiểu cách bên ngoài hay không. Viên cảnh sát suy tư một lúc. “Chúng có phải là tiền xu kỷ niệm không?”
“Không, nhớ lại đi… chúng vẫn đang được lưu thông.”
“Đúng nhỉ”, thanh tra cảnh sát nói.
Mắt Lukas quét qua sàn nhà. Tâm trí cô dường như đang ở một nơi khác. Parker không thể đoán được cô đang nghĩ gì.
Geller nghĩ một lát. “Tôi sẽ không tốn nơ-ron thần kinh vào nó đâu.” Anh ta quay lại với máy tính của mình.
“Bỏ cuộc à?”, Parker hỏi.
“Câu trả lời là gì?”, Cage hỏi.
“Người đó có một đồng năm mươi cent, một đồng hai lăm và một đồng một penny.”
“Chờ đã”, Hardy phản đối, “anh vừa bảo người đó không có đồng penny nào cơ mà”.
“Tôi không nói thế. Tôi bảo một đồng không phải là đồng một penny. Đồng năm mươi cent và hai lăm cent đương nhiên không phải rồi. Nhưng một trong số chúng lại đúng là đồng một penny.”
“Ăn gian”, Cage càu nhàu.
“Thế thì có vẻ dễ quá”, Hardy nói.
“Câu đố nào khi giải xong mà chả thấy dễ”, Parker nói, “Đời cũng thế mà, không đúng sao?”.
Lukas lật trang. Cô đọc, “Ba con diều hâu cùng bắt mất gà của bác nông dân. Một ngày nọ, cả ba con đậu trên mái chuồng gà. Bác nông dân chỉ có một viên đạn trong khẩu súng mà bọn diều hâu thì đứng cách nhau quá xa, nên bác chỉ có thể bắn hạ một con. Bác nông dân nhắm vào con diều hâu bên trái và bắn trúng nó. Viên đạn không bật nảy. Hỏi trên mái nhà còn bao nhiêu con chim?”.
“Rõ quá còn gì”, c. p. phản đối.
“Chờ đã”, Cage nói, “chắc là có bẫy đấy. Tưởng câu trả lời phải phức tạp, nhưng thực ra nó lại rất hiển nhiên. Cậu bắn một con và còn lại hai con. Chấm hết câu đố”.
“Câu trả lời của ông đấy à?”, Parker hỏi.
Cage nói không chắc chắn lắm, “Tôi đoán vậy.”
Lukas giở tới cuối cuốn sách.
“Thế là ăn gian đấy”, Parker nói, lặp lại lời Cage lúc trước.
Nhưng cô vẫn tiếp tục giở, rồi cau mày. “Lời giải đâu hết rồi?”
“Chẳng có lời giải nào cả.”
Cô hỏi, “Sách kiểu quái gì thế?”.
“Nếu không phải do cô tự mình tìm được thì đó chẳng phải là lời giải.” Parker liếc nhìn đồng hồ. Bức thư ở chỗ quái nào nhỉ?
Lukas quay lại với câu đố, nghiền ngẫm nó. Khuôn mặt cô rất xinh đẹp. Joan có một vẻ đẹp chết người với hai gò má cao, cặp hông nở nang cùng bộ ngực đồ sộ. Ngược lại, trong chiếc áo len đen bó sát người, thân trên của Margaret Lukas trông nhỏ gọn hơn. Cô có cặp đùi thon thả và rắn chắc, thể hiện rõ qua chiếc quần bò bó. Anh chợt thấy đôi tất trắng tinh nơi cổ chân cô, có lẽ là loại tất cao đến đầu gối Joan vẫn mặc bên trong quần dài.
“Cô ấy xinh thật; ba ạ”.
So với một cảnh sát thôi…
Một chàng trai trẻ trong bộ vest xám quá chật bước vào phòng thí nghiệm. Parker đoán đó là cậu văn thư mới trong phòng Phân phát thư và thông báo nội bộ.
“Đặc vụ Cage”, cậu ta gọi.
“Timothy, cậu có gì cho chúng tôi nào?”
“Tôi đang tìm đặc vụ Jefferson.”
Parker được Cage cứu thoát khỏi việc cất tiếng hỏi, “Ai cơ?”. “Tom Jefferson hả?”
“Vâng, thưa ngài.”
Ông ta chỉ vào Parker. “Anh ta đây”
Parker chỉ do dự đúng một giây rồi cầm lấy phong bì và ký cẩn thận viết chữ “Th. Jefferson” đúng như cách vị chính khách quá cố từng làm, mặc dù anh cẩu thả hơn ông ta rất nhiều.
Timothy rời đi và Parker nhướng một bên chân mày với Cage, ông ta chỉ nói, “Anh muốn nặc danh còn gì. Phù. Anh là kẻ vô danh”
“Nhưng làm sao…”
“Tôi là người tạo ra kỳ tích. Bảo anh thế mãi rồi.”
 
o O o
 
Digger đứng trong bóng râm bên ngoài nhà trọ của hắn, “39,99 đô một ngày, có bếp và truyền hình cáp miễn phí, chúng tôi còn phòng trống”.
Đây là khu vực nghèo nàn hơn của thành phố. Nó nhắc Digger về… click… chốn nào, chốn nào nhỉ?
Boston, không, White Plains… click… ở gần New… New York.
Click.
Hắn đang đứng bên cạnh một thùng rác bốc mùi và quan sát cửa mở vào căn phòng thoải mái của mình.
Hắn theo dõi người ra kẻ vào, y như người chỉ dạy hắn mọi điều bảo hắn làm. Theo dõi cửa chính. Quan sát căn phòng qua tấm rèm để mở.
Đến và đi.
Những chiếc ô tô vụt qua trên con phố tồi tàn, người qua lại đi bộ trên vỉa hè xập xệ. Digger trông y hệt họ, nhưng hắn cũng chẳng giống ai. Không ai thực sự nhìn thấy Digger.
“Xin lỗi”, một giọng nói cất lên. “Tôi đang đói. Tôi đã không ăn..”
Digger quay lại. Ngươi đàn ông nhìn sâu vào đôi mắt vô hồn của Digger và không thể hoàn tất câu nói của mình. Digger bắn ông ta bằng hai viên đạn vô thanh. Khi ông ta ngã xuống, Digger liền hẩy cái xác vào thùng rác màu xanh, trong lúc nghĩ rằng mình phải lắp lại bộ phận giảm thanh; nó không còn… click… không còn im lặng như trước.
Nhưng chẳng ai nghe được. Xe cộ đi lại nhiều quá.
Hắn nhặt vỏ đạn lên và nhét chúng vào trong túi quần.
Cái thùng rác có màu xanh khá đẹp.
Digger thích màu sắc. Vợ hắn trồng hoa màu đỏ và vàng. Nhưng hắn tin rằng không có hoa màu xanh.
Nhìn quanh. Chẳng có ai đang ở gần hắn.
“Nếu có kẻ nào đó nhìn vào mặt anh, thì phải bắn ngay”, người chỉ dạy hắn mọi điều nói. “Không ai được trông thấy mặt anh. Nhớ nhé!”
“Tôi sẽ ghi nhớ”, Digger đã trả lời như vậy.
Hắn nghe ngóng trong thùng rác. Im lặng. Thật buồn cười, vì khi người ta… click… khi người ta chết, người ta chẳng thể gây ra một tiếng động nào nữa.
Buồn cười…
Hắn lại tiếp tục quan sát cửa trước, rồi cửa sổ và cả những người đi trên vỉa hè.
Hắn xem đồng hồ. Hắn đã chờ được mười lăm phút.
Giờ là lúc có thể vào nhà.
Ăn một ít xúp, nạp lại đạn, lắp lại bộ phận giảm thanh. Hắn đã học cách làm việc đó vào một ngày thu tuyệt vời năm ngoái, có phải năm ngoái không nhỉ? Họ ngồi trên những khúc gỗ mới đốn và người dạy hắn mọi điều đã chỉ cho hắn cách nạp đạn vào súng, cũng như lắp bộ phận giảm thanh, bao quanh họ là những chiếc lá mang sắc màu xinh đẹp. Rồi hắn tập bắn, xoay vòng như con quay, cùng với khẩu Uzi, trong khi cành lá rơi khắp nơi. Hắn nhớ mùi của những chiếc lá khô héo và bốc cháy.
Hắn thích rừng hơn nơi này.
Mở cửa ra, bước vào trong.
Hắn gọi vào hộp thư thoại của mình và cẩn thận bấm mật mã. Một hai hai năm. Không có tin nhắn nào của người chỉ dạy hắn mọi điều. Hắn nghĩ mình hơi buồn vì không nghe tin tức gì từ anh ta. Chẳng có lấy một lời suốt từ sáng hôm nay. Hắn nghĩ mình đang buồn. Nhưng hắn không chắc buồn là gì.
Không tin nhắn, không tin nhắn.
Như thế có nghĩa là hắn nên lắp lại bộ phận giảm thanh, nạp đạn vào ổ và sẵn sàng ra ngoài lần nữa.
Nhưng trước hết, hắn phải ăn ít xúp và bật ti vi lên đã
Ăn ít xúp nóng hổi, ngon lành.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.