Giọt Lệ Quỷ

CHƯƠNG 7



Kính thưa đồng bào…
Họ phủ phấn lên trán ông, nhét tai nghe vào tai ông và bật những ngọn đèn sáng lóa.
Trong ánh sáng chói lòa, Thị trưởng Jerry Kennedy chỉ có thể nhận ra vài khuôn mặt khuất trong bóng tối của phòng Tin tức WPLT, đặt ngay phía sau Dupont Circle.
Kia là vợ ông, bà Claire. Rồi đến thư ký báo chí của ông. Và cả Wendell Jefferies.
Kính thưa đồng bào, Kennedy tập sẵn trong đầu. Tôi muốn đảm bảo với các bạn rằng lực lượng cảnh sát của thành phố chúng ta và FBI, không, các nhà chức trách liên bang đang làm mọi việc trong khả năng của họ để tìm ra thủ phạm, không, tìm ra những kẻ chịu trách nhiệm trong vụ xả súng kinh hoàng này.
Một trong những nhà sản xuất chính của đài, một người đàn ông gầy gò với bộ râu trắng được tỉa tót gọn gàng bước đến chỗ ngài thị trưởng và nói, “Tôi sẽ đếm ngược bảy giây cho ngài. Sau khi đếm đến bốn, tôi sẽ chỉ dùng ngón tay. Khi đến số một, ngài hãy nhìn vào máy quay. Ngài đã từng làm việc này rồi mà”.
“Tôi làm rồi.”
Nhà sản xuất nhìn xuống và không thấy có tờ giấy nào trước mặt Kennedy. “Ngài không có gì để nhắc vở à?”
“Trong đầu tôi rồi.”
Nhà sản xuất khẽ cười. “Giờ chẳng ai làm vậy cả.”
Kennedy làu bàu.
… chịu trách nhiệm cho tội ác kinh hoàng này. Và để nói với kẻ đang ở ngoài đó, tôi yêu cầu các người làm ơn, làm ơn… không, chỉ một chữ làm ơn thôi… Tôi yêu cầu các người làm ơn liên lạc lại để chúng ta có thể tiếp tục đối thoại. Vào ngày hôm nay, ngày cuối cùng của một năm đầy rẫy những khó khăn, hãy gạt bỏ bạo lực lại sau lưng chúng ta và cùng nhau hợp tác để không còn chết chóc nữa. Làm ơn hãy liên lạc trực tiếp với tôi… không… Làm ơn gọi trực tiếp cho tôi hoặc gửi một tin nhắn…
“Năm phút”, nhà sản xuất gọi.
Kennedy vẫy tay bảo thợ trang điểm rời đi và ra hiệu cho Jefferies tới chỗ mình. “Cậu nghe tin tức gì từ phía FBI chưa? Bất kỳ cái gì?”
“Không có gì cả. Chẳng một lời nào.”
Kermedy không tin nổi. Đã mấy tiếng rồi, hạn chót tiếp theo đang đến gần, vậy mà lần liên lạc duy nhất của ông với bên Cục chỉ là cuộc điện thoại ngắn gọn do một thanh tra Sở cảnh sát D.c. tên Len Hardy gọi tới, thay mặt đặc vụ Margaret Lukas, yêu cầu Kennedy lên sóng để cầu xin tên sát nhân. Kennedy bực tức nhớ lại rằng cái cô Lukas ấy còn không buồn đích thân gọi điện cho mình. Anh chàng cảnh sát quận Hardy, có vẻ đã bị mấy người bên Cục dọa dẫm, trong khi nhiệm vụ của anh ta chính là điều phối công việc với họ, lại chẳng biết chút gì về cuộc điều tra, hay chính xác hơn là không được phép tiết lộ bất cứ điều gì. Ông đã cố gọi cho Lukas nhưng cô ta dường như quá bận rộn, nên chẳng thể nghe điện. Cả Cage cũng vậy. Ngài thị trưởng có nói chuyện ngắn gọn với người đứng đầu Sở cảnh sát Đặc khu, nhưng ngoài chuyện cung cấp nhân lực để làm việc dưới trướng FBI, ông ta cũng chẳng liên quan gì đến vụ việc.
Kennedy giận điên người. “Họ không coi chúng ta ra gì. Chúa ơi. Tôi muốn làm gì đó. Ý tôi là, ngoài việc này”. Ông chỉ tay về phía máy quay. “Nghe cứ như tôi đang cầu xin vậy.”
“Đó mới là vấn đề”, Wendell Jefferies thừa nhận, “tôi đã tổ chức họp báo nhưng phân nửa các đài và hãng báo chí đều không cử người đến. Tất cả bọn họ còn đang cắm trại bên phố Ninth, chờ cho ai đó của Cục điều tra nói chuyện với mình.”
“Cứ như phía thành phố không tồn tại vậy, cứ như tôi đang ngồi lên hai bàn tay của chính mình.”
“Nhìn vào thì đúng là thế đấy.”
Nhà sản xuất bắt đầu đi về phía ông nhưng thị trưởng mỉm cười lịch sự với ông ta. “Một phút nữa.” Ông ta liền lui vào bóng tối.
“Thế nào?”, Kennedy hỏi trợ lý của mình. Ông đã trông thấy tia nhìn láu cá đằng sau cặp kính Armani của chàng trai trẻ.
“Đã đến lúc lấy lại vị thế của mình”, Jefferies thì thầm. “Tôi có thể làm được. Thật đấy. Tôi biết phải xử lý việc này thế nào.”
“Tôi không…”
“Tồi cũng chẳng muốn làm thế này đâu”, Jefferies nóng nảy nói, anh ta chưa bao giờ ngần ngại khi đưa ra lời khuyên cho ông chủ của mình, “nhưng chúng ta không còn lựa chọn nào khác. Ngài đã nghe bình luận trên đài WTGN rồi đấy”.
Tất nhiên là ông đã nghe. Đài phát thanh nổi tiếng với nửa triệu thính giả ở khu vực trung tâm ấy đã cho đọc một bài xã luận, nói về việc Kennedy hứa hẹn đoạt lại đường phố Washington từ tay lũ tội phạm ra sao trong chiến dịch tranh cử, ấy thế mà lại vội vã trả hàng chục triệu tiền chuộc cho bọn khủng bố ngày hôm nay. Bình luận viên của đài, một nhà báo già cáu kỉnh, lại còn trích dẫn những lời hứa khác của Kennedy về việc quét sạch bệnh tham nhũng ở Đặc khu, trong khi ông ta hoàn toàn không biết gì mà thậm chí còn có thể tham dự vào vụ bê bối xây dựng của ủy ban Giáo dục.
Jefferies nhắc lại, “Chúng ta thực sự không còn lựa chọn nào khác, Jerry”.
Ngài thị trưởng suy nghĩ một lát. Như mọi khi, trợ lý của ông nói đúng. Kennedy đã thuê cậu ta là vì, với tư cách một thị trưởng da trắng, ông cần đến một trợ lý da màu cao cấp. Ông đã không hề hối hận bởi lựa chọn thuê người mang tính chiến thuật ấy. Nhưng ông đã rất kinh ngạc vì chàng trai trẻ này sở hữu một khả năng phán đoán chính trị khác thường so với những người xuất thân bình dân.
Trợ lý của ông nói, “Đến lúc phải mạnh tay rồi, Jerry. Có quá nhiều thứ hiện đang bị đe dọa”.
“Được rồi, cứ làm những việc cậu phải làm.” Ông chẳng cần nói thêm, “Hãy cẩn trọng”, bởi biết rằng Jefferies luôn như vậy.
“Hai phút”, một giọng nói phía trên vang lên.
Kennedy nghĩ tới Diggen đang ở đâu? Ở đâu? Ông nhìn vào chiếc máy quay tối om và cứ nhìn mãi như thế, tựa hồ bằng cách nào đó ông có thể nhìn xuyên qua ống kính và dây cáp tới màn hình ti vi nào đó mà trông thấy Digger. Ông nghĩ về tên sát nhân, Mi là ai? Và tại sao mi cùng với đồng phạm chọn ghé thăm thành phố của ta cứ như thần báo tử?
trên tinh thần hòa bình, vào ngày cuối năm này, hãy liên hệ với tôi để chúng ta có thể đi đến thấu hiểu nhau.. Làm ơn…
Jefferies cúi sát bên tai thị trưởng. “Nhớ là”, anh ta nói, vung tay khắp đài truyền hình, “nếu hắn đang lắng nghe, tên sát thủ ấy, thì đây sẽ là kết thúc cho mọi chuyện. Có lẽ hắn sẽ đến lấy tiền và chúng ta sẽ tóm được hắn”.
Trước khi Kennedy kịp trả lời, một giọng nói trên cao đã la lên, “Một phút”.
 
o O o
 
Digger có một chiếc túi mua hàng mới.
Đỏ rực và có không khí Giáng sinh, in đầy hình ảnh những chú cún con được buộc nơ quanh cổ. Digger đã mua cái túi ở một cửa hàng Hallmark. Đó là kiểu túi sẽ khiến hắn cảm thấy tự hào, mặc dù hắn không chắc tự hào nghĩa là gì. Hắn không chắc về rất nhiều thứ kể từ khi một viên đạn xuyên qua sọ hắn, đốt cháy một ít chất xám và để lại những thứ khác.
Chuyện ấy xảy ra thật buồn cười. Buồn cười vì…
Buồn cười…
Digger ngồi trên chiếc ghế bành êm ái trong phòng trọ rẻ tiền của hắn, với ly nước và bát xúp trống không bên cạnh.
Hắn đang xem ti vi.
Có gì đó trên màn hình. Một đoạn quảng cáo. Giống đoạn quảng cáo hắn còn nhớ là mình đã xem sau khi viên đạn đục thủng một lỗ phía trên mắt hắn và nhảy múa lung tung trong cái hộp sờ sờ sọ (nguyên văn: crane crane cranium) của hắn. (đó đã mô tả Ai về viên đạn như vậy. Hắn không nhớ là ai. Có lẽ một người bạn, hoặc là người chỉ dạy hắn mọi điều. Rất có khả năng.)
Có gì đó nhấp nháy trên màn hình. Nó gợi lại một ký ức khôi hài, từ rất lâu rồi. Hắn đang xem một đoạn quảng cáo, còn lũ chó thì đang ăn thức ăn dành riêng cho mình, giống những chú cún trên cái túi của hắn vậy. Hắn đang xem quảng cáo khi người chỉ dạy hắn mọi điều nắm lấy tay Digger và họ cùng đi dạo thật lâu. Anh ta đã bảo hắn rằng khi Ruth ở một mình… “Anh biết Ruth chứ?”
“Tôi, ừm, có biết Ruth.”
Khi Ruth ở một mình, Digger phải đập vỡ tấm gương rồi tìm một mảnh kính và cứa vào cổ cô ấy.
“Ý anh là.. Digger không nói nữa.
“Ý tôi là anh nên đập vỡ tấm gương và tìm một mảnh kính dài, sau đó anh nên cứa vào cổ Ruth. Ý tôi còn là gì được nữa?”
“Tôi nên đập vỡ tấm gương và tìm một mảnh kính dài, sau đó tôi nên cứa vào cổ cô ấy.”
Có những điều mà Digger ghi nhớ cứ như chính Chúa trời đã viết nó vào trong não của hắn.
“Tốt”, người đó nói.
“Tốt”, Digger nhắc lại. Và hắn đã làm đúng như được bảo. Việc ấy khiến người chỉ dạy hắn mọi điều rất vui. Dù vui nghĩa là gì.
Giờ thì Digger đang ngồi, với chiếc túi có hình chó con đặt trên đùi, trong phòng một nhà nghỉ dành cho khách lái xe, có gian bếp, miễn phí cáp truyền hình, và giá cả phải chăng. Hắn nhìn vào bát xúp của mình. Chiếc bát đã trống không nên hẳn là hắn không đói nữa. Hắn nghĩ mình khát nên uống một ít nước.
Một chương trình khác đang phát trên ti vi. Hắn đọc chữ, lẩm nhẩm thành lời, “Bản tin đặc biệt”. Hừm. Hừm. “Đây là…
Click. Đây là…
Click.
Bản tin đặc biệt của đài WPLT.
Quan trọng đây. Mình nên nghe.
Một người đàn ông mà Digger biết mặt xuất hiện trên sóng truyền hình. Hắn đã trông thấy ảnh của người này. Đó là…
“Thị trưởng của Washington D.C., Gerald D. Kennedy” là những chữ hiện trên màn hình.
Ngài thị trưởng đang nói và Digger lắng nghe.
“Kính thưa đồng bào, xin chào! Như tất cả các bạn đều đã biết, một tội ác kinh khủng đã xảy ra sáng nay tại ga tàu Metro Dupont Circle, và bi kịch ấy đã cướp đi sinh mạng của nhiều người. Vào thời điểm này, một hay nhiều tên sát nhân vẫn chưa bị bắt. Nhưng tôi muốn đảm bảo với các bạn rằng lực lượng cảnh sát của chúng ta cùng các nhà chức trách liên bang đang làm hết khả năng của họ để chắc chắn rằng tội ác tương tự sẽ không tái diễn.”
“Với những kẻ chịu trách nhiệm cho nỗi tang thương này, tôi thành tâm yêu cầu các người, làm ơn, làm ơn hãy liên lạc với tôi. Chúng ta cần tái thiết lập liên lạc để tiếp tục đối thoại. Vào thời điểm này, đêm cuối cùng của năm cũ, hãy gạt bỏ bạo lực lại sau lưng và cùng nhau hợp tác để không còn chết chóc hay đổ máu nữa. Chúng ta có thể..
Chán…
Digger tắt ti vi. Hắn thích những đoạn quảng cáo thức ăn cho chó với những chú cún dễ thương hơn nhiều. Quảng cáo ô tô cũng được. Ôi, mỗi ngày người ta… Digger gọi vào hòm thư thoại của hắn và bấm mã, một-hai-hai-năm. Ngày Giáng sinh.
Người phụ nữ có giọng không giống Pamela vợ hắn mà giống Ruth hơn, tất nhiên đấy là trước khi mảnh gương xuyên vào cổ họng cô ta, nói rằng hắn không có tin nhắn mới nào.
Như vậy có nghĩa là đã đến lúc hắn phải làm việc mà người chỉ dạy hắn mọi điều đã bảo.
Nếu bạn làm đúng như những gì được bảo, đó là việc tốt. Họ sẽ thích bạn. Họ sẽ ở bên bạn mãi mãi.
Họ sẽ yêu bạn.
Dù yêu nghĩa là gì.
Giáng sinh an lành, Pamela, anh có thứ này cho em… Và em cũng có gì đó cho anh! Ôi trời, ôi trời.., một món quà.
Click, click.
Trên tay em có bông hoa vàng đẹp quá, Pamela. Cảm ơn về cái áo khoác. Giờ thì Digger khoác áo vào, nó có màu đen hoặc màu xanh. Hắn yêu chiếc áo này.
Hắn mang bát xúp của mình vào bếp và đặt vào bồn rửa.
Hắn lại thắc mắc tại sao mình chưa nghe tin gì từ người chỉ dạy hắn mọi điều. Người đã bảo rằng có thể anh ta sẽ không gọi, nhưng Digger vẫn cảm thấy tâm trí mình hơi lấn cấn và thấy tiếc vì không được nghe giọng người đàn ông ấy. Ta buồn chăng? Hừm. Hừm.
Hắn tìm đôi găng tay của mình, chúng rất đẹp, ở mặt sau ngón tay còn có những đường gân. Mùi của chúng khiến hắn nhớ về điều gì đó trong quá khứ, nhưng không thể nhớ rõ là gì. Hắn mang găng tay cao su khi nạp đạn vào khẩu Uzi. Nhưng mùi cao su dở tệ. Hắn đeo găng da khi mở cửa chính, chạm vào những thứ ở gần nơi mình đã xả súng và nhìn người ta ngã xuống như lá lìa cành trong rừng.
Digger cài khuy áo khoác, chiếc áo màu xanh, hoặc màu đen.
Hắn lại hít hà găng tay của mình.
Buồn cười thật.
Hắn đặt khẩu súng và thêm đạn vào chiếc túi hình chó con.
Bước ra ngoài phòng trọ của mình, Digger đóng cửa lại sau lưng. Khóa thật cẩn thận, đúng như người ta bảo. Digger biết rất nhiều về cách thức bạn phải làm điều gì đó.
Chẳng hạn như găm một mảnh gương vào cổ người phụ nữ. Mua cho vợ một món quà. Ăn xúp. Tìm một chiếc túi mua hàng sáng bóng. Cái nào có hình chó con ở trên ấy.
“Sao lại là chó con?”, Digger từng hỏi.
“Chỉ vì thế thôi”, người chỉ dạy hắn mọi điều nói.
Và thế là hắn mua một cái túi như vậy.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.