Kẻ Nhắc Tuồng
Chương 23 – Phần 2
Sau chỗ rẽ là nơi phát ra nguồn nhiệt.
Boris và Mila chầm chậm tiến về phía đó. Khi đi ngang qua một trong những cánh cửa khép hờ, Mila nhận ra tiếng động nhịp nhàng của thông điệp kêu cứu bằng mã Morse mà họ đã nhận được. Cô nhẹ nhàng mở cửa và phát hiện ra đó là phòng của cậu con trai mười một tuổi. Những tấm áp phích hình các hành tinh phủ kín các bức tường, sách thiên văn học chiếm đa số trên các kệ sách. Một chiếc kính viễn vọng được đặt ngay trước cửa sổ.
Trên chiếc bàn học nhỏ, cô thấy một mô hình thu nhỏ tái hiện lại thiết bị đánh điện tín hồi đầu thế kỷ XX. Nó gồm một miếng gỗ nhỏ và hai cục pin khô được nối thông qua các điện cực và dây đồng với một chiếc đĩa đục lỗ quay trên một bánh răng theo từng đợt – ba chấm, ba gạch, ba chấm. Tất cả được nối dây với một máy bộ đàm hình khủng long. Mô hình được gắn một tấm bảng nhỏ bằng đồng để chữ GIẢI NHẤT.
Tín hiệu phát ra từ đây.
Cậu bé đã biến bài tập của mình thành một trạm phát tín hiệu, tránh được sự kiểm soát và cấm đoán của kẻ cầm tù ba mẹ con.
Mila hướng chùm sáng đèn pin vào chiếc giường chưa dọn. Bên dưới nó có một cái xô nhựa. Cô còn để ý thấy những vết trầy xước nơi gờ của đầu giường.
Căn phòng đối diện trong hành lang là của cô chị gái mười sáu tuổi. Trên cửa phòng dán những chữ cái đủ màu tạo thành một cái tên: Keira. Đứng trên ngưỡng cửa, Mila quét mắt nhìn nhanh trong phòng. Vải trải giường bị vo thành một cục tròn nằm dưới sàn. Một cái tủ nhiều ngăn đựng quần áo lót lăn kềnh trên sàn. Chiếc gương của tủ commốt đã bị quay vào giường. Không khó để hiểu lý do tại sao. Ở đây cũng có những vết trầy xước trên thanh đầu giường.
Còng số tám, Mila thầm nghĩ. Ban ngày hắn còng họ vào giường.
Một cái xô nhựa bẩn khác được đặt trong một góc phòng. Chắc nó được dùng cho nhu cầu cá nhân.
Cách đó vài ba mét là phòng ngủ của Yvonne. Nệm giường bẩn thỉu, chỉ có một lớp vải trải. Trên lớp thảm trải sàn có dấu vết nôn mửa và băng vệ sinh đã sử dụng. Ở một bức tường, trên cái đinh lúc trước từng dùng để treo tranh là một chiếc thắt lưng da đập vào mắt, lời nhắc nhở đến kẻ ra lệnh và cách thức thực thi mệnh lệnh của hắn.
Đây là phòng chơi bời của mày, thằng khốn nạn! Tao nghĩ mày cũng thỉnh thoảng lượn sang phòng của con bé nữa! Và khi đã chán hai mẹ con, mày sẽ mò sang phòng thằng bé để tẩn cho nó mấy cái…
Cơn giận là thứ cảm xúc còn lại duy nhất của Mila. Và cô tận dụng nó, hút lấy hút để từ trong cái giếng tối tăm đó.
Đã bao nhiêu lần, bà Yvonne Gress bị buộc phải “chiều chuộng” con quái vật ấy, nhằm giữ hắn lại trong căn phòng này và không để hắn trút giận lên đầu hai đứa con của bà?
– Chú ý, có gì đó đang chuyển động. – Stern cảnh báo.
Boris và Mila nhất loạt quay về phía chỗ rẽ ngoặt trong hành lang. Không còn thời gian để trinh sát nữa. Họ chĩa súng và đèn về hướng đó, chờ đợi một thứ gì đó xuất hiện.
– Đứng yên! – Boris hô to.
– Nó đang tiến đến chỗ hai người.
Mila đặt ngón trỏ lên cò súng và bắt đầu ấn nhẹ vào đó. Tim cô đập càng lúc càng mạnh.
– Nó ở ngay đằng sau góc tường.
Con vật kêu rên một tiếng nhỏ. Một cái mõm lông lá xuất hiện và quan sát họ. Một con chó giống Terre-neuve. Mila hạ vũ khí, Boris cũng làm theo.
– Mọi chuyện ổn cả. – Anh nói vào bộ đàm. – Chỉ là một con chó thôi.
Con vật có bộ lông cứng và dính bết, đôi mắt đỏ. Nó đang bị thương ở một chân.
Hắn đã không giết nó, Mila thầm nghĩ trong khi tiến lại gần con vật.
– Lại đây nào, cưng, lại đây…
– Nó đã sống sót một mình trong gần ba tháng ròng. Làm sao nó sống được? – Boris hỏi.
Mila càng tiến tới thì con chó càng thụt lùi.
– Coi chừng. Nó đang hoảng sợ. Nó có thể cắn cô đấy.
Cô phớt lờ lời khuyến cáo của Boris và tiếp tục tiến về phía con chó. Cô quỳ xuống để làm nó an tâm, trong khi tiếp tục gọi:
– Lại đây, bé cưng, lại đây nào.
Khi đã đến đủ gần, cô nhìn thấy một bảng tên gắn vào vòng cổ của con chó. Nhờ ánh sáng đèn pin, cô có thể đọc được tên của con vật.
– Terry, lại đây nào, ngoan nào…
Rốt cuộc con chó cũng để cho cô tiếp cận. Mila đưa một tay lên trước mõm nó để nó ngửi.
Boris tỏ ra sốt ruột.
– Được rồi đấy, chúng ta kiểm tra nốt tầng trên này rồi gọi mọi người vào.
Con chó giơ một chân khều Mila, như thể nó muốn chỉ cho cô xem một thứ gì đó.
– Chờ đã…
– Cái gì vậy?
Cô không đáp mà chỉ đứng dậy. Con chó lại quay về chỗ rẽ của hành lang.
– Nó muốn chúng ta đi theo.
Hai người đi sau con chó. Sau ngã rẽ, hành lang chỉ còn tiếp tục thêm vài mét. Ở cuối hành lang, bên phải, có một căn phòng cuối cùng. Boris xem sơ đồ.
– Nó trông ra mặt hậu, nhưng tôi không biết nó là phòng gì.
Cửa phòng đang đóng. Phía trước nó có nhiều món đồ nằm lộn xộn. Một cái chăn may chần với họa tiết khúc xương, một cái tô, một quả bóng nhiều màu, một sợi dây dắt chó và đồ ăn thừa.
– Ra đây là kẻ đã lục đồ ăn. – Mila nói.
– Tôi tự hỏi sao nó lại đem đồ chơi của mình đến chỗ này…
Con chó tiến lại gần cánh cửa, như thể muốn khẳng định cái ổ của nó nằm ở đó.
– Anh nghĩ nó dọn vào chỗ này một mình à? Tại sao chứ?
Như để trả lời cho câu hỏi của Mila, con chó bắt đầu cào vào cánh cửa và rên ư ử.
– Nó muốn chúng ta vào trong.
Mila cầm lấy sợi dây và buộc con vật vào một cái máy sưởi.
– Ngoan nào, Terry.
Con chó sủa một tiếng, xem vẻ đã hiểu. Nó tránh khỏi lối đi trong lúc Mila cầm lấy tay nắm và Boris chĩa súng vào cánh cửa. Thiết bị tầm nhiệt không phát hiện được sự hiện diện của sinh vật sống nào khác, nhưng ai mà biết được. Tuy vậy cả hai người đều tin rằng, phía sau tấm chắn mỏng manh này là kết cục bi thảm của những điều đã xảy ra trong những tháng vừa qua.
Mila ấn mạnh tay nắm để mở khóa cửa, rồi đẩy nhẹ. Ánh sáng đèn pin chọc xuyên qua bóng tối, nhảy từ bên này sang bên kia căn phòng.
Nó trống không.
Căn phòng rộng khoảng hai mươi mét vuông. Sàn phòng không trải thảm, các vách tường được sơn trắng. Ô cửa sổ bị che kín bởi một tấm rèm dày. Một bóng đèn treo trên trần. Dường như căn phòng này chưa từng được sử dụng.
– Sao con chó dẫn chúng ta vào trong này? – Mila tự hỏi chính mình nhiều hơn là hỏi Boris. – Bà Yvonne và bọn trẻ đâu?
Cô tránh không hỏi thẳng rằng “Xác của ba mẹ con ở đâu?”
– Stern.
– Tôi đây.
– Anh bảo đội khoa học vào đi. Chúng tôi xong việc rồi.
Mila bước ra hành lang, cởi dây buộc con chó. Nó lập tức lao vào trong phòng. Mila chạy theo và thấy nó chúi mũi vào một góc.
– Terry, mày không thể ở đây được.
Nhưng con chó không nhúc nhích. Mila bèn tiến lại gần, tay cầm sợi dây dắt chó. Con vật lại sủa, nhưng không có vẻ đe dọa. Rồi nó bắt đầu hít hít sàn nhà gần chân tường. Mila cúi xuống cạnh nó, đẩy mõm nó ra và rọi đèn pin vào. Chẳng có gì. Nhưng rồi cô nhìn thấy.
Một vết màu nâu.
Nó có đường kính nhỏ hơn ba milimet. Mila cúi xuống gần hơn. Cô thấy nó có góc cạnh và bề mặt dợn sóng.
Cô không còn nghi ngờ gì về nó nữa.
– Đây là nơi chuyện đó xảy ra.
Boris không hiểu chuyện gì.
Rồi cô quay về phía anh
– Đây là nơi hắn đã giết họ.
– Thật ra chúng tôi biết có người vào nhà, nhưng mà… các anh biết đấy, Yvonne Gress là một phụ nữ hấp dẫn, sống một mình nên… thỉnh thoảng vẫn được đàn ông khu này ghé chơi vào đêm hôm khuya khoắt.
Tay đội trưởng đội bảo vệ gục gặc đầu đầy ngụ ý khiến cho Goran phải phản ứng bằng cách nhón gót, đưa mắt mình ngang tầm mắt anh ta.
– Sao anh dám bóng gió những chuyện như thế…
Ông nói với một giọng bình thường nhưng hàm chứa đầy vẻ đe dọa.
Tay bảo vệ đáng lẽ phải giải thích về sai sót nghiêm trọng của mình và các thuộc cấp. Nhưng ngược lại, anh ta đang cố dùng thủ đoạn đã thống nhất với đám luật sư của Capo Alto. Họ tìm cách biến bà Yvonne Gress thành một phụ nữ dễ dãi dựa trên việc bà đã bỏ chồng và sống độc thân.
Goran lưu ý rằng kẻ lạ mặt – vì họ chưa thể xác định danh tính của hắn – kẻ đã ra vào nhà bà Yvonne trong suốt sáu tháng trời, đã lợi dụng chính cái cớ đó để hành động tùy thích.
Ông và Rosa đã xem hầu hết các đoạn video an ninh được quay trong thời gian trên. Cùng một sự việc như thế đã diễn ra gần như mỗi ngày. Thỉnh thoảng gã đàn ông không ở lại qua đêm, Goran tự nhủ đó là những thời điểm dễ thở nhất cho gia đình bị cầm tù kia. Nhưng biết đâu đó là những lúc tệ hại nhất, vì họ bị trói vào giường và không được ăn uống gì nếu bị hắn bỏ mặc.
Bị bạo hành cũng có nghĩa là còn sống, trong hành trình vô tận đi tìm cái ác ít kinh khủng hơn.
Trong các đoạn băng ghi hình, họ nhìn thấy gã đàn ông vào ban ngày, trong khi hắn làm việc trên công trường. Hắn luôn đội mũ lưỡi trai để không bị quay rõ mặt.
Stern đi dò hỏi công ty chủ quản đã thuê hắn theo hợp đồng mùa vụ. Họ bảo hắn tên là Lebrinsky, nhưng đó là một cái tên giả. Chuyện này xảy ra cũng là điều bình thường, đặc biệt là vì các công trường xây dựng hay dùng lao động nước ngoài chưa có giấy tờ lưu trú. Theo luật, chủ lao động phải có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ của họ để xem họ có hợp pháp hay không.
Nhiều công nhân từng làm việc ở công trình xây dựng biệt thự Kobashi cho biết kẻ có tên Lebrinsky là một người ít nói, sống khép mình. Họ cung cấp những mô tả về hắn nhằm dựng lên một chân dung trên máy tính. Nhưng các mô tả quá khác biệt nên không thể sử dụng được.
Khi đã xong việc với tay đội trưởng đội bảo vệ, Goran vào gặp những người còn lại trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress, vốn đã được nhóm của Krepp “càn quét” nãy giờ.
Mấy cái khuyên xỏ lấp lánh trên khuôn mặt của chuyên gia vân tay trong khi ông di chuyển như một vị thần trong khu rừng ma thuật. Bởi bây giờ ngôi nhà trông thật khác thường: thảm trải sàn đã được bao phủ toàn bộ bằng một lớp nhựa trong, các ngọn đèn halogen được đặt đây đó để chiếu sáng nhiều chỗ, có khi chỉ một chi tiết rất nhỏ. Những con người trong bộ đồ bảo hộ màu trắng và đeo mặt nạ trong suốt đang phủ bột hóa chất lên mọi thứ.
– Đối tượng của chúng ta không được thông minh cho lắm. – Krepp bình phẩm. – Ngoại trừ sự lộn xộn do con chó gây ra, hắn đã bỏ lại đủ thứ rác rưởi: lon bia, đầu lọc thuốc lá, ly cốc bẩn. Dữ liệu di truyền nhiều đến độ ta có thể nhân bản hắn!
– Còn dấu tay? – Sarah Rosa hỏi.
– Cả đống! Nhưng đáng tiếc là hắn chưa bao giờ vào tù nên ta chưa có thông tin trong hệ thống.
Goran lắc đầu: dấu vết nhiều như thế mà họ thậm chí không tìm ra nổi một kẻ tình nghi. Rõ ràng tên ăn bám này bất cẩn hơn nhiều so với Albert, kẻ đã phá hoại hệ thống camera an ninh trước khi đưa thi thể bé gái vào trong nhà của Kobashi. Chính vì vậy ông thấy có điều gì đó không hợp lý.
– Vậy còn xác của các nạn nhân? Chúng ta đã xem hết băng an ninh, kẻ ăn bám chưa bao giờ mang thứ gì ra khỏi căn nhà này.
– Vì gã không đưa họ ra ngoài qua cửa chính…
Mọi người bối rối nhìn nhau, cố hiểu ý nghĩa của câu nói. Krepp giải thích thêm:
– Chúng tôi đang kiểm tra các cống rãnh. Tôi tin là hắn đã phi tang các xác chết theo ngả đó.
Hắn đã cắt họ thành từng mảnh nhỏ, Goran thầm kết luận. Tên cuồng sát đã nhập vai ông chồng và người cha hờ dễ thương, để rồi một ngày kia khi đã chán, hoặc có thể là khi đã hết việc ở công trình đối diện, hắn đã vào đây một lần cuối cùng. Ông tự hỏi liệu bà Yvonne và các con có dự cảm được kết cục của họ hay không.
– Nhưng tôi dành chuyện quái lạ nhất để nói sau cùng… – Krepp lên tiếng.
– Chuyện gì mới được chứ?
– Căn phòng trống trên gác, nơi cô bạn cảnh sát của chúng ta đã tìm thấy vết máu nhỏ tí ấy.
Mila cảm thấy cái nhìn đầy ẩn ý của Krepp chiếu vào mình. Goran thấy cô cứng người phòng thủ. Krepp làm nhiều người phát sợ.
– Căn phòng trên gác là nhà nguyện Sixtine của tôi. – Ông nói. – Vết máu khiến chúng ta nghĩ đó là nơi xảy ra vụ thảm sát, trước khi được hắn lau chùi sạch sẽ, mặc dù còn để sót một vết máu nhỏ. Nhưng hắn thậm chí còn đi xa hơn thế. Hắn đã sơn lại các bức tường.
– Tại sao? – Boris hỏi.
– Vì hắn rất ngu. Rõ ràng là thế. Sau khi đã để lại cả đống rác rưởi lẫn dấu vết và xả tuột mọi thứ xuống cống, hắn đã kiếm cho mình đủ án chung thân. Vậy thì, việc quái gì phải đi sơn lại căn phòng đó?
Goran cũng thấy động cơ của hành động đó không rõ ràng.
– Vậy anh sẽ làm gì tiếp?
– Tôi sẽ bóc đi lớp sơn để xem có gì bên dưới. Việc này cần nhiều thời gian, nhưng với các công nghệ mới tôi có thể thu thập mọi vết máu mà tên đần kia đã phi tang một cách tầm thường đến thế.
Goran cảm thấy chưa được thuyết phục.
– Hiện tại chúng ta chỉ mới có một vụ giam giữ người bất hợp pháp và che giấu thi thể. Hắn sẽ bị kết án chung thân, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã lập lại công lý. Để làm sáng tỏ sự thật và buộc hắn nhận tội giết người, chúng ta cần chỗ máu đó.
– Ông sẽ có, thưa giáo sư.
Cho đến lúc này, họ vẫn chỉ có được một mô tả rất vắn tắt về đối tượng tìm kiếm. Họ kết hợp chúng với các thông tin mà Krepp thu thập được.
– Tôi có thể nói đây là một gã đàn ông tuổi từ bốn mươi đến năm mươi. – Sarah Rosa khơi mào. – Vóc người vạm vỡ, cao khoảng một mét sáu tám.
– Các dấu giày trên thảm có cỡ bốn mươi ba, nên tôi nghĩ mô tả tương đối trùng khớp.
– Nghiện thuốc.
– Hắn hút thuốc rê.
– Giống tôi. – Boris nói. – Rất vui khi được có một điểm chung nào đó với một gã như hắn.
– Có thể nói hắn yêu chó. – Krepp chốt lại.
– Chỉ vì hắn để cho con chó sống sót thôi à? – Mila hỏi.
– Không phải thế. Chúng tôi đã tìm thấy nhiều loại lông chó lai.
– Nhưng làm sao có thể khẳng định hắn là người đem lông chó vào nhà?
– Lông chó nằm trong chỗ bùn của các vết giày trên thảm. Đương nhiên trong đó có cả các vật liệu xây dựng, xi măng, mát tít, dung môi – thứ trở thành keo dán cho tất cả những thứ khác. Và dĩ nhiên cho cả những thứ hắn mang từ nhà mình đến.
Krepp nhìn Mila theo kiểu một người bỗng dưng đụng phải thách thức nhưng đã vượt qua một cách khéo léo. Sau phút giây đắc thắng đó, ông quay mắt đi và thoắt biến trở lại thành chuyên gia lạnh lùng như mọi người vẫn biết.
– Và còn một điều này nữa, nhưng tôi vẫn chưa rõ liệu nó có ý nghĩa gì không…
– Nói luôn đi. – Goran ra lệnh, biết tỏng Krepp thích được người khác nài nỉ.
– Trong chỗ bùn của các dấu giày, có một lượng vi khuẩn lớn. Tôi đã tham khảo ý kiến một nhà hóa học đáng tin cậy…
– Tại sao là hóa học mà không phải vi sinh vật học?
– Bởi vì tôi nghĩ chúng là những vi sinh vật “ăn rác” tồn tại trong thiên nhiên nhưng được sử dụng cho các chức năng khác nhau, chẳng hạn như tiêu hủy nhựa, hoặc các dẫn chất của dầu mỏ. Thực ra không phải chúng “ăn” thực sự, mà chỉ sản xuất ra một loại men. Người ta dùng men đó để xử lý các bãi rác cũ…
Nghe đến đây, Goran thấy Mila và Boris quay sang nhìn nhau.
– Bãi rác cũ? Khốn nạn… Chúng tôi biết gã này!
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.